Ba học thuyết về chủ nghĩa tất định

Thưa tiến sĩ Adler,
Tôi rất băn khoăn trước vấn đề chúng ta có “ý chí tự do,” tức là sức mạnh chọn lựa và quyết định mọi hành vi của riêng mình, hay không. Tôi chấp nhận lối giải thích thế giới của các nhà khoa học tự nhiên, theo đó dòng chảy vạn vật được tất định bởi một khuôn mẫu của các nguyên nhân... Nhưng tôi không hiểu phải phản bác thế nào trước một giải thích tương tự về những vấn đề con người từ các khoa học xã hội, và đặc biệt là tâm lý học, vốn bác bỏ ý niệm về ý chí tự do. Hơn nữa tôi còn do dự không chấp nhận được ý tưởng chúng ta không kiểm soát được cuộc đời riêng của chúng ta. Tôi muốn biết những nhà tư tưởng chính yếu, trong quá khứ và hiện tại, đã nói gì về câu hỏi ý chí tự do và thuyết tất định.

D.J.W.

D.J.W. thân mến,

Những người phủ nhận ý chí tự do thường làm thế vì họ giải thích mọi hiện tượng tự nhiên bằng một chuỗinhững nguyên nhân. Họ cho rằng bởi vì con người là một phần của tự nhiên, hắn không thể được miễn trừ khỏi chuỗi các nguyên nhân phổ quát này. Những người ủng hộ ý chí tự do thì thường phân biệt giữa hành vi con người và mọi hiện tượng tự nhiên khác. Họ khẳng định rằng những hành vi của một con người bắt nguồn từ sự chủ động và chọn lựa của riêng nó. Tuy nhiên một số người theo thuyết ý chí tự do nói rằng sự chủ động của hành vi con người cũng là đặc điểm của mọi sự vật khác trong tự nhiên. Họ cho rằng kiểu mẫu căn bản để chúng ta giải thích thế giới như một chuỗi các nguyên nhân là hoàn toàn sai.

Chúng ta hãy làm rõ cụm từ “tự do của ý chí”có nghĩa gì. Nó có nghĩa là tự do quyết định,chứ không phải tự do hành động. Đó là tự do chọn lựa một kiểu hành động nào đó, một mục tiêu nào đó, hay một lối sống nào đó. Để có thể làm được những gì chúng ta lựa chọn làm tùy thuộc vào những hoàn cảnh ngoại tại. Bất chấp “những gì mọi người phụ nữ biết”, không phải mọi người phụ nữ muốn lập gia đình đều thành công. Vì thế có thể tin vào tự do của ý chí trong khi vẫn thừa nhận rằng tự do hành động của một con người có thể bị hạn chế bởi những hoàn cảnh đối nghịch.

Trong quá khứ các triết gia như Aristotle, D’Aquinas, Descartes,Kantxác nhận tự do ý chí, trong khi Hobbes, Spinoza, Hume, và J.S. Millphản đối. Trong thời hiện tại của chúng ta, Jean Paul Sartre[1], triết gia hiện sinh người Pháp, có lẽ là người bênh vực cực đoan nhất sức mạnh con người trong việc quyết định cho chính nó cái gì nó sẽ trở thành. Sartrenói con người tuyệt đối tự do thoát khỏi mọi tình thế, kể cả ảnh hưởng từ dĩ vãng của chính nó. Chúng ta chỉ là cái gì chúng ta lựa chọn hiện hữu. Chúng ta phải tự do chỉ để được hiện hữumột cách nào đó. Hiện hữu của con người là tự do. Kẻ không có tự do là không phải con người. Sartretuyên bố:

“Tự do nhân vị có trước yếu tính trong con người và nó làm cho yếu tính khả hữu… Con người không hiện hữutrước để tự dosau đó; không có gì khác biệt giữahiện hữu của con người vàtrạng huống tự do của nó”.

