Biện chứng là gì cho ví dụ năm 2024

Ai đó có thể thấy ở đây sự nguy hiểm của những cách nói thiếu chặt chẽ và ẩn dụ. Tính thiếu chặt chẽ trong nhận định của các nhà biện chứng rằng các mâu thuẫn là không thể tránh khỏi và rằng không cần thiết phải tránh chúng bởi vì chúng thực sự hữu ích dẫn đến lầm lạc nguy hiểm. Nó dẫn đến lầm lạc bởi vì, như chúng ta đã biết, cái mà có thể được gọi là tính hữu ích của các mâu thuẫn thuần túy chỉ là kết quả của quyết định của chúng ta trong việc không sống chung với nó (một thái độ tuân theo qui luật về mâu thuẫn). Và nó nguy hiểm, bởi vì để nói rằng các mâu thuẫn không cần thiết phải tránh, hoặc có lẽ ngay cả rằng chúng không thể tránh khỏi, tất dẫn đến việc phá hủy khoa học, và phá hủy sự phê phán, nghĩa là phá hủy lý tính. Có một điều cần phải nói rõ cho bất cứ ai mong muốn đi xa hơn trong việc tìm kiếm chân lý và khai sáng trí tuệ là: anh ta nhất thiết phải, và thậm chí là có nhiệm vụ phải, tự rèn luyện nghệ thuật diễn đạt mọi thứ sao cho rõ ràng và không mập mờ – ngay cả khi điều này khiến ta phải từ bỏ những cái hay nhất định của phép ẩn dụ và những lời nói đa nghĩa thông minh.

Do đó, tốt nhất chúng ta nên tránh một số kiểu diễn đạt nhất định. Ví dụ, thay vì việc sử dụng các thuật ngữ mà chúng ta dùng để nói về chính đề, phản đề, và hợp đề, các nhà biện chứng thường mô tả tam đoạn biện chứng bằng cách sử dụng thuật ngữ (“phủ định” ( của chính đề)” thay cho “phản đề” và “phủ định của phủ định” thay cho “hợp đề”. Và họ thích sử dụng thuật ngữ “mâu thuẫn” (contradiction) nơi các thuật ngữ như “tranh chấp” (conflict) hoặc có lẽ cả “xu hướng đối lập” (opposing tendency) hoặc “lợi ích đối lập” (opposing interest), v.v. không tỏ ra quá sai lạc. Cách sử dụng thuật ngữ của họ có lẽ sẽ không gây ra nguy hại nếu như các thuật ngữ như “phủ định” và “phủ định của phủ định”, (và tương tự, thuật ngữ “mâu thuẫn”) không có nghĩa rõ ràng và mạch lạc trong logic học, khác hẳn với nghĩa sử dụng trong phép biện chứng. Trên thực tế, việc sử dụng sai các thuật ngữ này đã gây ra nhầm lẫn đáng kể giữa logic học và phép biện chứng trong các bài luận của các nhà biện chứng. Họ thường xuyên coi phép biện chứng như là một phần – phần tốt hơn – của logic học, hoặc thi thoảng như là một bộ môn logic hiện đại, cách tân. Lý do thực sự của thái độ như thế này sẽ được bàn đến ở phần sau. Ngay bây giờ tôi chỉ muốn nói rằng phân tích của chúng ta không đưa đến kết luận rằng phép biện chứng có một cái gì đó tương tự như logic học. Vì lý do là logic học có thể được mô tả – có lẽ là chưa thật chính xác nhưng đủ để thỏa mãn các mục đích hiện tại của chúng ta – như là một lý thuyết về sự diễn dịch. Chúng ta không có bất kỳ lý do gì để tin rằng phép biện chứng có một cái gì đó liên quan quan đến sự diễn dịch.

Tóm lại: phép biện chứng là gì – biện chứng theo nghĩa mà chúng ta có thể đưa được một nghĩa rõ ràng vào tam đoạn biện chứng – có thể được mô tả như thế đó. Phép biện chứng, hoặc chính xác hơn, lý thuyết về tam đoạn biện chứng, phát biểu rằng các quá trình phát triển nhất định, hoặc các quá trình lịch sử nhất định, diễn ra theo một cách thức điển hình nhất định. Do đó, nó là một lý thuyết thực nghiệm mô tả (empirical descriptive theory) tương tự như, chẳng hạn, lý thuyết mà cho rằng hầu hết các sinh vật tăng kích cỡ (cơ thể) trong một giai đoạn nhất định của quá trình phát triển của chúng, sau đó tiếp tục giai đoạn không tăng trưởng, và cuối cùng giảm dần kích cỡ cho tới khi chết; hoặc tương tự như lý thuyết cho rằng các quan niệm trong giai đoạn khởi đầu có dạng giáo điều, sau đó có dạng bi quan, và chỉ sau đó mới đến giai đoạn thứ ba, giai đoạn tinh thần khoa học, tức tinh thần phê phán. Giống như các lý thuyết đó, phép biện chứng không phải là một ngoại lệ – trừ phi chúng ta cố áp đặt các diễn giải cho phép biện chứng – và giống như các lý thuyết đó, phép biện chứng không hề có chút đồng hao đặc biệt nào với logic học.

