Bão ảnh hưởng như thế nào đến thiên nhiên nước ta

Hãy nêu ảnh hưởng của biển Đông đến thiên nhiên nước ta

Đề bài

Hãy nêu ảnh hưởng của biển Đông đến thiên nhiên nước ta.

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Xem lại lý thuyết phần Ảnh hưởng của biển Đông với thiên nhiên Việt Nam.

Lời giải chi tiết

Ảnh hưởng của biển Đông đến thiên nhiên nước ta:

a] Khí hậu

- Biển Đông làm tăng độ ẩm của các khối khí qua biển, mang lại cho nước ta lượng mưa và độ ẩm lớn, đồng thời làm giảm tính chất khắc nghiệt của thời tiết lạnh khô trong mùa đông và làm dịu bớt thời tiết nóng bức trong mùa hạ.

- Nhờ có Biển Đông, khí hậu nước ta mang nhiều đặc tính của khí hậu hải dương nên điều hòa hơn.

b] Địa hình và các hệ sinh thái vùng ven biển

- Các dạng địa hình ven biển nước ta rất đa dạng: vịnh cửa sông, các bờ biển mài mòn, các tam giác châu có bãi triều rộng, các bãi cát phẳng, cồn cát, các đầm phá, các vũng vịn nước sâu, các đảo ven bờ và những rạn san hô….

- Các hệ sinh thái vùng ven biển rất đa dạng và giàu có

+ Hệ sinh thái rừng nước mặn ở nước ta vốn có diện tích tới 450 nghìn ha, cho năng suất sinh học cao, đặc biệt là sinh vật nước lợ.

+ Các hệ sinh thái trên đất phèn và hệ sinh thái rừng trên các đảo cũng rất đa dạng và phong phú.

c] Tài nguyên thiên nhiên vùng biển

-Tài nguyên khoáng sản:

+ Có trữ lượng lớn và giá trị nhất là dầu khí. Hai bể dầu lớn nhất hiện đang được khai thác là Nam Côn Sơn và Cửu Long; các bể dầu khí Thổ Chu-Mã Lai và Sông Hồng có trữ lượng đáng kể.

+ Các bãi cát ven biển có trữ lượng lớn titan là nguồn nguyên liệu quý cho các ngành công nghiệp.

+ Vùng ven biển nước ta còn thuận lợi cho nghề làm muối, nhất là ven biển Nam Trung Bộ, nơi có nhiệt độ cao, nhiều nắng, lại chỉ có một số sông nhỏ đổ ra biển.

- Tài nguyên hải sản:

+ Sinh vật Biển Đông tiêu biểu cho hệ sinh vật vùng biển nhiệt đới giàu thành phần và có năng suất sinh học cao, nhất là ở vùng ven bờ. Trong Biển Đông có trên 2000 loài cá, hơn 100 loài tôm, khoảng vài chục loài mực, hàng nghìn loài sinh vật phù du và sinh vật đáy khác.

+ Ven các đảo, nhất là tại quần đảo lớn Hoàng Sa và Trường Sa có nguồn tài nguyên quý giá là các rạn san hô cùng đông đảo các loài sinh vật khác.

d] Thiên tai

- Bão: Mỗi năm trung bình có 9-10 cơn bãi xuất hiện ở Biển Đông, trong đó có 3-4 cơn bão trực tiếp đổ vào nước ta, gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản, nhất là với cư dân sống ở vùng ven biển nước ta.

- Sạt lở bờ biển: Hiện tượng sạt lở bờ biển đã và đang đe dọa nhiều đoạn bờ biển nước ta, nhất là dải bờ biển Trung Bộ.

- Ở vùng ven biển miền Trung còn chịu tác hại của hiện tượng cát bay, cát chảy lấn chiếm ruộng vườn, làng mạc và làm hoang mạc hóa đất đai.

Loigiaihay.com

  • Xác định trên bản đồ Địa lí tự nhiên Việt Nam [bản đồ treo tường hoặc trong Atlat] vị trí các vinh biển: Hạ Long, Đà Nẵng, Xuân Đài, Vân Phong, Cam Ranh. Các vịnh biển này thuộc các tỉnh, thành phố nào ?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 36 SGK Địa lí 12

  • Nêu khái quát về Biển Đông.

    Giải bài tập Bài 1 trang 39 SGK Địa lí 12

  • Hãy nêu ảnh hưởng của Biển Đông đến khí hậu, địa hình và các hệ sinh thái vùng ven biển nước ta.

    Giải bài tập Bài 2 trang 39 SGK Địa lí 12

  • Hãy nêu các nguồn tài nguyên thiên nhiên và thiên tai ở vùng biển nước ta

    Giải bài tập Bài 3 trang 39 SGK Địa lí 12

  • Lý thuyết thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển Địa lí 12

    Lý thuyết thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển Địa lí 12 ngắn gọn, đầy đủ, dễ hiểu.

  • Bài tập 2: a] Phân tích xu hướng biến động diện tích gieo trồng cây công nghiệp hàng năm và cây công nghiệp lâu năm trong khoảng thời gian từ 1975 đến 2005

    Giải bài tập Bài 2 trang 98 SGK Địa lí 12

Nguyên nhân, tác hại của áp thấp nhiệt đới và cách phòng chống

[ĐCSVN] - Áp thấp nhiệt đới là một hiện tượng tự nhiên thường xuyên xảy ra đem đến những đợt khí hậu thất thường, mưa bão. Mặc dù có thể dự đoán trước về áp thấp nhiệt đới trước khi tấn công dịch chuyển vào bờ, nhưng áp thấp nhiệt đới vẫn gây ra nhiều tác hại cả về người và của đối với người dân.

