Vì sao sau khi sa lầy ở đà nẵng quân pháp chuyển hướng tấn công gia định

Câu hỏi: Sau thất bại ở Đà Nẵng Pháp chuẩn bị kế hoạch gì tiếp theo

A. Cố thủ chờ viện binh

B. Đánh thẳng kinh thành Huế.

C. Nhờ Anh giúp đỡ đánh tiếp.

D. Kéo quân vào đánh Gia Định.

Trả lời:

Đáp án: D. Kéo quân vào đánh Gia Định.

Giải thích:

Sau thất bại ở Đà Nẵng Pháp chuẩn bị kế hoạchkéo quân vào đánh Gia Định.

- Gia Định là vựa lúa lớn của Nam Bộ có thể cung cấp được lương thực cho thực dân Pháp và cắt được viện trợ và triều đình Huế.

- Cùng lúc đó, Anh cũng âm mưu xâm chiếm, Pháp quyết định đi trước Anh một bước.

Các em cùng Toploigiai tìm hiểu cuộc chiến của Pháp ở Gia Định nhé!

1. Nguyên nhân Pháp chọn Đà Nẵng làm mục tiêu tấn công đầu tiên

Pháp chọn Đà Nẵng làm mục tiêu tấn công đầu tiên vì:

- Do vị trí chiến lược và địa thế thuận lợi của Đà Nẵng:

+ Là một hải cảng sâu, rộng, tàu chiến có thể ra vào dễ dàng.

+ Là cổ họng của kinh thành Huế, chỉ cách Huế 100km, nếu chiếm được Đà Nẵng thì chỉ cần vượt đèo Hải Vân là có thể tấn công được Huế.

+ Nằm trên đường thiên lý Bắc - Nam, phía Tây có thể đánh sang Lào, phía Đông là Biển Đông rộng lớn, phía Nam là vùng đất Gia Định màu mỡ có vựa lúa lớn nhất nước ta.

⟹Đây chính là con đường ngắn nhất, nhanh nhất, ít hao tốn nhân lực, vật lực nhất của Pháp, tạo điều kiện thuận lợi để tiến hành kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” .

- Pháp không thể trực tiếp đánh vào cửa biển Thuận An ở Huế, vì Huế là thủ phủ của triều đình phong kiến Nguyễn, mặt khác Thuận An là cửa biển nhỏ, tàu chiến không thể ra vào dễ dàng, thuận lợi như cửa biển Đà Nẵng.

- Đà Nẵng có nhiều người theo đạo Thiên Chúa và nhiều giáo sĩ, gián điệp đội lốt thầy tu, con buôn,… hoạt động ở đây từ trước, họ trở thành người đi tiên phong, vạch đường cho quân Pháp xâm lược.

2. Diễn biến chiến sự ở Đà Nẵng năm 1858

- Ngày 31/8/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng.

- Sáng 1/09/1858, Pháp gửi tối hậu thư, song không đợi trả lời đã nổ súng tấn công và đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.

- Quân dân Việt Nam anh dũng chống xâm lược, thực hiện kế sách “vườn không nhà trống” gây cho địch nhiều khó khăn⇒ Pháp bị cầm chân 5 tháng trên bán đảo Sơn Trà.

3. Cuộc tấn công của Pháp ở Gia Định

- Thấy không thể chiếm được Đà Nẵng, Pháp quyết định đưa quân vào Gia Định.

-Gia Định và Nam Kì là vựa lúa của Việt Nam, có vị trí chiến lược quan trọng. Hệ thống giao thông đường thủy ở đây rất thuận lợi. Từ Gia Định có thể sang Cam-ou-chia một cách dễ dàng. Chiếm được Nam Kì, quân Pháp sẽ cắt đứt con đường tiếp tế lương thực của triều đình nhà Nguyễn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm chủ lưu vực sông Mê Công của Pháp.