Các tư tưởng gia hiện đại khác, như A.N. Whitehead[2], Henri Bergson[3],Paul Weiss[4],và Charles Hartshorne[5], đồng ý với Sartre trong việc khẳng nhận sự tự do lựa chọn. Tuy nhiên, họ khác ông ta ở chỗ họ nhấn mạnh một số ảnh hưởng từ dĩ vãng của con người và ở chỗ họ mở rộng tự do lựa chọn đến thế giới phi nhân văn.

Khi nói đến tâm lý học như “sự bác bỏ” ý chí tự do, có lẽ bạn đang nghĩ về Sigmund Freud. Ông là một trong những kẻ phản đối hiển nhiên nhất của ý chí tự do trong thời đại chúng ta. Đối với Freud, tất cả những khát vọng của con người đều đã bị tất định, một mặt, bởi những xung lực và nhu cầu tự nhiên, và, mặt khác, bởi những áp lực văn hóa mà con người tuân theo một cách không tự giác. Phân tâm học đưa ra một phương pháp thực hiện tự do cá nhân, thông qua một tiến trình tự tri và tự chủ rất gian khổ. Nhưng tự do của ý chí hiểu như một thiên năng, đối với Freud, là điều hoàn toàn hư cấu. Freud nói:

“Nhà phân tâm học được biết tới như người có niềm tin đặc biệt mạnh mẽ vào sự tất định của đời sống tâm linh. Đối với ông ta, trong việc thể hiện tâm linh không có gì… tùy tiện, không có gì vô trật tự… Bất kỳ ai… trốn khỏi sự tất định của các hiện tượng tự nhiên ở bất kỳ mức độ nào, họ đã rời bỏ toàn bộ quan điểm khoa học về thế giới”.

Các triết gia thực chứng đương thời, như Moritz Schlick[6]và A.J. Ayer[7], cho rằng tự do hệ tại vào việc chúng ta có thể thực hiện những khát vọng của mình bằng hành động. Họ nghĩ rằng chúng ta tự do khi có những hoàn cảnh mà có thể chúng ta đã làm khác đi, nếu chúng ta đã lựa chọn làm khác đi. Nhưng họ cho là chúng ta không thể lựa chọn làm khác đi trừ phi toàn bộ dĩ vãng của chúng ta và tất cả những ảnh hưởng khác đối với chúng ta khác đi.

Trong khi xác lập một quan điểm về chủ đề này, chúng ta đối mặt với một song luận thú vị: Những quan niệm về tự do ý chí của chúng ta tự chúng có bị tất định không, hoặc chúng có phải là vấn đề lựa chọn tự do không? Trong bất kỳ trường hợp nào thì chúng ta cũng ở ngoài phạm vi của sự chứng minh khoa học. Và nhân tiện, chưa ai có thể tuyên bố rằng tâm lý học đã và đang phản chứngý chí tự do. William James, bản thân là người tin vào ý chí tự do và đồng thời là nhà tâm lý học khoa học, khẳng định rằng lập trường mà chúng ta xác lập về vấn đề này tự nó là một hành vi của ý chí tự do. Chúng ta phải quyết định một cách tự do ngay cả khi chúng ta tán thành thuyết tất định. Mọi “chứng cứ” sau đó của chúng ta tùy thuộc vào hành vi ý chí tiên quyết này.

Jameskể một câu chuyện vui về một người đàn ông gặp phải một tình thế nan giải. Anh ta trông thấy hai tòa nhà ở hai bên đường đối diện nhau, một tòa nhà treo tấm bảng “Câu lạc bộ Những người theo thuyết Tất định,” tòa nhà kia treo tấm bảng “Hiệp hội ủng hộ Tự do Ý chí.” Trước tiên ông bước vào Câu lạc bộ Những người theo thuyết Tất định, nhưng khi được hỏi tại sao ông muốn gia nhập câu lạc bộ, ông trả lời, “Vì tôi chọn làm vậy,” thế là ông ta bị đẩy ra ngoài. Ông bèn tìm cách gia nhập Hiệp hội ủng hộ Tự do Ý chí, và khi được hỏi một câu tương tự như trên, ông trả lời, “Vì tôi không còn chọn lựa nào khác,” và một lần nữa ông bị xua đuổi.