Việt Nam nằm trong khu vực chịu tác động của bão và áp thấp nhiệt đới Tây Bắc – Thái Bình Dương, với bão cực đại di chuyển dần từ bắc xuống Nam. Và mùa bão thường bắt đầu vào khoảng tháng 5 – tháng 6 ở miền Bắc và tháng 9 – tháng 12 ở miền Trung. Trung bình, mỗi năm có khoảng từ 4 – 6 cơn bão và áp suất nhiệt đới vào bờ biển nước ta. Và chính vì thế, Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những đợt áp thấp nhiệt đới này: gây lũ lụt, mưa lớn, dông,… Trong 2020, Việt Nam đã có rất nhiều đợt áp thấp nhiệt đới mạnh thành bão đổ bộ vào miền Trung gây nên thiệt hại nặng nề, khiến cho cuộc sống của người dân trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.

Áp thấp nhiệt đới trên biển Đông. [ảnh minh họa]

Áp thấp nhiệt đới là gì?

Áp thấp nhiệt đới là tên gọi mộthiện tượng thời tiết phức hợpdiễn ra trên diện rộng trên biển hoặc đất liền khi có hiện tượng gió xoáy tập trung quanh một vùng áp thấp nhưng chưa đủ mạnh để gọi là bão nhiệt đới.

Đặc điểm của áp thấp nhiệt đới

Áp thấp nhiệt đới được xem là một vùng xoáy, có đường kính lên tới hàng trăm kilomet, được hình thành chủ yếu trên những vùng có khí hậu nóng như biển nhiệt đới. Áp suất khí quyển trong bão sẽ thấp hơn nhiều so với những vùng xung quanh [dưới 1000mb].

Khi áp thấp nhiệt đới đủ mạnh với gió và hơi nước sẽ hình thành nên bão nhiệt đới. Bão nhiệt đới [tropical storm] khi vào đất liền sẽ gây ra lũ lụt, mưa dông và nhiều tác hại đối với cuộc sống của người dân.

Và nhiều người thường nhầm lẫn giữa áp suất nhiệt đới và bão nhiệt đới bởi đặc điểm của chúng khi vào đất liền. Tuy nhiên, áp thấp nhiệt đới thường nhẹ hơn, gió xoáy từ cấp 6 đến cấp 7 hay khoảng 63km/h. Còn bão nhiệt đới sẽ từ cấp 8 đến cấp 13 hay gió mạnh từ 64km/h. Tuy nhiên, không phải áp thấp nhiệt đới nào cũng tạo thành bão, có những áp thấp nhiệt đới sẽ suy yếu, tan dần và tạo nên những cơn mưa dông nhẹ.

Nguyên nhân hình thành áp thấp nhiệt đới

Nguyên nhân để hình thành nên áp thấp nhiệt đới bao gồm các điều kiện trên bề mặt khí quyển như: khí áp, nhiệt độ, hơi nước, gió,… Chính vì thế, áp thấp nhiệt đới thường xuất hiện ở những vùng khí hậu nóng, đại dương hay trên biển nhiệt đới.

Khi một vùng không khí nóng lên, các vùng lân cận khí áp sẽ giảm dẫn đến sự hút gió từ các phía có khí áp cao hơn và thăng động [tạo ra hơi nước]. Do ảnh hưởng của lực Coriolis - lực lệch hướng do Trái đất tự quay khiến cho hướng gió hút vào tâm áp thấp tạo thành gió xoáy.

Ở bán cầu Bắc, hướng gió lệch về bên phải tạo nên xoáy nghịch nhiệt đới. Còn ở bán cầu Nam thì lực Coriolis làm hướng gió lệch sang bên trái so với hướng chuyển động hình thành xoáy thuận nhiệt đới. Và sự thay đổi hai hướng gió xoáy ngược chiều nhau ở hai bán cầu đã hình thành nên các nhiễu động điện khi ở các vùng khí hậu ôn đới, tạo nên áp thấp nhiệt đới.

Áp thấp nhiệt đới mạnh lên có thể gây thành bão

Tác hại do áp thấp nhiệt đới gây ra

Gây thiệt hại về vật chất và con người

Việc mưa dông do áp thấp nhiệt đới gần bờ kéo đến sẽ làm hư hỏng nhà cửa, các đồ dùng điện tử trong nhà. Gia súc, gia cầm bị chết hay với những hộ gia đình gần biển thì có thể làm chìm tàu – nguồn thu nhập chính của người dân.

Áp thấp nhiệt đới với những cơn gió giật mạnh ở gần tâm bão kèm theo mưa lớn, lốc xoáy sẽ gây lũ lụt, thương vong về người. Đặc biệt, đối với những người dân sống trên biển, đi đánh bắt hải sản xa bờ khi gặp phải những cơn áp suất nhiệt đới này sẽ vô cùng nguy hiểm.

Ngoài ra, áp thấp nhiệt đới còn gây ra lũ, lụt kéo dài; là nguyên nhân của nhiều loại mầm bệnh do rác thải hay môi trường nước không đảm bảo gây ra. Chính vì thế, ảnh hưởng đế sức khỏe, thương vong về con người.

Gây ô nhiễm môi trường

Bên cạnh những thiệt hại về người và của, thì áp thấp nhiệt đới, bão còn khiến ô nhiễm môi trường. Việc lũ, lụt nước dâng lên cao sẽ kéo theo rác thải ngoài môi trường, xác động thực vật ngâm trong nước, khiến môi trường bị ảnh hưởng nặng nề.

Gây thiếu lương thực, nước sạch sinh hoạt

Những đợt áp thấp nhiệt đới trên biển Đông làm nước biển dâng lên khiến cho các nguồn nước ngọt bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, việc mưa lớn gây lũ lụt khiến cho người dân không thể đi lại, gây nên tình trạng thiếu hụt lương thực, thực phẩm.

Ảnh hưởngtớisản xuất nông nghiệp

Mưa dông do áp thấp nhiệt đới kéo dài sẽ khiến cho nước biển dâng lên, gây ngập lụt ven biển, làm nhiễm mặn đồng ruộng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất nông nghiệp hay nuôi tôm, cua, cá.

