Văn học dân gian thể hiện tình yêu nước

Nhiều tác phẩm văn học ra đời thời chiến tranh tập trung ca ngợi, tôn vinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong công cuộc giải phóng đất nước và nhận được sự đồng cảm từ đông đảo công chúng. Cuộc chiến tranh yêu nước chống giặc ngoại xâm của nhân dân Việt Nam cần phải có những tác phẩm như thế. Cuộc sống vẫn có đủ mọi trạng thái, cung bậc nhưng tất cả phải được xếp sau tinh thần chống giặc ngoại xâm và bè lũ tay sai bán nước; đề tài chiến đấu mặc nhiên phải được đặt lên hàng đầu như là yêu cầu, đòi hỏi, mục đích, hành trình của văn học. Vì thế, những thi phẩm như Bầm ơi, Việt Bắc, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Bài ca xuân 68, Toàn thắng về ta của Tố Hữu; Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm; Thăm lúa của Trần Hữu Thung; Tây Tiến của Quang Dũng; Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ, Nhớ của Hồng Nguyên; Đèo Cả của Hữu Loan; Tình sông núi, Nhớ máu của Trần Mai Ninh; Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? của Chế Lan Viên; Ngã ba Đồng Lộc của Huy Cận; Lửa đèn, Nhớ, Tiểu đội xe không kính, Gửi em cô thanh niên xung phong của Phạm Tiến Duật; Khoảng trời hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ; Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi; Lý ngựa ô ở hai vùng đất của Phạm Ngọc Cảnh; Sức bền của đất của Hữu Thỉnh; Đất nước [trích trong trường ca Mặt đường khát vọng] của Nguyễn Khoa Điềm; Nấm mộ và cây trầm của Nguyễn Đức Mậu, Cây xấu hổ của Anh Ngọc... được đề cao. Trong văn xuôi thì những tác phẩm này đã được ngợi ca và nhắc tới nhiều lần như Thư nhà của Hồ Phương; Xung kích của Nguyễn Đình Thi; Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc; Hòn đất của Anh Đức; Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi; Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu; Vùng trời của Hữu Mai... Sáng tác hay phê bình và cả xu hướng thưởng thức, bình phẩm của người đọc đã được định hướng rõ ràng, ít ai đi chệch khỏi quỹ đạo đánh giặc cứu nước. Rõ nhất là giai đoạn chống Mỹ, cuộc sống và văn chương đều được thấm đẫm tinh thần Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai [Thơ Tố Hữu].

Sau năm 1975 đến trước thời kỳ đổi mới, sáng tác cũng như phê bình nhìn chung vẫn là cái vệt kéo dài của văn học kháng chiến theo như đà quán tính tự nhiên khó cưỡng. Đây là giai đoạn trường ca bùng nổ với chất liệu hiện thực chiến tranh là chính, với tâm thái hân hoan, tự hào của bên thắng trận. Khúc khải hoàn ca vẫn còn rền vang, men say chiến thắng chưa hết lâng lâng kèm với hy vọng chứa chan đất nước sẽ yên bình, công cuộc dựng xây non sông đàng hoàng hơn, to đẹp hơn sẽ thuận lợi. Nhưng, thời cuộc không như ta tưởng, nền kinh tế bị khủng hoảng trầm trọng sau chiến tranh và các cuộc gây rối, xâm lăng mới của hai nước láng giềng ở tây nam và phía bắc nước ta dồn đẩy dân tộc vào tình huống éo le, cực kỳ nguy hiểm. Đảng ta đã kịp nhìn thẳng vào sự thật để xướng lên công cuộc đổi mới đầy sáng tạo và dũng cảm. Xã hội được tiếp thêm năng lượng mới, những trói buộc ràng rịt lỗi thời được dần dần cắt bỏ, văn chương cũng được cởi trói để được đa dạng, phong phú và đương nhiên thấm thía hơn. Cái thấm thía đến độ xót xa nhưng chạm vào tận đáy tâm can khi văn chương biết xoáy sâu vào số mệnh dân tộc, vào thân phận con người. Sự hào hùng bớt đi nhường thêm chỗ cho đau thương và nhờ thế mà nó có cơ hội vươn ra nhân loại trong cái mẫu số chung được gọi là con người. Tính nhân văn và sự đa dạng là hai điều đáng nói nhất của văn chương thời đổi mới. Dù viết về quá khứ hay hiện tại hoặc cả hai thì tính nhân văn vẫn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các tác phẩm xuất sắc sau năm 1986. Tất nhiên, phê bình văn học cũng sống động, bật sáng theo những Thời xa vắng của Lê Lựu; Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh; Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp; Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh; Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh; Chim én bay của Nguyễn Trí Huân; Bến không chồng của Dương Hướng; Bến đò xưa lặng lẽ của Xuân Đức; Lính trận của Trung Trung Đỉnh; Đối chiến của Khuất Quang Thụy; Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, Xác phàm của Nguyễn Đình Tú... Thời đổi mới, văn xuôi được mùa dù chẳng gây nhiều tranh cãi ồn ào, bất phân thắng bại nhiều phen như thơ. Tuy vậy, vẫn có những tác phẩm đã tạo nên sóng dư luận không cùng chiều như Nỗi buồn chiến tranh, Cánh đồng bất tận... Nhưng, qua sàng lọc của thời gian thì giá trị đích thực của các tác phẩm xuất sắc càng được khẳng định. Đây là giai đoạn cần ghi công lớn cho phê bình văn học Việt Nam. Phê bình đã góp phần quan trọng trong việc định danh, định tính những tác giả, tác phẩm xuất sắc với xu hướng tôn vinh những giá trị văn chương đích thực hướng về con người.