Tính chất nghịch lý và vòng vo của vấn đề này khiến Jamesnhiều đêm mất ngủ và suýt nữa thì bị suy sụp thần kinh. Tôi hy vọng rằng bạn sẽ không bị xáo động như vậy.

[1]Jean-Paul Sartre[1905 – 1980]: triết gia, kịch tác gia, và tiểu thuyết gia người Pháp. Là một trong những nhà luận thuyết quan trọng nhất của chủ nghĩa hiện sinh, ông viết tác phẩm triết học L’Être et le Néant[“Hữu thể và Hư vô”; 1943] và tiểu thuyết La Nausée[“Buồn nôn”;1939].
[2]Alfred North Whitehead[1861 – 1947]: nhà toán học và triết gia người Anh. Ông soạn chung với Bertrand Russell công trình Principia Mathematica[“Nguyên lý Toán học”; 1910 – 1913].
[3]Henri Bergson[1859 – 1941]: triết gia Pháp. Một trong những ý tưởng có ảnh hưởng quan trọng nhất của ông là năng lực sáng tạo giữ vai trò trung tâm trong sự phát triển của con người. Ông lãnh giải thưởng Nobel về văn chương năm 1921.
[4]Paul Weiss[1898 – 1989]: nhà sinh vật học Mỹ gốc Ao, người có những nghiên cứu tiên phong về cơ chế của sự tái tạo của thần kinh, sự hồi phục thần kinh, và tổ chức tế bào.
[5]Charles Hartshorne[1897 - ?]: triết gia, nhà thần học, nhà giáo dục người Mỹ, nổi tiếng là người đề xướng có ảnh hưởng nhất của “triết học tiến trình”, theo đó Thượng Đế được xem như một thành phần trong sự tiến hóa của vũ trụ.
[6]Moritz Schlick[1882 – 1936]: triết gia thực nghiệm luận lý người Đức, đứng đầu trường phái các triết gia thực chứng nổi tiếng với tên gọi NhómVienna ở châu Âu.[7]Alfred Jules Ayer[1910 – 1989]: nhà giáo dục và triết gia Anh, người biện hộ cho thuyết thực chứng luận lý. Công trình gây chấn động và được nhiều người quan tâm của ông là Language, Truth, and Logic[“Ngôn Ngữ, Chân Lý, và Lôgic”; 1936].

Cập nhật lúc:02:49 CH @ 05/02/2009

TÌM HIỂU

VÀ NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ

Tác giả: Lm. Tôma Thiện Trần Minh Cẩm, OP.

***

***
PHẦN II

CÁC HỌC THUYẾT KHÔNG CHÍNH THỐNG

CHƯƠNG I: HOÀI NGHI CHỦ NGHĨA – DUY VẬT CHỦ NGHĨA – TẤT ĐỊNH CHỦ NGHĨA

I. HOÀI NGHI CHỦ NGHĨA

Ngoài những hệ thống chính thống với những lập trường dứt khoát chúng ta cũng có những người chủ trương một thuyết bất khả tri. Đứng trước những vấn nạn siêu hình, ví dụ như về kiếp sau, về Thượng Đế vv… Họ chỉ đáp rằng: “Tôi không nói là như vậy, tôi không nói là như kia, tôi không nói là khácnhư thế, tôi không nói là không phải thế, tôi không nói là không không phải thế”. Nghĩa là họ không muốn trả lời dứt khoát theo lập trường nào cả. Thí dụ như về vấn đề có đời sau hay không, họ không trả lời có hay họ không trả lời không, họ cũng chẳng bảo là vừa có cừa không. Đó là thái độ của Sanõjaya Belatthiphutta, một nhân vật sống cùng thời với Đức Phật, o83 cùng Magadha mà kinh Samônquả có nói tới [Giâgha Nikâya], II,32 33], và đó hình như cũng là thái độ của những Sa môn và bàlamôn mà kinh Phạm võng nói là họ chủ trương ngụy biện, “trườn uốn như con lươn với 4 luận chấp”, khi bị chất vấn về vấn đề thiên ác thì họ trả lời: “Tôi không như  thật biết, đấy là thiện, tôi không như thật biết, đấy là bất thiện, và nếu tôi trả lời đấy là thiện, hoặc nếu tôi trả lời đây là bất thiện, thì dục tham, sân hoặc hân nổi lên trong tôi bị phiền muộn thì tôi sẽ thành một chướng ngai cho tôi”. Nói tóm lại, về bất cứ vấn đề gì họ cũng chỉ trả lời: “Tôi không nói là như vậy, tôi không nói là như kia, tôi không nói là khác như thế, tôi không nói lá không phải như thế, v.v… [Diâgha Nikâya, I,2, 23tt].