Công tác di dời dân tới nơi an toàn tránh áp thấp nhiệt đới

Cách phòng ngừa áp thấp nhiệt đới

Có thể nói, tình trạng áp thấp nhiệt đới hiện nay xảy ra phổ biến hơn bởi khí hậu thay đổi, sự ô nhiễm môi trường làm cho Trái Đất nóng lên gây nên biến đổi khí hậu. Chính vì thế, để hạn chế, phòng ngừa áp thấp nhiệt đới thì có thể thực hiện các phương án sau:

Thường xuyên cập nhật thông tin về đợt áp thấp

Khi có áp thấp nhiệt đới, việc cập nhật thông tin thường xuyên sẽ giúp nắm rõ về hướng di chuyển, sức gió, mưa lớn từ đó có những biện pháp phòng tránh hiệu quả nhất.

Đặc biệt, với người dân sinh sống ven biển, việc nắm rõ tình hình thời tiết để xác định có nên đi đánh bắt xa bờ hay không, hạn chế thiệt hại về người và tài sản.

Tích cực trồng rừng, phủ xanh Trái Đất

Hiện nay, tình trạng chặt phá rừng gây nên sói mòn, khiến cho môi trường đất, nước, không khí bị ô nhiễm nặng nề. Vì vậy, việc trồng rừng sẽ hạn chế được những cơn xoáy nhiệt đới, làm giảm đi sức mạnh của chúng, giảm thiệt hại cả về người và của..

Có thể nói, trồng rừng là một trong những việc lâu dài nhưng đem đến hiệu quả vô cùng thiết thực. Giúp cho môi trường sinh sống trở nên xanh, sạch và đẹp hơn.

Bảo vệ môi trường bằng cách sử dụng đồ có thể tái chế hoặc dễ dàng phân hủy

Để giảm thiểu những biến đổi khí hậu gây nên áp thấp nhiệt đới thì bạn có thể bảo vệ môi trường bằng cách hạn chế lượng rác thải thải ra bên ngoài. Hạn chế sử dụng túi nilon hay đồ nhựa, thay vào đó, nên sử dụng các loại túi giấy, ống hút giấy, những đồ dễ dàng tái chế hoặc phân hủy để giúp bảo vệ môi trường tốt hơn.

Xây dựng nhà cửa chắc chắn, kiên cố phòng khi có bão

Áp thấp nhiệt đới thường kèm theo gió giật, mưa dông khi ở gần tâm bão, vì thế, xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc, kiên cố, đảm bảo an toàn khi có bão là vô cùng cần thiết.

Đảm bảo an toàn bằng các phương án bổ sung

Khi có áp thấp nhiệt đới hình thành bão, thì nên chuẩn bị các thiết bị cứu hộ, dự trữ lương thực, nhu yếu phẩm, ngắt hết các nguồn điện trong nhà để đảm bảo an toàn. Ngoài ra, bạn cũng nên chuẩn bị các thiết bị điện tử để liên lạc với cứu hộ khi cần nguy cấp hoặc phải di tản đến những nơi an toàn./.

VH [Tổng hợp]

Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với nước ta: Thực trạng, những vấn đề mới đặt ra và giải pháp.

Ngày phát hành: 17/06/2020 Lượt xem 115864


1. Đặt vấn đề.

Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu [BĐKH], tác động của biến đổi khí hậu thậm chí còn diễn biến nhanh hơn so với dự kiến, chính vì vậy cần phải có những đánh giá hiện trạng, dự báo chính xác để từ đó có những giải pháp phù hợp cho ứng phó với biến đổi khí hậu thích hợp, tránh được những tác động tiêu cực giảm những thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra. BĐKH là vấn đề có tính toàn cấu, Việt Nam đã cam kết với thế giới cùng nỗ lực giảm thiểu khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính, tận dụng cơ hội này để chúng ta cùng phối hợp giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH, biến thách thức thành cơ hội do BĐKH gây ra.

2. Thực trạng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ở Việt Nam.

a] Biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới ngành lĩnh vực

Biến đổi khí hậu ở Việt Nam diễn biến phức tạp, thực tiễn diễn ra trong những năm vừa qua cho thấy biến đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn so với dự kiến, nhìn lại đối chiếu với những nhận định trước đây, thời điểm trước năm 2010, khởi đầu của nhiều nghiên cứu về thiệt hạ của biến đổi khí hậu trên thế giới, nước ta vẫn là quốc gia chịu tác động rất nặng nề của biến đổi khí hậu. Trong một nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu đối với các nước đang phát triển của Ngân hàng thế giới đưa ra những nhận định dự báo từ năm 2007 cho thấy Việt Nam là nước chịu thiệt hại nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, căn cứ vào kịch bản nước biển dâng một trong những yếu tố cơ bản của biến đổi khí hậu, thể hiện rõ nhất thông qua biểu đồ hình 1 dưới đây của tác giả Đỗ Nam Thắng dựa trên nghiên cứu của Dasgupta et al 2007 cho thấy so sánh với 10 nước đang phát triển chịu tác động của biến đổi khí hậu thì Việt Nam là quốc gia chịu thiệt hại tính trên GDP cao nhất.

Hình 1. Dự báo tác động của dâng mực nước biển 1 m đến GDP [tỷ lệ thiệt hại GDP]

Nguồn: Đỗ Nam Thắng trích từ nghiên cứu của Dasgupta et al. 2007.

Theo kịch bản phân tích đối với BĐKH. Kết quả tính toán dự báo thể hiện thông qua bảng 1 dưới đây cho thấy nếu mực nước biển dâng caothêm 1m sẽ có 10,8 triệu người ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hưởng, có khoảng 10,21% GDP, 7,14% diện tích đất nông nghiệp, 28,67% diện tích đất ngập nước và 10,74% diện tích đô thị sẽ bị ảnh hưởng..