Phê bình văn học hiện thời khá đa dạng trong giọng điệu, bút pháp, phong phú trong lựa chọn vấn đề và đang cố gắng tiệm cận với những trào lưu văn học của thế giới. Văn học Việt Nam phải và cần được công bố mạnh mẽ để khẳng định là một phần của văn học thế giới với bản sắc riêng. Nền văn học mang bản sắc dân tộc là điều không thể chối cãi khi hòa nhập vào thế giới. Mặt khác, chỉ có thể chọn lọc tinh tuý, tinh hoa từ bên ngoài để bổ sung làm đẹp, làm hay thêm cho văn chương nước nhà chứ không thể bắt chước, lai căng, học đòi được. Mọi sự cổ súy, ủng hộ cái đổi mới vô lối, thực chất là bắt chước, học đòi người ta, là làm hỏng nền văn học đất nước. Trong thời gian qua, lắm khi phê bình văn học đã đuổi theo những cái mới lạ vô lối đó. Do vậy đã che khuất những cố gắng sáng tạo đích thực hướng về Tổ quốc và nhân dân mình.

Tôi nghĩ rằng, Tổ quốc và nhân dân mãi mãi là đối tượng số một của văn học, cũng như lòng yêu nước là tư tưởng xuyên suốt của người cầm bút. Cái điều tưởng như cũ kỹ này vẫn chẳng bao giờ lạc hậu, nó mãi mãi định hướng sáng tạo, là phần không thể thiếu trong những tác giả, tác phẩm văn học lớn của dân tộc và nhân loại. Nhân dân chờ đợi những tác phẩm lớn của nhà văn là chờ đợi cái đó; đương nhiên để nó hay, xúc động, ám ảnh, ấn tượng thì không phải ai cũng làm được. Nhà văn cần chữ tài như phải có chữ tâm vậy. Không có tài thì chẳng bao giờ có tác phẩm lớn và hay. Không có tâm thì chẳng bao giờ viết nổi một tác phẩm tử tế đúng nghĩa. Nhìn tổng thể hiện nay, có vẻ như phê bình văn học háo hức đuổi theo những cái mới lạ [mới lạ hay và mới lạ dở] mà hững hờ, lạnh nhạt với những tác phẩm viết về đất nước và nhân dân rộng lớn. Tôi nghĩ, văn học nước nhà trong đó có bộ phận phê bình nên quan tâm hơn nữa công cuộc dựng xây đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong hoàn cảnh thế giới phức tạp như hiện nay. Văn chương hướng đến tự do và hạnh phúc của con người và mặc nhiên chấp nhận mọi phản ánh, ngẫm suy về cuộc sống trong các tác phẩm nhưng nên lấy tư tưởng yêu nước thương dân làm trọng tâm, phải gắn chặt với số phận dân tộc dù thời chiến tranh hay hòa bình… Có vẻ như sau năm 1986, cả sáng tác và phê bình văn học đều chưa quan tâm đúng mức tới mảng hiện thực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với nhiều điểm sáng, nhiều yếu tố tích cực trong xã hội ta. Xu hướng sáng tác và phê bình chạy theo thời thượng, những câu chuyện ăn khách đang phổ biến. Cứ nhìn vào công trình nghiên cứu của nhiều nhà lý luận phê bình văn học thời đổi mới đến nay thì rõ. Cả những trích dẫn về tác giả, tác phẩm trong phần lớn công trình, bài viết của nhiều nhà phê bình văn học cũng phản ánh phần nào sự thiên lệch, thiên vị và ít cập nhật đời sống chuyển động văn học của họ. Hiện tượng phê bình lấy được, phê bình phe cánh, phê bình vu vơ, phê bình nhạt nhẽo, phê bình hồ đồ... không hiếm. Không phải không có nhà phê bình làm hỏng tác giả, tung hỏa mù vào bạn đọc vì khen chê thiếu chừng mực, công tâm. Đó cũng chính là lý do để không ít công chúng thờ ơ với văn học. Lỗi của nhà phê bình đối với sự phát triển lành mạnh của văn chương nước nhà không hề nhỏ...