-Ngày 9-2-185, hạm đội Pháp tới Vũng Tàu rồi theo sông Cần Giờ lên Sài Gòn. Do vấp phải sức chống cự quyết liệt của quân dân ta nên mãi tới 16-2-1859 quân Pháp mới đến được Gia Định. Ngày 17-2, chúng nổ súng đánh thành. Quân đội triều đình tan rã nhanh chóng. Trái lại,các đội dân binh chiến đấu rất dũng cảm, ngày đêm bám sát địch để quấy rối và tiêu diệt chúng. Cuối cùng, quân Pháp phải dùng thuốc nổ phá thành, đốt trụi mọi kho tàng và rút quân xuống các tàu chiến. Kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” bị thất bại, buộc địch phải chuyển sang kế hoạch “chinh phục từng gói nhỏ:.

-Từ đầu năm 1860, cục diện chiến trường Nam Kì có sự thay đổi. Nước Pháp đang sa lầy trong cuộc chiến tranh ở Trung Quốc và I-ta-li-a, phải cho rút toàn bộ số quân ở Đà Nẵng vào Gia Định [23-3-1860]. Vì phải chia xẻ lực lượng cho các chiến trường khác, số quân còn lại ở Gia Định chỉ có khoảng 1 000 tên, lại phải rải ra trên một chiến tuyến dài tới 10 km. Trong khi đó, quân triều đình vẫn đóng trong phòng tuyến Chí Hòa mới được xây dựng, trong tư thế “thủ hiểm”.

-Từ tháng 3-1860, Nguyễn Tri Phương được lệnh từ Đà Nẵng vào Gia Định. Ông đã huy động hàng vạn quân và dân binh xây dựng Đại đồn Chí Hòa, vừa đồ sộ vừa vững chắc, nhưng vì không chủ động tấn công nên gần 1 000 quân Pháp vẫn yên ổn ngay bên cạnh phòng tuyến của quân ta với một lực lượng từ 10 000 đến 12 000 người.

-Không bị động đối phó như quân đội triều đình, hàng nghìn nghĩa dũng do Dương Bình Tâm chỉ huy đã xung phong đánh đồn Chợ Rẫy, vị trí quan trọng nhất trên phòng tuyến của địch [7-1860].

-Pháp bị sa lầy ở cả hai nơi [Đà Nẵng và Gia Định], rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nam. Lúc này trong triều đình nhà Nguyễn có sự phân hóa, tư tưởng chủ hòa lan ra làm lòng người li tán.

Trận Đà Nẵng [1858–1859] hay Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng lần thứ nhất là trận đánh mở đầu cho cuộc chiến tranh Pháp – Việt [1858–1884] trong lịch sử Việt Nam. Đây là trận đánh kéo dài nhiều ngày, khởi sự từ ngày 31 tháng 8 năm 1858 và kết thúc vào ngày 2 tháng 2 năm 1859, để chuyển sang một giai đoạn khác.

Liên quân tấn công Đà Nẵng lần thứ nhất
Một phần của Pháp xâm lược Đại Nam

Bản đồ Đà Nẵng xưa tìm được trong nhà một ông quan võ người Việt vào ngày 15 tháng 9 năm 1859.

Xuất phát từ đảo Hải Nam [Trung Quốc], Phó Đô đốc Hải quân Charles Rigault de Genouilly [gọi tắt là De Genouilly] được lệnh[4] phối hợp với đạo quân Tây Ban Nha do Đại tá Lanzarotte chỉ huy, đưa tàu chiến xuống phía Nam. Chiều tối ngày 31 tháng 8 năm 1858, toàn bộ lực lượng trên đã có mặt trước cửa biển Đà Nẵng.

Sáng ngày 1 tháng 9 năm 1858, De Genouilly gửi tối hậu thư buộc quan Trấn thủ Đà Nẵng trong hai giờ phải giao nộp tỉnh thành. Nhưng không đợi trả lời, đại bác của liên quân đã tập trung hỏa lực bắn tới tấp hàng trăm quả vào cửa sông Đà Nẵng và các đồn ở bán đảo Sơn Trà.