Bảng 1. Dự báo tác động của việc dâng mực nước biển 1 m ở Việt Nam

Tổng số

Chịu tác động [giá trị tuyệt đối]

Chịu tác động [tỷ lệ %]

Diện tích [km2]

328.535

16.977

5,17

Dân số [triệu người]

78,137

8,437

10,8

GDP [tỷ USD]

154,787

15,805

10,21

Diện tích đô thị [km2]

5.904

634

10,74

Diện tích nông nghiệp [km2]

192.816

13.773

7,14

Đất ngập nước [km2]

46.179

13.241

28,67

Nguồn: Đỗ Nam Thắng trích từ nghiên cứu của Dasgupta et al. 2007.

Trong những năm gần đây, nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu cũng đã chỉ ra nhiều vấn đề cần phải lưu tâm, chẳng hạn năm 2017 là năm có số lượng các cơn bão ảnh hưởng tới nước ta nhiều bất thường [16 cơn bão], theo tính toán của Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống thiên tai và tổng cục thống kê thiệt hại khoảng 38,7 nghìn tỷ đồng tương đương 2,7 tỷ USD.

Ảnh hưởng của BĐKH đến hoạt động sản xuất thấy rõ nhất là đối với ngành nông nghiệp. Ở Việt Nam với đặc trưng của khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, trong sản xuất nông nghiệp, lúa là loại cây trồng chủ lực, ảnh hưởng của BĐKH đến sản xuất lúa hàng năm chiếm tỷ trọng lớn nhất, theo tính toán của tổng cục thống kê năm 2018 trung bình cho giai đoạn 2011-2016 khoảng 66,1% . Riêng năm 2016 hạn hán và xâm nhập mặn ảnh hưởng đến 527,7 nghàn ha lúa bị thiệt hại, trong đó khoảng 44% diện tích bị thiệt hại hoàn toàn. Đối với các loại cây trồng khác như hoa màu, các loại cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày cũng bị ảnh hưởng, năng suất cây trồng giảm khoảng 50% do tác động của BĐKH. Ảnh hưởng của BĐKH còn tác động đến chăn nuôi, lâm nghiệp, đa dạng sinh học, cháy rừng, các hệ sinh thái đất ngập nước, nuôi trồng thủy sản…, như vậy đối với sản xuất nông nghiệp cần phải có một cách nhìn nhận mới và toàn diện hơn đặt trong bối cảnh hoàn động sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng của BĐKH

Biến đổi khí hậu còn ảnh hưởng tới hoạt động giao thông vận tải, theo nghiên cứu của kịch bản BĐKH nếu mực nước biển dâng cao 1m có khoảng 9% hệ thống đường quốc lộ, 12% hệ thống đường tỉnh lộ, 4% hệ thống đường sắt sẽ bị ảnh hưởng, trong đó tập trung nhiều nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu long chiếm 28% đường quốc lộ và 27% đường tỉnh lộ của cả nước, tiếp đến là các tỉnh ven biển miền Trung và đống bằng sông Hồng.

Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến phát triển đô thị, các khu công nghiệp và nhà ở, mức độ ảnh hưởng tùy thuộc vào từng vùng, từng địa phương và từng vị trí theo địa hình phân bố. Nghiên cứu tổng thể cho thấy khu vực ven biển chịu tác động chính của bão, vùng miền núi chịu tác động của lũ quét, lốc xoáy, sạt lở, vùng trung du và đồng bằng chủ yếu là ngập lụt, lốc xoáy, mưa đá.

Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến du lịch, thương mại, năng lượng…và nhiều hoạt động kinh tế khác trực tiếp hay gián tiếp. Những ảnh hưởng này trong những năm vừa qua đã biểu hiện khá rõ nét, mỗi ngành, lĩnh vực đều có thể cảm nhận và đánh giá được ảnh hưởng của BĐKH.

Đối với công nghiệp, ảnh hưởng của BĐKH khí hậu sẽ tác động đến ngành công nghiệp chế biến, nhất là chế biến những sản phẩm nông nghiệp. Trong trường hợp nhiệt độ tăng sẽ làm tăng tiêu thụ năng lượng kéo theo nhiều hoạt động khác tăng theo như tăng công suất nhà máy phát điện, tăng sử dụng các thiết bị làm mát, ảnh hướng tới an ninh năng lượng quốc gia. Những nghiên cứu theo kịch bản nước biển dâng cho thấy, nếu mực nước biển dâng cao 1m sẽ làm cho hầu hết các khu công nghiệp ven biển bị ngập,mức thấp nhất trên 10% diện tích, mức cao nhất khoảng 67% diện tích.

Đối với bình đẳng giới, những nghiên cứu gần đây cho thấy BĐKH ảnh hưởng tới công việc của phụ nữ, nữ giới là nhóm dễ bị tổn thương do BĐKH, ảnh hưởng tới sức khỏe, kinh tế hộ gia đình và vấn đề di cư. Thực trạng này đã và đang thể hiện ngày càng rõ ở những vùng chịu nhiều tác động của BĐKH như vùng ĐBSCL và khu vực ven biển, khu vực nông thôn.

Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH, chúng ta cũng phải nhìn nhận toàn diện hơn đối với những ảnh hưởng có tính tích cực, chẳng hạn trong sản xuất nông nghiệp đối với lượng mưa, bên cạnh những tác động tiêu cực, cũng sẽ có những vùng có tác động tích cực. Trong sản xuất nông nghiệp, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và mùa vụ do BĐKH cần phải được phân tích kỹ lưỡng để thầy được những mặt tích cực và tiêu cực lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí cơ bản để đánh giá.

b] Biến đổi khí hậu ảnh hưởng theo lãnh thổ.