Tất cả những người đó đều được gọi là Ajnõânika, nghĩa là những người chủ trương thuyết bất khả tri [Ajnõânavâda]. Lập trường của họ có lẽ cũng giống với lập trường của triết gia Pyrrhon người Hy lạp, chủ trương rằng tất cả những quan điểm của nhân loạiđều bị chi phối bởi chủ quan, và nếu muốn tìm được sự bình an thư thái cho tâm hồn thì nên có thái độ gọi là époké, nghĩa là tránh tất cả mọi ý tư tưởng, mọi sự phán đoán [of.L.ROBIN, Pyrrhon et le scepticisme grec, 1944, tr.24].

II. DUY VẬT CHỦ NGHĨA

Chúng ta có dịp nói tới những người vô thần ở Ấn độ, chẳng hạn như những người thuộc phái Sâmkha ‘nguyên thuỷ’, và chúng ta biết rằng họ tuy vô thần, nghĩa là không tin có một thần linh tối cao, một Đấng sáng tạo và là chủ tể vạn vật, nhưng họ vẫn công nhận các thần linh và công nhận một nguyên lý tâm linh nơi con người, đó là Purusa, đối lại với Prakrti, nguyên lý vật chất. Một quan niệm duy vật rõ rệt được trình bày trong kinh Sa môn quả, theo đó, có người tên là Ajita Késakambali chủ trương rằng: “Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có cha không có mẹ, không có loại hóa sanh ở đời, không có những vị sa môn, những vị Bàlamôn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng tri giác ngộ đời này đời khác và truyền dạy lại. Con người này do bốn đại hợp thành, khi mệnh chung địa đại trở về với địa giới, thủy đại trở về trả lại cho thủy giới, hỏa đại trở về trả lại cho hỏa giới, phong đại trở về trả lại cho phong giới, các căn sẽ nhập vào hư không. Bốn người gánh quan tài là năm, gánh người chết để mang đi đến chỗ hỏa táng, thốt ra những lời tán tụng, các xương trắng như mầu bố câu và những vật cúng dường trở thành tro bụi, chỉ có người ngu mới tán dương sự bố thí, lời nói chúng trống không, giả dối khi chúng chấp thuyết có sự sống. Kẻ ngu cũng như người hiền, sau khi thân hoại mạng chung sẽ đoan diệt tiêu thất, không còn tồn tại sau khi chết” [Digha Nika. II, 23, bản dịch của Thích minh Châu].

Cũng có thứ thuyết duy vật chấp nhận hiện hữu một linh hồn, nhưng cho rằng linh hồn ấy hoàn toàn giới hạn trong không gian và thời gian với thân xác, thí dụ như trong tập Suyagada có đoạn nói rằng : “giới hạn bởi da, linh hồn hiện từ gót chân lên tới đỉnh đầu; bao lâu thân xác còn thì linh hồn cũng còn; nhưng sau nếu thân xác chết thì linh hồn không còn nữa, thân xác và linh hồn không thể phân ly được, như trường hợp thanh kiếm và bao kiếm hay trường hợp cây mía và nước ngọt của nó [id. 2, 1, 15].