Bản đồ trên đã được Việt hóa.

Theo kế hoạch, liên quân gồm hai bộ phận:

  • Bộ phận thứ nhất gồm ba tàu chiến, tập trung hỏa lực bắn vào các đồn ở Sơn Trà.
  • Bộ phận thứ hai, dưới làn đạn yểm trợ của bộ phận thứ nhất, sẽ nhanh chóng tiến gần vào cửa sông Đà Nẵng để bắn vào đồn Đông và đồn Tây đang án ngữ.

Ngay hôm đó [1 tháng 9], đồn Đông bị vỡ. Sáng hôm sau [2 tháng 9] liên quân tiếp tục nã đại bác chiếm lấy đồn Tây, rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà, chiếm đồn An Hải và đồn Điện Hải chỉ nội một ngày. Trước vũ khí mạnh hơn, quân Việt vừa đánh vừa lui dần ra sau, lập phòng tuyến Liêu Trì trước huyện Hòa Vang để ngăn liên quân vào nội địa.

Nhận được tin liên quân đánh Đà Nẵng, vua Tự Đức liền sai Chưởng vệ Đào Trí vào Đà Nẵng để hiệp cùng Tổng đốc Nam Ngãi Trần Hoằng chống ngăn, nhưng khi Đào Trí đến nơi thì hai đồn trên đã mất. Nhà vua lại sai Hữu quân đô thống Lê Đình Lý và Tham tri bộ Hộ Phạm Khắc Thận đem 2.000 quân vào ứng cứu, cử Tham tri nội các Nguyễn Duy giữ chức chỉ huy quân thứ ở Quảng Nam, và ra lệnh cách chức Trần Hoằng vì lỗi đã án binh bất động,[5] đưa Đào Trí lên thay...

Đánh chiếm được Sơn Trà, liên quân Pháp – Tây Ban Nha tiến vào nội địa, đánh tan phòng tuyến bằng ụ đất, rào tre của quân Việt ở xã Mỹ Thị, rồi tràn sang chiếm xã Cẩm Lệ. Tướng Lê Đình Lý bị trọng thương rồi mất trong trận chiến này. Xét công tội, tướng Hồ Đức Tư, trấn giữ đồn Hóa Khuê, bị vua Tự Đức sai bắt giam và bị cách chức vì lỗi không tiếp ứng và án binh bất động.

Hữu quân Lê Đình Lý mất, nhà vua cử Thống chế Chu Phúc Minh làm Tổng đốc quân vụ thay Lê Đình Lý. Rồi điều tướng Nguyễn Tri Phương, khi ấy đang làm Kinh lược sứ Nam Kỳ, về làm Tổng thống quân vụ Quảng Nam; cử thêm Phạm Thế Hiển làm Tham tán để cùng gấp rút chấn chỉnh quân chánh và thống nhất phương thức chống ngoại xâm.

Súng thần công tại Thành cổ Điện Hải

Trước tình thế đó, Nguyễn Tri Phương không chủ trương đánh chính diện để tránh sức mạnh hỏa lực của đối phương mà cho phục kích, thực hiện "vườn không, nhà trống" [để cô lập và triệt đường tiếp tế] và cho đắp lũy dài từ Hải Châu vào tới Phúc Ninh, Thanh Giản để bao vây liên quân ngoài mé biển.

Suốt 5 tháng bị cầm chân, cái đói, cái bệnh, cái nóng bức... đã khiến liên quân mệt mỏi và hao mòn. Mặc dù được giáo sĩ Pellerin khuyên nên đem quân ra chiếm Bắc Kỳ, vì ở đó có giáo sĩ và giáo dân Thiên Chúa giáo, và những người còn tôn phù Nhà Lê nổi lên góp sức, nhưng sau khi cân nhắc, tướng De Genouilly không tán thành.