Do đặc điểm địa lý, mỗi khu vực có vị trí Địa lý và địa hình khác nhau, mức độ chịu ảnh hưởng của BĐKH đối với mỗi vùng cũng khác nhau, dựa trên tiêu chí cơ bản về nước biển dâng, đặc trưng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu có thể chia thành ba địa bàn lãnh thổ gồm đồng bằng, ven biển và miền núi.

  • Đối với vùng đồng bằng, nước ta có hai vùng đồng bằng lớn đó là Đồng bằng sông Hồng [ĐBSH] và đồng bằng sông Cửu Long [ĐBSCL]. Đối với ĐBSCL là vùng chịu tác động nặng nề nhất của BĐKH, theo tính toán kịch bản BĐKH, đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ tăng khoảng 3,4 độ C, mực nước biển tăng thêm 1m sẽ có khoảng 40% diện tích đất bị ngập vĩnh viến, khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp do mất đất, thêm vào đó BĐKH diễn ra ở ĐBSCL kéo theo hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở và nhiều hệ lụy đi kèm như đã từng diễn ra những năm gần đây.

    Đối với ĐBSH, với kịch bản nước biển dâng cao 1m vào cuối thế kỷ 21, ĐBSH sẽ có 240.000 ha đất sản xuất nông nghiệp của vùng bị ảnh hưởng, dự báo năng suất lúa giảm 8%-15% vào năm 2030 và lên tới 30% vào năm 2050. Nếu tính tỷ lệ diện tích đất bị ngập nước khi nước biển dâng cao 1m vào cuối thế kỷ 21 có khoảng 3% diện tích bị ngập, trong đó 1,4% diện tích trồng lúa, 0,6% khu dân cư bị ảnh hưởng. Những tỉnh chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là Thái Bình, diện tích đất bị mất khoảng 31,2%, Nam Định 24% và thành phố Hải phòng 17,4%. So với ĐBSCL, ĐBSH ngập lụt ít hơn và ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn thấp hơn, tuy nhiên tính chất cực đoan và tính dị thường của BĐKH và rủi ro cao hơn, nhất là gió bão sẽ tác động mạnh hơn so với ĐBSCL.

  • Đối với vùng ven biển, nhất là khu vực ven biển Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, ảnh hưởng của BĐKH lớn nhất là bão, áp thấp nhiệt đới. Đối với khu vực ven biển miền Trung hank hán, lũ lụt, sạt lở đất, thoái hóa đất diễn ra mạnh mẽ hơn. Những vùng ven biểu còn chịu ảnh hưởng của xâm nhập mặn. Theo tính toán nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m, một số khu vực trũng đồng bằng ven biển miền trung sẽ bị ngập như ở Thanh Hóa.
  • Đối với khu vực miền núi, đặc điểm khu vực miền núi của nước ta phân bố nhiều dân tộc ít người, trình độ dân trí thấp, do vậy ảnh hưởng của BĐKH diễn ra khả năng chống đỡ hạn chế. Ảnh hưởng chính của BĐKH khu vực này là tính dị thường của BĐKH, trong nền chung nhiệt độ tăng sẽ càng trầm trọng hơn thiếu nước về mùa khô, nhất là Tây Nguyên và Tây Bắc, suy giảm đa dạng sinh học, sự thay đổi hệ sinh thái. Nhiệt độ giảm sâu tác động tới chăn nuôi gia súc, gia cầm nhất là đối với trâu bò, thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, khi nhiệt độ giảm sâu một lượng lớn trâu bò ở miền núi phía Bắc chết nhiều. Ảnh hưởng của BĐKH gây ra lũ quét, sạt lở đất, lốc xoáy, mưa đá là những hiện tượng khá phổ biến. Khu vực miền núi Bắc Trung Bộ với nền nhiệt tăng, cùng với khô hạn dễ dẫn đến cháy rừng, suy giảm đa dạng sinh học tác động tới đời sống nhân dân.

Ảnh hưởng BĐKH tùy thuộc vào mỗi địa bàn lãnh thổ như đã nêu không giống nhau, do vậy phải có những giải pháp phù hợp theo vùng, nhất là trong bối cảnh mới tình hình diễn biến phức tạp, tính rủi ro của BĐKH ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó cũng có những vùng, do ảnh hưởng của BĐKH bên cạnh những tác động tiêu cực cũng có những tác động tích cực, chẳng hạn nhiệt độ tăng, giờ nắng nhiều là cơ hội cho phát triển năng lượng mặt trời, có những vùng bị tác động tiêu cực, nhưng cũng có nơi tác động tích cực. Như vậy đòi hỏi phải có một nhìn nhận có tính toàn diện ảnh hưởng của BĐKH theo vùng, phân bố theo không gian lãnh thổ.

3. Những giải pháp cần có đối với ảnh hưởng của Biến đổi khí hậu.

Nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và tận dụng những mặt tích cực của BĐKH dựa trên cơ sở đánh giá khách quan và những dự báo có tính dài hạn để từ đó có những giải pháp phù hợp.

Thứ nhất, tăng cường phổ biến, truyền thông, nâng cao nhận thức về ảnh hưởng của BĐKH cho mọi tầng lớp nhân dân, các cấp, các ngành nhất là những diễn biến trong bối cảnh mới. Sau đại dịch Covid-19, cần có cách thức mới để người dân thấy được BĐKH cũng là nguyên nhân tác động tới sức khỏe và ảnh hưởng tới hệ sinh thái, con người gắn bó với hệ sinh thái và phải chống chịu, thích ứng.

Thứ hai, BĐKH đã được khẳng định là một nhân tố ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống, kinh tế-xã hội, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH, do vậy về quan điểm chúng ta chấp nhận những ảnh hưởng này để có những giải pháp phù hợp, trong đó có những ảnh hưởng tiêu cực nhưng đồng thời cũng có những ảnh hưởng có tính tích cực, biến những thách thức của BĐKH thành những cơ hội để chủ động giảm thiểu và thích ứng dựa trên nguyên tắc giải quyết hài hòa, tính hiệu quả, phù hợp với diễn thế của thiên nhiên được đặt lên hàng đầu.

