Truyện song chet mac bay
……………. Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tả. Nước sông Nhị Hà lên lên to quá, khúc đê làng…thuộc phủ… xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thầm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất. Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ hết sức giữ gìn, kẻ thuổng kẻ thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt lướt thướt như chuột lột .Tình cảnh trông thật thảm. Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử cả, ấy vậy mà trên trời vẫn mưa tầm tả trút xuống, dưới sông thì nước bốc lên. Than ôi! sức người khó lòng địch nổi sức
trời! Thế đê không sao cự lại dược với thế nước! Lo thay ! nguy thay! Khúc đê này hỏng mất. ấy lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ,đem thân yếu hèn mà chống với mưa to gió lớn, để bảo thủ lấy tính mạng, gia tài, thế thời quan cha mệ ở đâu? Trong đình đèn thắp sáng trưng, nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập mơi kê ở gian giữa, có một mình quan phụ mẫu, uy nghi chêm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duổi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi. Một tên lính lê đứng bên, cầm cái quạt lông chốc chốc lại phe phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay chực hầu điếu đóm.Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rể tía , hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào chuôi dao ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bổng trông mà thích mắt.chung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu gian,thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất,thầy thông nhì sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tống ở tại cũng ngồi hầu bài. Ngoài kia tuy mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch, nghiêm trang lắm: trừ quan phụ mẫu mọi người không dám to tiếng. So với cảnh trăm họ đang lấm láp, gội gió tắm mưa như đàn sâu lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ, nguy nga: nào quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới, người nhà lính lệ khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh. Thỉnh thỏang nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: “Ðiếu mày”, tiếng tên lính hầu thưa: “Dạ”; tiếng thầy đề hỏi: “Bẩm bốc”, tiếng quan lớn truyền: “ừ”. Kẻ này “bát sách! ăn”. Người kia “thất văn”!….”Phỗng”, lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái; khi cười, khi nói, vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vị phúc tinh. *** Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi xong bát yến vừa xong, ngồi kểnh vuốt râu rung đùi, mắt đang mãi trông đĩa nọc, bỗng nge ngoài xa tiếng kêu vang dậy trời đất. mọi người đều giặt nảy mình, quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chờ người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ, Vì ngài sắp ù to. Có người khẽ nói: – Bẩm, dễ có khi đê vỡ? Ngài cau mặt, gắt rằng: – Mặc kệ! Rồi ngồi xếp bài lại, quay gối dựa sang bên phải, nghiêng mình bảo thầy đề lại: Có ăn không thì bốc chứ? Thầy đè vội vàng : Dạ, bẩm bốc. Vừa lúc đó thì tiếng người kêu rầm rỉ, càng nghe càng lớn. Lại có tiếng ồn òa nhưthác chảy xiết, rồi lại có tiếng gà,chó, trâu,bò kêu vang tứ phía. – Bẩm… quan lớn… đê vỡ mắt rồi! – Ðê vỡ rồi!… Ðê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày. Có biét không… Lính đâu? Sao bay dám để cho nóchạy xồng xộcvào đây như vậy? không còn phép tắc gì nữa à? – Dạ, bẩm… – Ðuổi nó ra! Ngoảnh mặt vào hỏi thầy đề: Thầy bốc quân gì thế? -Dạ, bẩm con chưa bốc – Thì, bốc đi chứ! Thầy đề tay run cầm cập, thò tay vào đĩa nọc, rút một con bài.lật ngữa xướng rằng: – Chi chi! Quan lớn vỗ tay xuống sập, kêu to: – Ðây rồi! Thế chứ lại. Rồi ngài vội vàng xòe bài, miệng vừa cười vừa nói: – ù! thông tôm chi chi nảy! – Ðiếu, mày!… Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước trào lênh láng, xóay thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!. [Nam phong số 18- 1918] 1.381 Bình luậnTÌM HIỂU CHUNGTác giảPhạm Duy Tốn (1881 - 1924) Vài nét về tác giả Phạm Duy Tốn:
Tác phẩmHoàn cảnh sáng tác
Xuất xứ Truyện được đăng trên tạp chí Nam Phong, số 18 tháng 12 năm 1918. Đề tài Xã hội phong kiến thực dân và nỗi khổ của nhân dân lao động Chủ đề Phê phán, lên án gay gắt thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời và bày tỏ niềm thương cảm trước cảnh "nghìn sầu muôn thảm" của nhân dân. Ngôi kể Truyện được kể theo ngôi thứ ba - tác giả kể. Tình huống truyện
Bố cục Tác phẩm có thể chia làm ba phần:
NỘI DUNG1. Nguy cơ đê vỡ và sự chống đỡ của người dân
- Thời gian: gần một giờ đêm. Đây là thời điểm khuya khoắt càng tăng thêm sự khó khăn. - Địa điểm: khúc đê làng X, phủ X. Cách gọi tên phiếm chỉ như thế này nhằm phơi bày hiện thực ở nhiều làng, nhiều phủ nói chung.
Tiểu kết: Thiên tai đang từng lúc giáng xuống, đe dọa cuộc sống của người dân. 2. Cảnh quan phủ cùng nha lại đánh tổ tôm trong khi hộ đê Điểm tương phản giữa cuộc sống của người dân phải chống đỡ đê với cảnh quan phủ và nha lại, chánh tổng đánh tổ tôm trong đình:
Tiểu kết: - Bằng bút pháp kể chuyện độc đáo, Phạm Duy Tốn đã khắc họa thành công nhân vật quan phụ mẫu. Đó là một kẻ vô trách nhiệm, chỉ biết đến thú vui nhàn nhã mà bỏ mặc con dân. Qua nhân vật và cảnh tượng trong đình, người đọc cũng hình dung được phần nào về đời sống, sinh hoạt của quan nha thời phong kiến mục nát. - Tác giả sử dụng nghệ thuật tương phản, tăng cấp nhằm mục đích so sánh, làm nổi bật sự đối lập: quan thì vô trách nhiệm, vô lương tâm, chỉ ham mê bài bạc mỗi lúc một tăng; mặc kệ sự sống chế của người dân, đổ trách nhiệm cho cấp dưới vì dám cho dân vào đình. Còn những người dân phải dầm mưa gội gió, nhọc nhằn, chống chọi với thủy thần một cách tuyệt vọng. Cuối cùng, sự vô trách nhiệm của viên quan đã dẫn đến cảnh đê vỡ. Quan sung sướng vì nước bài cao, dân thì khổ vì nước dâng cao khiến đê vỡ. 3. Cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu
Tiểu kết: Tác giả kết truyện chỉ với một câu văn sử dụng phép liệt kê, đưa đến cảnh tượng sầu thảm nhất: muôn dân chìm trong biển nước. Dân lầm than trong nước lũ do thói thờ ơ, vô trách nhiệm, lòng lang dạ thú của quan cha mẹ. Đây là một kết truyện bi thảm thường thấy trong các truyện ngắn hiện thực phê phán sau này. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT
|