Ngày 2 tháng 2 năm 1859, chỉ để lại một phần ba số quân [khoảng 1.000 người] và 6 tàu chiến, bàn giao cho Đại tá Faucon nắm giữ, còn bao nhiêu De Genouilly cho rút hết vào Nam, mở mặt trận mới ở Gia Định [Xem: Trận thành Gia Định, 1859].

Mô tả lại tình cảnh khó nhọc của liên quân lúc bấy giờ, giáo sư Trần Văn Giàu viết:

Một đoạn thành tại Thành cổ Điện Hải

Sau năm tháng giao tranh, liên quân Pháp – Tây Ban Nha chỉ chiếm được một ngọn núi không người và vài làng ven biển không người. Họ không dám tiến sâu... Họ mong chờ một cuộc nổi loạn của nhân dân Nam – Ngãi theo lời hứa hẹn của các giáo sĩ Pháp, mà không thấy. Trong lúc tiến thoái lưỡng nan ấy, thì liên quân bị đau ốm và chết chóc khá nhiều, căn bản không phải vì súng đạn, mà chính vì phong thổ khí hậu. Thức ăn lại rất khó tìm, thuốc men không đủ dùng, thỉnh thoảng bị quân Việt đến tập kích, bắn tỉa...[6]

Báo cáo của PhápSửa đổi

Phó Đô đốc De Genouilly đã viết thư về Pháp rằng:

Chính phủ bị đánh lừa về bản chất của cuộc đi đánh lấy nước Nam Kỳ [Việt Nam]; người ta trình bày rằng việc viễn chinh này chỉ là một việc dễ dàng thôi, nho nhỏ thôi; thực ra, nó không dễ, cũng không nhỏ... Người ta […] cho rằng dân chúng sẽ nổi lên hưởng ứng, thật ra... trái hẳn lại với sự dự đoán đó... Người ta báo cáo rằng quân đội Việt không có gì, sự thật thì quân chính quy rất đông, còn dân quân... thì không đau ốm và không tàn tật... Trên bộ thì không hành quân lớn được, dù là chỉ hành quân ngăn ngắn mà thôi; binh lính không chịu đựng nổi...[7]

Trích báo cáo của De Genouilly đề ngày 4 tháng 1 năm 1859:

Chúng ta đang xuống dốc đến kiệt quệ ở Đà Nẵng. Mọi phương tiện cải thiện tình hình bộ binh và hải quân đều hết sạch và vô hiệu.

Hơn 10 ngày sau [15 tháng 1], viên tướng này gửi tiếp một báo cáo nữa, để nói rõ số lính chết vì bị bệnh kiết lỵ lên đến mức đáng sợ. Trong số 800 lính bộ binh, chỉ còn nhiều nhất là 500 người có thể cầm khí giới, nhưng không đủ sức để mở một cuộc hành quân...[8]

Nhận xétSửa đổi

Sách Hỏi đáp lịch sử Việt Nam [tập 4]:

Những diễn biến cho thấy đối phương không thể phát huy được sức mạnh của binh khí kỹ thuật để tấn công ồ ạt, mà đã bị chặn ngay ở cửa biển Đà Nẵng. Đây là kết quả của… khối đoàn kết toàn dân. Ngoài quân chủ lực, còn có sự tham gia của biền binh và dân binh sở tại... Có thể coi đây là thắng lợi lớn và duy nhất ở mặt trận Đà Nẵng trong hơn một phần tư thế kỷ chống xâm lược của quân và dân Việt, từ 1858 đến 1884.[9]

Sách Lịch sử Việt Nam [1858 – cuối thế kỷ XIX]:

Kế hoạch "đánh mau, thắng mau" của đối phương tuy thất bại ở Đà Nẵng, nhưng, họ lại chọn được một vị trí khác [tức Gia Định] để thực hiện kế hoạch đó. Trong khi đại quân của triều đình Huế đang "án binh bất động, tự giam chân" [chủ trương "trì cửu"] đằng sau các phòng tuyến thì đại quân của họ lũ lượt kéo vào Nam.[10]