Thực ra, có nhiều người duy vật không phủ nhận một thứ nguyên lý tâm linh nào đó nơi con người, nhưng họ không quan niệm rằng nguyên lý đó sẽ tồn tại sau khi người ta chết. Nhưng vấn đề là phải xác định  bản tính của ‘linh hồn’ đó: Nó độc lập hoàn toàn với thân xác, hay liên hệ với thân xác như thế nào? Hoặc nếu nó chỉ là một với thân xác thì tại sao còn nói tới linh hồn ? Như những người mà trong Anh hùng ca Mahâbhânrata gọi là nastika chủ trương rằng linh hồn không là gì khác ngoài thân xác, bởi vì theo họ, người ta có thể giải thích tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên mà không cần giải thích những sức mạnh tâm linh không vật chất : cây cỏ lớn lên, loài vật sinh ra, hấp lực do nam châm tạo ra nước bốc hơi, và cả ký ức những biến cố vật chất  nữa” [Moksadharma 12, 218, 8].

Vì không có gì khác ngoài thân xác do bốn yếu tố [bhuta] tạo ra cho nên về tri thức luận người ta cũng không thể chấp nhận một phương tiện tri thức nào khác ngoài tri giác trực tiếp; tất cả những gì mà người ta gọi là suy tư, lý luận, đối với những người duy vật cũng chỉ là kết qủa trực tiếp của tri giác. Nhưng không biết họ sẽ trả lời thế nào khi người ta hỏi rằng nhân sinh quan và vũ trụ quan của họ cũng chỉ là do tri giác trực tiếp mà có hay sao? Và nếu như thế thì tại sao lại có sự khác biệt giữa nhân sinh quan và vũ trụ quan của họ với nhân sinh quan và vũ trụ quan của người khác?

Phủ nhận yếu tố tâm linh nơi con người, phái duy vật cũng phủ nhận hiện hữu của một nguyên lý siêu nhiên trong vũ trụ. Không có một nguyên lý vũ trụ Nào khác ngoài vật chất; không có Thượng Đế, cũng không có một định luật luân thường đạo lý nào chi phối hành động và hậu qủa của hành động con người. Sự khác biệt giữa các sinh vật và định mệnh của chúng chỉ là truyện tự nhiên: con công có mầu sặc sỡ, con chim cu có giọng gáy dịu dàng cũng chỉ là do thân phận tự nhiên [svabhâva] của chúng. Bởi vậy, tất cả những học thuyết về Thượng Đế chỉ là lừa dối, tất cả những nghi lễ tế tự chỉ là chuyện các tư  tế bày đặt làm kế sinh nhai. Nếu một con vật hiến tế được siêu thoát lên trời thì tại sao người ta không hiến tế cha mẹ mình để các ngài được siêu thăng?

Không có luật luân thường đạo lý, bởi đó cũng không có thưởng phạt sau khi chết. Tất cả những cố gắng đạt tới Dharma, sự kiện toàn đạo đức, chỉ là công dã tràng. Không có sự giải thoát nào khác ngoài sự chết, cái chết giải thoát mọi người, kẻ ác cũng như người thiện. Cứu cánh hữu lý nhất của con người chỉ còn là sự thoả mãn các giác quan. Không vó Trời, chẳng có Thiên thai hay Niết bàn. Cõi phúc chính là trần thế, và hạnh phúc chỉ có trong những bữa ăn ngon, trongquần áo đẹp, trong hương hoa, và trong ân ái với người đẹp. Hiện hữu của khổ đau lẫn lộn trong vui sướng không làm cho người duy vật thắc mắc và nản chí, họ vẫn mải miết gắng tìm khoái lạc. Cũnh như người ta loại trừ trấu ra một bên để chỉ còn hưởng thụ những hạt gạo.

Ngoài học thuyết duy vật trên đây mà người Ấn gọi là ‘thô tục’ [dhurta], còn một thứ duy vật tinh vi [susiksita], công nhận một yếu tố tâm linh nào đó nơi con người, không phải là một cơ năng của thân xác, nhưng là một cái gì đặc biệt [sui generis]. Tuy nhiên, yếu tố tâm linh này không tồn tại sau khi thân xác bị tiêu hủy. Ngoài ra, những người duy vật này không đồng ý với nhau để đưa ra một quan niệm nào rõ rệt về bản tính của thứ ‘linh hồn’ mà họ chấp nhận.