Thứ ba, xét trong bối cảnh mới, một trong những điểm nghẽn để giải quyết những vấn đề liên quan đến thể chế đó là “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Giải pháp phù hợp trong ứng phó với BĐKH cần dựa vào tiếp cận thị trường [MBA], trước hết là vai trò của doanh nghiệp và người dân nhằm tạo ra cơ chế tạo nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính. Hiện tại quỹ ứng phó với BĐKH đã và đang vận hành ở nhiều quốc gia phát triển trên thế giới như một số nước ở chấu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…, nếu doanh nghiệp và người dân tiếp cận quỹ này sẽ có được nguồn lực tài chính không phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước. Thị trường Cac Bon là một cơ chế tài chính tốt trên thị trường, Việt Nam nên sớm hình thành và tham gia vào thị trường này.

Thứ tư, cần phải căn cứ vào kịch bản đưa ra do BĐKH, nhất là kịch bản nước biển dâng thêm 1m từ nay đến cuối thế kỷ 21 để có những tính toán đầy đủ và phương án qui hoạch phù hợp đối với hoạt động sản xuất các ngành, lĩnh vực, phân bố dân cư và chuyển đổi phát triển kinh tế theo cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ phù hợp.

Thứ năm, trong qui hoạch và xây dựng chính sách cần phải lồng ghép yếu tố BĐKH để có biện pháp chủ động ứng phó phù hợp với những ảnh hưởng của BĐKH đối với từng ngành, lĩnh vực và từng vùng phù hợp với thực tiễn đang và sẽ diễn ra.

Thứ sáu, cần có những giải pháp cho từng ngành, lĩnh vực và từng vùng đối với ảnh hưởng của BĐKH xét trong bối cảnh mới. Trước hết chú trọng tới ngành nông nghiệp trong việc cơ cấu lại cây trồng, vật nuôi do những ảnh hưởng của BĐKH không chỉ chống chịu mà còn mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Đối với từng vùng, ưu tiên hàng đầu là vùng ĐBSCL, triển khai và thực hiện tốt Nghị quyết 120 của Chính phủ để phát triển bền vững vùng ĐBSCL trong bối cảnh BĐKH. Những vùng khác phụ thuộc vào đặc trưng của mỗi vùng để có những giải pháp phù hợp, đối với vùng ven biển, ưu tiên hàng đầu là ứng phó với bão, áp thấp nhiệt đới, đối với vùng miền núi là lũ lụt, lũ quét, hạn hán, lốc xoáy và thoái hóa đất.

Thứ bảy, tăng cường khả năng chống chịu trước ảnh hưởng của BĐKH, phát triển các mô hình kinh tế dựa vào hệ sinh thái [EbA], dựa vào cộng đồng [CbA] và dựa vào tự nhiên [NbS], cho mỗi địa phương, lấy kiến thức bản địa kết hợp với khoa học công nghệ mới đầu tư phát triển, đặt sinh kế và sự an toàn của người dân lên hàng đầu. Từ những kết quả đạt được, nhân rộng mô hình cho từng địa phương, cho từng vùng.

Thứ tám, biến đổi khí hậu là vấn đề có tính toàn cầu, chỉ một mình Việt Nam sẽ không giải quyết được, chính vì vậy cần có sự phối hợp với các tổ chức, các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, hơn nữa chúng ta đã cam kết cùng nỗ lực toàn cầu để giảm thiểu phát thải khí nhà kính, chính vì vậy cần tăng cường hơn nữa hợp tác quốc tế, nắm bắt cơ hội để có những chuyển giao về khoa học công nghệ thế hệ mới, đầu tư tài chính và kinh nghiệm quốc tế trong ứng phó với BĐKH.

4. Kết luận.

Ảnh hưởng của BĐKH đối với Việt Nam những năm vừa qua nhanh hơn so với dự kiến. So với kịch bản biến đổi khí hậu, nhất là dự kiến mực nước biển dâng cao 1m vào cuối thế kỷ 21 khi mà đến 40% diện tích ĐBSCL bị ngập, cùng với đó là một số khu vực đồng bằng ven biển và ĐBSH. Những ảnh hưởng của BĐKH đối với các ngành, lĩnh vực, nhất là sản xuất nông nghiệp đang báo hiệu một thách thức lớn cho Việt Nam. Trước thực trạng của ảnh hưởng BĐKH xét trong bối cảnh mới cần có những giải pháp phù hợp từ thể chế đến các ngành, lĩnh vực, từng địa phương và từng vùng. Dự báo những ảnh hưởng của BĐKH, nhất là xây dựng kịch bản cho những năm tới đến cuối thế kỷ 21 có ý nghĩa hết sức quan trọng, để đảm bảo tính hiệu quả, chính xác cần mở rộng quan hệ quốc tế và tận dụng nguồn lực bên ngoài, nhất là KHCN thế hệ mới, con người và tài chính./.

PGS.TS.Nguyễn Thế Chinh.

Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường.

Ủy viên Hội đồng lý luận trung ương.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Anthony E.Boardman, David H.Greenberg, Aidan R.Vining, David L.Weimer. Cost-Benefit Analysis, concepts and Practice. Third Edition.2006.
  2. Ban Chấp Hành Trung ương Đảng. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 “về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”.
  3. Ban chấp hành trung ương. Kết luận của Bộ Chính trị: Số 56-KL/TW ngày 23 tháng 8 năm 2019 “ về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI, về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”.
  4. Dasgupta, S., Laplante, B., Meisner, C., Wheeler, D. and Yan, J., 2007: The impact of Sea Level Rise on Developing Countries: a comparative analysis, World Bank Policy Research Working Papar 4136, February 2007.
  5. Đỗ Nam Thắng: Phân tích kinh tế về tác động của biến đổi khí hậu: các trường phái học thuật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam

HÌNH THÀNH VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BÃO

Hằng năm, nước ta phải hứng chịu mùa mưa bão kéo dài từ tháng 5 đến tháng 12, với những cơn bão hình thành từ Biển Đông di chuyển và gây ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền, nhất là các tỉnh ven biển.