Có lẽ, đã đến lúc cần có chiến lược xây dựng nền phê bình văn học Việt Nam đúng hướng. Xây dựng một đội ngũ phê bình văn học, lấy lực lượng trẻ làm nòng cốt, toàn tâm, toàn ý với Tổ quốc và nhân dân. Biết coi trọng giá trị văn hóa của dân tộc đồng thời cũng biết chọn lọc tiếp thu những cái hay của thế giới. Tập trung sự quan tâm tới sáng tác và phê bình hướng về công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân ta. Nên coi đó là trọng tâm của văn học Việt Nam trong giai đoạn này. Cuộc chiến chống tham nhũng, làm trong sạch xã hội, xây dựng giang sơn mạnh giàu cũng như bảo vệ chủ quyền đất nước rất cần những tác phẩm hay về nhân dân và chiến sĩ.

NGUYỄN HỮU QUÝ

Từ xưa đến nay lòng yêu nước luôn là giá trị truyền thống quý báu của dân tộc ta. Đó chính là tình yêu quê hương đất nước để cùng xây dựng và phát triển đất nước. Lòng yêu nước được thể hiện qua các bài văn, bài thơ và còn có cả những bài ca dao được truyền miệng. Dưới đây là AnyBooks sẽ tổng hợp những bài ca dao về lòng yêu nước, mời bạn cùng theo dõi!

1. Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

2. Tay bắt tay, chung long chung sức

Quyết diệt thù cứu quốc bạn ơi

Lòng em khôn tỏ hết lời

Kìa gương phấn dũng rạng ngời nước non.

3. Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba

Khắp miền truyền mãi câu ca

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.

4. Ru con con ngủ cho lành

Để mẹ múc nước rửa bành con voi

Muốn coi lên núi mà coi

Coi bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng.

5. Ngọ núi Truồi vừa cao, vừa dựng

Lòng người Thừa thiên vừa cứng, vừa dai

Dù cho nắng sớm mưa mai

Song dồn gió dập, vẫn tranh đấu cho Nam Bắc trong ngoài gặp nhau.

Bắc Nam là con một nhà

Là gà một mẹ, là hoa một cành

Nguyện cùng biển thẳm non xanh

Thương nhau nuôi chí đấu tranh cho bền.

6. Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non

Nàng nuôi cái cùng con

Để anh trấn thủ nước non Cao Bằng.

7. Dù em con bế con bồng

Thi đua yêu nước không lơ là.

8. Thực dẫn hơi thực dân

Đàng nào thì cũng một lần về thôi

Việt Nam của Việt Nam rồi

Cướp làm sao nổi đất người Việt Nam.

9. Đồn Tây dù chắc, dù dày,

Thuế nộp đủ đầy, đồn ắt phải tan.

10. Đá mòn, nhưng dạ chẳng mòn

Tình dân nghĩa nước một lòng sắt non.

11. Chim bay về núi Chà Rang,

Nhớ người chí sĩ Cần Vương dựng cờ.

12. Hải Vân cao ngất từng mây,

Giặc đi đến đó bỏ thây không về.

13. Đứng trên cầu Cấm em thề:

Chưa xong nhiệm vụ chưa về quê hương.

14. Đeo hoa chỉ tổ nặng tai

Đeo kiềng nặng cổ hỡi ai có vàng

Làm thâm một nước vẻ vang

Đem vàng giúp nước giàu sang nào tầy

Đổi vàng lấy súng cối say

Bắn tan giặc Pháp dựng ngày vinh quang.

15. Đồn Tây dù chắc, dù dày

Thuế nộp đủ đầy, đồn ắt phải tan.