Di tích còn lạiSửa đổi

Hiện nay ở bán đảo Sơn Trà, ngay gần cổng vào Cảng Tiên Sa Đà Nẵng, vẫn còn nhà tưởng niệm nơi chôn cất các binh lính liên quân Pháp – Tây Ban Nha chết trong trận Đà Nẵng. Nhà tưởng niệm này được người Pháp xây dựng năm 1898, cải táng xương cốt của các binh lính chôn chung trong một hố, còn mộ các sỹ quan chôn xung quanh vườn. Mặc dù đã hơn 100 năm trôi qua nhưng nhà tưởng niệm vẫn còn được bảo tồn nguyên vẹn bởi người dân địa phương và họ gọi là "Nghĩa trang Y Pha Nho". Điều đó chứng tỏ tinh thần đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại của dân tộc Việt.

Nghĩa trang Y Pha Nho

Xem thêmSửa đổi

  • Nhà Nguyễn
  • Pháp thuộc
  • Nguyễn Tri Phương
  • Phạm Thế Hiển

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Theo Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 4, nhiều tác giả [Trần Nam Tiến chủ biên], Nhà xuất bản Trẻ, 2007, tr. 14-17.
  2. ^ Ủy ban này thành lập tháng 4 năm 1837.
  3. ^ Đại Nam thực lục tập 7, đệ tứ kỷ, quyển XIX, trang 567.
  4. ^ De Genouilly được cử làm Tư lệnh lực lượng Hải quân Pháp tại Viễn Đông ngày 15 tháng 7 năm 1857 vì ông đã phục vụ lâu năm ở vùng Biển Đông, và vì ông có nhiều thân hữu trong giới truyền đạo Thiên Chúa giáo [Nguyễn Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, tr. 24].
  5. ^ GS. Trần Văn Giàu nhận xét: Liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã đến từ chiều hôm trước và dàn trận, ấy thế mà quan Trần Hoằng vẫn "án binh bất động", chờ lệnh triều đình... [Tổng tập, phần I, tr. 62].
  6. ^ Trần Văn Giàu, Tổng tập [tập I], tr. 63-64.
  7. ^ Dẫn lại theo GS. Trần Văn Giàu, Tổng tập [tập I], tr. 65-66.
  8. ^ Kho lưu trữ quốc gia Pháp, KH:BB4-769. Dẫn lại theo GS. Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX, tr. 270.
  9. ^ Nhiều tác giả, Trần Nam Tiến chủ biên, Nhà xuất bản Trẻ, 2007, tr. 14-17.
  10. ^ Lịch sử Việt Nam [1858 - cuối thế kỷ XIX], tr. 33.

Tham khảoSửa đổi

  • Trần Văn Giàu, Tổng tập [phần I], Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2006.
  • Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX, Nhà xuất bản TP. HCM, 2002.
  • Hoàng Văn Lân & Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam [1858 – cuối thế kỷ 19], quyển 3, tập 1, phần 1, Nhà xuất bản Giáo dục, 1979.
  • Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 4, nhiều tác giả, Trần Nam Tiến chủ biên, Nhà xuất bản Trẻ, 2007.
  • Nguyễn Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Nhà xuất bản Văn học, 2008.
  • Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, quyển 5, tập thượng, Sài Gòn, 1962.
  • Lịch sử 11 [nâng cao], Nhà xuất bản Giáo dục, 2007, tr. 223–224.

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • Đà Nẵng – Cuộc chiến đấu chống Pháp xâm lược 1858–1860
  • Cuộc tấn công quân sự đầu tiên của Pháp vào Việt Nam – Henry McAleavy Lưu trữ 2012-03-04 tại Wayback Machine
  • The last emperors of Vietnam By Oscar Chapuis
  • Đoạn liên quan trong Việt Nam sử lược Lưu trữ 2009-05-19 tại Wayback Machine

Video liên quan

Chủ Đề