Bão là từ khá quen thuộc với mỗi chúng ta, nhưng chắc hẳn không phải ai cũng biết về nó. Vậy bão là gì? Bão được hình thành và hoạt động như thế nào?

Khái niệm về bão

Bão và ATNĐ được gọi chung là xoáy thuận nhiệt đới [XTNĐ]: là một vùng gió xoáy, có đường kính tới hàng trăm kilômét, hình thành trên vùng biển nhiệt đới. Ở bắc bán cầu, gió thổi xoáy vào trung tâm theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Áp suất khí quyển trong bão thấp hơn rất nhiều so với xung quanh và thường thấp hơn 1000mb.

Cấu trúc của bão

Trong không gian ba chiều, bão là một cột xoáy khổng lồ, ở tầng thấp [khoảng 0−3km] không khí nóng ẩm chuyển động xoắn trôn ốc ngược chiều kim đồng hồ [ở Bắc Bán Cầu] hội tụ vào tâm, chuyển động thẳng đứng lên trên trong thành mắt bão và tỏa ra ngoài ở trên đỉnh theo chiều ngược lại. Ở chính giữa trung tâm của cơn bão không khí chuyển động giáng xuống, tạo nên vùng quang mây ởmắt bão.

Các thành phần chính của bão bao gồm các dải mưa ở rìa ngoài, mắt bão nằm ở chính giữa vàthành mắt bãonằm ngay sát mắt bão.

Giá trị khí áp nhỏ nhất tại tâm bão và tăng dần ra phía rìa bão. Càng vào gần tâm, cường độ gió bão càng mạnh, khu vực tốc độ gió mạnh nhất cách tâm bão khoảng vài chục km. Vào vùng mắt bão gió đột ngột yếu hẳn, tốc độ gió gần bằng không. Khi qua khỏi vùng mắt bão gió lại đột ngột mạnh lên nhưng có hướng ngược lại, đây chính là tính chất ảnh hưởng nguy hiểm nhất của bão.

Điều kiện hình thành bão

Bão chỉ có thể hình thành khi có đủ 3 điều kiện: Nhiệt, ẩm và động lực để tạo xoáy.

Nhà khí tượngErik Palmenđã tìm ra rằng bão chỉ có thể hình thành trên biển trong dải vĩ độ 5 - 20 độ vĩ hai bên xích đạo có nhiệt độ cao [từ 26 – 27 độ C trở lên] đảm bảo cung cấp đủ lượng hơi nước khổng lồ bốc hơi mạnh từ mặt biển để cung cấp năng lượng ngưng kết cho bão hình thành và lựccoriolis đủlớn để tạo xoáy, tạo điều kiện thuận lợi cho bão hình thành.Sở dĩ bão không thể hình thành trong giải 0 – 5 độ vĩ về hai phía của xích đạo vì ở đó lực coriolis quá nhỏ, không đủ để tạo xoáy.Khối không khí trong vùng xoáy có chiều ngang khoảng 200 km, chiều dàikhoảng1000 km,cách mặt đất khoảng 10 - 12 km.

Lực Coriolis không những ảnh hưởng đến chiều quay của cơn bão mà nó quy định hướng di chuyển của cơn bão. Theo đó, cơn bão hình thành ở Bắc Bán Cầu luôn di chuyển lệch về bên phải, còn bão hình thành ở Nam Bán Cầu luôn di chuyển lệch về bên trái. Chính vì thế, khi bão hình thành ở biển Đông luôn có xu hướng di chuyển về phía đất liền Việt Nam.

Vòng đời của một cơn bão

Một cơn bão cần từ nhiều giờ cho đến nhiều ngày trước khi hình thành nên cơn bão hoàn chỉnh. Môt chu kỳ của vòng xoáy tiếp diễn khi tốc độ của gió được đẩy lên và sự nhiễu loạn trải qua 3 giai đoạn chính:

- Áp thấp nhiệt đới : tốc độ gió dưới 38mph

- Bão nhiệt đới : tốc độ gió từ 39 – 73mph

- Bão : tốc độ trên 74mph

Các cơn bão cũng có nhiều kích thước khác nhau. Một vài cơn bão nhỏ chỉ gồm một ít gió và mưa đi kèm trong khi có những cơn bão trải dài hàng ngàn dặm với mưa và gió lớn. Trên đường di chuyển, khi đến nơi có nhiệt độ thấp dưới 26oC, đến vùng biển lạnh hoặc vào sâu trong đất liền, bão sẽ mất nguồn năng lượng bổ sung từ không khí nóng ẩm trên biển, bão sẽ yếu dần và tan đi. Đồng thời khi đến đất liền, với sự cản trở của địa hình, cây xanh cộng với lực ma sát với mặt đất cũng làm bão tan nhanh.

Bão nhiệt đới "tropical storms" là những cơn lốc xoáy, hình thành ngoài biển khơi, khi nhiệt độ của nước biển nóng quanh 26°C, khối lượng khí ấm bốc lên tạo thành những đám mây khổng lồ ẩm và ấm, chúng hấp dẫn, hút không khí từ tứ phương đến, lấy năng lượng từ khí này tạo nên những luồng gió có vận tốc lên đến 300km/h, 186mph.

Bão biểnđược định nghĩa và quy định qua các cơ quan khí tượng quốc tế, phân biệt và gọi tên như: Cyclone, Hurricane, Typhoon, tùy thuộc vào nơi hình thành và cấu tạo của nó. Những loại bão biển này kéo dài nhiều ngày đến 2 hay 3 tuần, chúng di chuyển tuyến đường dài, có đường kính từ 15km đến 500km. Ngay chính giữa vòng xoáycủa bão biển gần như không có mây, không có gió. Khi cơn bão chạm với đất liền, do sức cọ chạm với đất và cây cối, chúng dần dần mất đi năng lượng và từ từ biến mất.