16. Ô Loan nước lặng như tờ,

Thương người chiến sĩ dựng cờ Cân vương

Trải bao gối đất nằm sương,

Một lòng vì nước nêu gương anh hùng.

Nghèo thì ăn sắn ăn khoai?

Ai ơi đừng có theo loài Pháp gian.

17. Ru hời, ru hỡi là ru

Cha con còn ở chiến khu chưa về.

Con ơi! Nhớ trọn lời thề

Tự do, độc lập, không nề hy sinh.

18. Vượt sông em chở anh sang

Bến trơn em rắc trấu vàng anh sang

Đêm nay đường trải trăng ngà

Hành quân vẫn nhớ bến phà quê em.

19. Chém cha những đứa sang giàu,

Cậy thần, cậy thế cúi đầu nịnh Tây.

20. Ăn trái khổ qua, ai nhả ra cho đặng

Dầu cay, dầu đắng cũng ráng nuốt trôi

Căm thù cay đắng mấy mươi

Ta phải ngậm suốt ba chục năm trời mới diệt hết xâm lăng.

21. Mù u ba thứ mù u

Lính ta thì tình nguyện chớ tình thù ta chẳng đi

Chị em đã quyết chẳng chùn

Hai vai áo ướt chân bùn đường trơn

Em gánh thóc thuế chẳng sờn hai vai

Trời mưa cho ướt lá khoai

Thóc em không ướt vì ngoài lá che

Đường xa, chân bước, tai nghe

Tin vui chiến thắng đưa về khắp nơi.

22. Đá mòn, nhưng dạ chẳng mòn

Tình dân nghĩa nước một lòng sắt non.

23. Đất trời Nam Bộ mênh mông

Người không khuất phục, cây không úa sầu.

24. Dấu chân trên cát quen quen

Thoạt nhìn đã biết chân em đi tuần

Xôn xao bãi cát trắng ngần

Đếm sao hết được mấy lần em qua

Mắt nhìn như ánh sao sa

Ngày đêm em giữ quê nhà yên bình

Đẹp thay! Bãi cát êm êm

In bàn chân nhỏ của em đi tuần.

25. Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm

Rượu hồng đào chưa nhấm đã say

Lòng ta như chén rượu đầy,

Lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi!

Câu hò từ thuở xa xôi

Bao năm còn vọng đậm lời nước non.

26. Hỡi thuyền đưa khách sang sông,

Chở chông, chở súng, chở chồng em sang.

Chồng em du kích giữ làng,

Giữ yên bến nước đò ngang sớm chiều.

27. Ai qua Nông Cống tỉnh Thanh

Dừng chân nhớ Triệu Thị Trinh anh hùng

Ai về Hậu Lộc, Phú Điền,

Nơi đây Bà Triệu trận tiền xung phong.

28. Ong kiến còn có vua tôi

Huống chi loài người chẳng có nghĩa ru?

29. Bạch Đằng giang là sông cửa ải,

Tống Hà Nam là bãi chiến trường.

30. Về đi, sống với ruộng vườn,

Trồng khoai, nương sắn, xanh rờn chè tươi.

Tội gì theo giặc, anh ơi!

Ngàn năm bia miệng, người đời cười chê.

31. Cỏ vùng Bãi Sậy còn xanh,

Đá vùng Yên Thế chênh vênh chẳng mòn.

32. Con đò trong bãi nằm dài,

Em là du kích đợi hoài các anh

Quân về mình biếc lá xanh,

Ngậm tăm lựa bóng trăng thanh xuống đò.

Hôm đi thuyền bến nặng chờ,

Hôm về thắng trận câu hò lại vang.

33. Ai lên Biện Thượng, Lam Sơn,

Nhớ Lê Thái Tổ chặn đường quân Minh.

Lạy trời cho cả gió lên,

Cho cờ vua Bình Định bay trên kinh thành.

34. Qua cầu ghé nón trông cầu,

Phao nàng, ván trải, sông sâu lững lờ.

Mặc cho bom phá, bom giờ,

Cầu phao vẫn nổi đôi bờ xe qua.

Cảm ơn bạn đọc đã luôn theo dõi và ủng hộ AnyBooks. Sắp tới chúng mình sẽ cho ra thêm nhiều bài viết chất lượng hơn, hy vọng sẽ tiếp tục nhận được sự ủng hộ của mọi người. Thân!

Xem thêm:

Video liên quan

Chủ Đề