Tất cả những người duy vật nói trên đây, truyền thống Ấn độ gọi là nâstika, những ‘người chối’, theo nghĩa rộng, thì danh từ này bao gồm tất cả những người chối quyền bính Veda, danh từ theo nghĩa hẹp nó chỉ định những người chủ trương hư vô chủ nghĩa, những người chối linh hồn hiện hữu hay sự trường tồn của linh hồn. Những người duy vật cũng còn gọi là Lokâyata, những người chủ trương học thuyến chỉ liên quan tới thế giới vật chất này. Ngoài ra, người ta còn gọi những người duy vật này là Cârvâka, vì truyền thống cho rằng ông tổ của thuyết duy vật là Cârvâka.

III. THUYẾT TẤT ĐỊNH CỦA GOSÂLA

Thuyết tất định là thuyết của những người chủ trương rằng tất cả số mệnh con người đã được ấn định bởi một quyền lực nào đó mà không ai có thể làm cách nào trống thoát hay đổi thay được: cái gì phải đến sẽ đến với ta ngoài ý muốn, ngoài sự chọn lực của ta. Một ý niệm về định mệnh bất di bất dịch [daiva disti vidhi], hay về sự tất yếu [niyati] thường gặp thấy nơi nhiều nhà tư tưởng Ấn độ, kể cả nơi những người thuộc phái chính thống. Thí dụ điển hình là Chí tôn ca [Bhagavadgitâ] trong số cũng có một vài đoạn cho thấy trình bày một quan niệm rõ rệt là của thuyết tất định. Bởi vì theo tác giải, Chúa định cho ai được giải thoát thì Ngài ban ơn cho họ được giải thoát, trái lại, Ngài đã định cho ai bị đày đoạ làm ma quỷ thì không ngừng đầy đoạ, và càng ngày càng đẩy sâu họ xuống vực thẳm ! [Gitâ 16, 1tt,19tt].

Nhưng tất cả những tư tưởng trên dù có thật trong Chí tôn ca thì cũng vẫn chỉ là những tư tưởng thoáng qua, chưa tạo thành một lập trường rõ rệt, nhất là chưa tạo thành một hệ thống tư tưởng. Mãi vào thời của Mahâvira và thời của Đức Phật mới có một nhóm người gọi là âjivika chủ trương học thuyết của Gósâla Masksriputra mà theo kinh Sa mô qủa, nhân vật này nói rằng: “Không có nhân, không có duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ố… không có tự tác, không có tha tác, không có nhân tác, không có lực, không có tinh tấn, không có nhân lực, không có sự cố gắng của người. Tất cả loài hữu tình, tất cả sanh vật, tất cả sinh mạng đều không tự tại, không lực, không tinh tấn. Chúng bị dắt dẫn, chi phối bởi định mệnh, bởi điều kiện bội loại của chúng, bởi cá tính của chúng. Chúng hưởng thọ, khổ lạc, y theo sáu loại thác sanh của chúng. Có tất cả là 1.000.000 chủng loại thác sanh, lại có thêm 6.000 và 600 nữa. Có 500 loại nghiệp và có 5 nghiệp [theo 5căn], lại có ba nghiệp [về thân, khẩu, ý] lại có toàn nghiệp [thân và khẩu], và bán nghiệp [ý], có 62 đạo, 62 trung kiếp, 6giai cấp, 8 nhâ địa, 4.900 sanh nghiệp, 4.900 kẻ du hành, 4.900 chỗ ở của loài Nâga [loài bán nhân  bán xà], 2.000 căn, 3.000 cảnh địa ngục, 36 trần giới, 7 tưởng thai, 7 vô tưởng thai, 7 tiết thai [sanh từ đốt], 7 loài thiên, 7 loài địa, 7 loài quỷ, 7 hồ nước, 7 pavutas, 7 pâpâtâs [vực thẳm], 700 vực thẳm, 7 mộng, 700 mộng, có 8 trăm 40 vạn đại kiếp, trong trần gian ấy, kẻ ngu và người hiền sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ trừ tận khổ đau. Không có lời nguyện: “với giới hạnh này, với kỷ luật này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này, tôi sẽ làm cho chín mùi những nghiệp chưa được thuần thục, hoặc trừ diệt những nghiệp chưa được thuần thục, hoặc trừ diệt những nghiệp đã được thuầ thục bởi những nhẫn thọ liên tục, không thể đo lường khổ và lạc với những vật đo lường, trong khi luân hồi không có giảm tăng, không có thặng dư, thiếu thốn. Ví như một cuộn chỉ được tung ra sẽ được kéo dài đến một mức độ nào đó. Cũng vậy, kẻ ngu và người hiền sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ trừ tận khổ dau” [Digha  Nikâya II, 20. Bản dịch của Thích minh Châu].