Quy luật chung của bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng tới Việt Nam

Theo số liệu thống kê nhiều năm thì trung bình hàng năm có khoảng 5 - 6 cơn bão và 2 - 3 ATNĐ ảnh hư­ởng đến Việt Nam. Mùa bão bắt đầu từ tháng 6 và kết thúc vào cuối tháng 11 và nửa đầu tháng 12. Bão thường tập trung nhiều nhất trong các tháng 8, 9, và 10.

Hướng di chuyển trung bình của bão cũng khác nhau theo mùa. Thời kỳ nửa đầu mùa bão, quỹ đạo bão có hướng Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc, thư­ờng đổ bộ vào Đông Nam Trung quốc, Nhật Bản. Thời kỳ sau quỹ đạo thiên h­ướng Tây về phía Việt Nam. Trung bình, từ tháng 1 - 5, bão ít có khả năng ảnh hưởng đến Việt nam. Từ tháng 6 - 8, bão có nhiều khả năng ảnh hưởng đến Bắc Bộ. Từ tháng 9 - 11, bão có nhiều khả năng ảnh hưởng đến Trung Bộ và Nam bộ.
Ở nửa đầu mùa bão, quỹ đạo của bão ít phức tạp, và ngược lại, bão thường di chuyển phức tạp trong nửa cuối mùa bão.Quỹ đạo của bão trong Biển Đông có thể được chia thành 5 dạng chính: ổn định, phức tạp, parabol, suy yếu trên biển và mạnh lên gần bờ. Trong số đó, dạng phức tạp và mạnh lên gần bờ là khó dự báo nhất. Hơn nữa, khu vực Biển Đông chịu sự chi phối của nhiều hệ thống thời tiết khác nhau nên càng làm cho việc dự báo phức tạp hơn.
Lưu ý rằng, các đặc điểm trên đây là những tính chất trung bình đặc trưng nhất. Trong mỗi năm cụ thể, sự xuất hiện và tính chất quĩ đạo bão có thể khác nhiều so với các giá trị trung bình này.

Thiệt hại do bão

Hàng năm bão đã trở thành nỗi kinh hoàng gây thiệt hại nặng nề cho những quốc gia ven biển. Mỗi cơn bão có thể trút hàng trăm thậm chí vài trămmilimet nước chỉ trong một ngày. Nguy hiểm hơn khi bão kết hợp với triều cường sẽ gây ra lũ lụt nghiêm trọng. Ngoài ra gió giật trong bão kèm theo những cơn lốc xoáy có thể làm đổ nhiều công trình, nhà cửa, cây cối…

Mức độ thiệt hại do bão không chỉ phụ thuộc vào sức mạnh của các cơn bão mà còn phụ thuộc vào cách nó đổ bộ. Thiệt hại do bão gây ra khác nhau tùy thuộc theo chúng tấn công vào phía nào của một khu vực nhất định. Nếu nó tấn công ở phía bên phải sẽ gây ra ảnh hưởng lớn hơn ở phía bên trái vì bên phải tốc độ gió và tốc độ của bão chuyển động bổxung cho nhau còn ở phía bên trái, tốc độ gió và tốc độ của bão chuyển động bù trừ lẫn nhau.

Chính vì vậy, sự kết hợp giữa gió, mưa và lũ lụt do một cơn bão gây ra có thể gây ra những thiệt hại không thể lường trước được cho khu vực bị bão đổ bộ.

Quy định về bản tin dự báo, cảnh báo bão ở nước ta

1. Tin bão gần Biển Đông

Tin bão gần Biển Đông được ban hành khi bão hoạt động ở ngoài Biển Đông và có khả năng di chuyển vào Biển Đông trong 48 giờ tới.

2. Tin bão trên Biển Đông

Tin bão trên Biển Đông được ban hành khi bão hoạt động trên Biển Đông và có một trong các điều kiện sau:

a] Vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền Việt Nam trên 1.000 km;

b] Vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền Việt Nam từ 500 đến 1.000 km và chưa có khả năng di chuyển về phía đất liền Việt Nam trong 48 giờ tới.

3. Tin bão gần bờ

Tin bão gần bờ được ban hành khi có một trong các điều kiện sau:

a] Vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền Việt Nam từ 500 đến 1.000 km và có khả năng di chuyển về phía đất liền Việt Nam trong 48 giờ tới;

b] Vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền Việt Nam từ 300 đến dưới 500 km và chưa có khả năng di chuyển về phía đất liền Việt Nam trong 48 giờ tới.

4. Tin bão khẩn cấp

Tin bão khẩn cấp được ban hành khi có một trong các điều kiện sau:

a] Vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền Việt Nam dưới 300 km;

b] Vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền Việt Nam từ 300 đến 500 km và có khả năng di chuyển về phía đất liền Việt Nam trong 48 giờ tới.

5. Tin bão trên đất liền

Tin bão trên đất liền được ban hành khi có một trong các điều kện sau:

a] Tâm bão đã đi vào đất liền Việt Nam và sức gió mạnh nhất vẫn còn từ cấp 8 trở lên;

b] Tâm bão đã đổ bộ vào nước khác, nhưng sức gió mạnh nhất vẫn còn từ cấp 8 trở lên và có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam trong 48 giờ tới.

6. Tin cuối cùng về cơn bão

Tin cuối cùng về cơn bão được ban hành khi có một trong các điều kiện sau:

a] Bão đã tan;

b] Bão đã đổ bộ vào nước khác hoặc ra khỏi lãnh thổ, không còn khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam;

c] Bão đã di chuyển ra ngoài Biển Đông và không có khả năng quay trở lại Biển Đông.


×

Video liên quan

Chủ Đề