Chúng ta không được biết rõ nhiều hơn về nhóm Âjivika cũng như về học thuyết của họ. H.Zimmer [cf. Les Philosophies de l’Inde, Payot  Paris 1953, pg 208 212] nghĩ rằng có lẽ Go’sâla, ông tổ của họ, đã từng cộng tác lâu ngày với Mahâvira, nhưng sau vì bất đồng quan điểm nên đã ly khai. thực ra, đó cũng chỉ là một giả thuyết không có gì minh chứng được. Có điều đáng chú ý là cả hai bên, Jaina và Aâjivika cùng dùng một danh từ jiva để chỉ định nguyên tử của 4 đại yếu tố vũ trụ [đất, nước, lửa, gió] tạo thành vạn vật. Nhưng sự khác biệt căn bản giữa hai học thuyết là, theo phái Jaina, trật tự thế giới được điều kiện hoá bởi Karman của các đơn tử tinh thần, cũng chính Karman đó chi phối sự luân hồi của các Jiva; trái lại, theo Gosâla, thì như trên đã nói, không có định luật hay quyền bính siêu nhiên nào ngoài định mệnh. Tất cả mọi cái gì hiện hữu trên đời, cứ khi nào trải qua hết mọi kiếp sống, cộng lại tất cả thành 84.000, kể từ kiếp làm đơn tử của đất, nước, lửa, không khí đi lên qua kiếp bất động vật, thảo mộc, động vật, tới kiếp người qua tất cả bằng ấy kiếp sống, con người sẽ được giải thoát. Nhưng sự giải thoát này có vĩnh viễn hay chỉ là tạm bợ? Theo Glasenapp, dựa vào tài liệu gọi là Niolakési thì Gosâla chủ trương rằng thực ra không có gì được tạo ra bất cứ do nguyên nhân nào, nhưng chỉ có sự phát hiện mà thôi. Cũng như khi mặt trời mọc thì các ngôi sao biến đi, tuy rằng chúng vẫn còn đó; cũng thế, khi sự giải thoát này chỉ có tính cách tạm thời; nói cách khác, nó cũng có luân hồi, nghĩa là theo chu kỳ mà trở lại, bởi vì nếu có sự giải thoát vĩnh viễn thì làm gì còn vạn vật để mà giải thoát… Mặt trời mọc rồi lại lặn. Khi mặt trời mọc thì các ngôi sao biến đi… nhưng khi mặt trời lặn thì các ngôi sao lại hiện ra. Cũng thế, khi con người được giải thoát là lúc nó biến dạng trên 84.000 kiếp sống, để rồi có ngày lại xuất hiện lần lượt qua 84.000 kiếp sống khác.

Thật là một học thuyết đen tối hãi hùng, nó bi đát hơn cả thuyết duy vật nữa, chính vì thế mà Đức Phật cho đó là học thuyết tệ nhất trong các học thuyết, và Ngài ví nó như cái áo bằng lông ngựa, nó tệ hơn hết mọi thứ áo, vì nó lạnh khi trời lạnh, nóng khi trời nóng, nó khó ngửi, và sờ vào thì thấy khó chịu. [cf. Anguttara 3, 135].

Video liên quan

Chủ Đề