Tính mơ hồ của phép biện chứng là một nguyên nhân khác khiến cho nó nguy hiểm. Nó khiến người ta thực sự dễ dàng đưa ra một diễn giải biện chứng cho tất cả các loại quá trình phát triển và cho những thứ hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn, chúng ta thấy một diễn giải biện chứng đồng nhất một hạt ngũ cốc với một chính đề, đồng nhất cái cây mà phát triển từ hạt đó với một phản đề, và đồng nhất tất cả các hạt mà kết trái từ cái cây đó là hợp đề. Hiển nhiên là, một ứng dụng kiểu như thế càng khiến cho tam đoạn biện chứng vốn đã rất mơ hồ trở nên ngày càng mơ hồ; nó dẫn tới một tình trạng tại đó việc mô tả một quá trình phát triển là một quá trình biện chứng truyền tải một nội dung không nhiều hơn việc chúng ta nói rằng đó là một quá trình phát triển theo các giai đoạn – một thông điệp không có nhiều nội dung lắm. Nhưng để lý giải sự phát triển này bằng cách nói rằng sự nảy mầm của cây là sự phủ định của hạt bởi vì hạt thôi không còn tồn tại khi cây bắt đầu mọc, và rằng sự sinh ra một lô các hạt mới từ cây là sự phủ định của phủ định – một sự khởi đầu mới ở mức độ cao hơn – hiển nhiên là một sự đùa nghịch đơn thuần với những con chữ. (Phải chăng đó là lý do tại sao Engels nhận xét về ví dụ này là bất kỳ đứa trẻ nào cũng có thể hiểu được?)

Các ví dụ tiêu biểu được các nhà biện chứng lấy từ lĩnh vực toán học thậm chí còn tồi tệ hơn. Hãy xem một ví dụ nổi tiếng của Engels, được Hecker (9) tóm tắt như sau: “Qui luật về hợp đề ở bậc cao hơn… nói chung được sử dụng trong toán học. Số âm (-a) được nhân với chính nó trở thành a2, nghĩa là, sự phủ định của sự phủ định đã hoàn thành một hợp đề mới”. Nhưng ngay cả giả sử rằng a là một chính đề và -a là phản đề hoặc phủ định của nó, ai đó có thể kỳ vọng rằng sự phủ định của phủ định là -(-a), tức a, thứ chẳng phải là một hợp đề “bậc cao hơn” mà là đồng nhất với chính bản thân chính đề nguyên gốc. Nói cách khác, tại sao hợp đề nhận được lại chỉ bằng cách nhân với phản đề với chính nó? Tại sao lại không phải, ví dụ, là cộng chính đề với phản đề (mà sẽ thu được kết quả là 0)? Hoặc bằng cách nhân chính đề với phản đề (mà sẽ thu được –a2 thay vì là a2)? Và theo nghĩa nào thì a2 “cao” hơn a hay –a? (Tất nhiên không theo nghĩa lớn hơn về mặt số học, vì nếu a =1/2 thì a2 = 1/4). Ví dụ này cho thấy sự tùy tiện kinh khủng khi áp dụng các ý tưởng của phép biện chứng.

Một lý thuyết như logic học có thể được gọi là “nền tảng” vì rằng, do nó là lý thuyết về tất cả các loại suy luận, nó được sử dụng mọi lúc trong tất cả các ngành khoa học. Chúng ta có thể nói rằng phép biện chứng được hiểu theo nghĩa mà chúng ta có thể áp dụng nó một cách có ý nghĩa không phải là một lý thuyết nền tảng mà chỉ đơn thuần là một lý thuyết có tính mô tả. Vì vậy, việc xem phép biện chứng như là một phần và phân nhánh của logic học, hoặc là cái gì khác đối lập với logic, là không phù hợp; nó đáng được xem là, chẳng hạn, lý thuyết về sự tiến hóa. Chỉ với cách nói lỏng lẻo, ẩn dụ, và mơ hồ như đã được chúng ta phê phán ở trên mới có thể khiến phép biện chứng có thể là cả hai: một lý thuyết mô tả các quá trình phát triển tiêu biểu nhất định và một lý thuyết nền tảng như logic học.

Tất cả điều này đủ để tôi nghĩ rằng mọi người phải nên rất cẩn thận khi sử dụng từ “biện chứng”. Có lẽ, tốt nhất là không nên sử dụng nó một chút nào cả – chúng ta luôn có thể sử dụng thuật ngữ rõ ràng hơn: phương pháp thử-sai. Chúng ta có thể áp dụng nó chỉ cho một số trường hợp ngoại lệ khi không gây ra bất kỳ khả năng gây hiểu nhầm nào, và khi chúng ta đối diện với một quá trình phát triển của các lý thuyết mà đúng là diễn ra trên thực tế theo các lộ trình của một tam đoạn.

Phép biện chứng của Hegel

Ở phần trước tôi đã cố gắng phác họa nội dung của phép biện chứng theo một cách thức mà tôi hy vọng khiến nó trở nên có ý nghĩa, và mục đích của tôi không phải là hạ thấp giá trị của nó. Trong phác họa đó, phép biện chứng được trình bày như là một cách thức mô tả các quá trình phát triển; như là một trong nhiều cách thức, nó không có được tính chất nền tảng, mà chỉ đôi khi phù hợp. Đối lập với quan điểm này là một lý thuyết biện chứng đã được thiết lập, chẳng hạn bởi Hegel và trường phái của ông, vốn phóng đại tầm quan trọng của phép biện chứng, và dẫn đến sai lạc đầy nguy hiểm.

Để làm cho phép biện chứng của Hegel trở nên có thể hiểu được chúng ta nên đề cập đôi chút tới một chương trong lịch sử triết học – theo ý kiến riêng của tôi thì đó không phải là một chương vẻ vang gì cho lắm.

Một vấn đề trọng tâm trong lịch sử triết học hiện đại là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy lý Descartes (chủ yếu ở châu Âu lục địa) ở một bên, và chủ nghĩa thực nghiệm (chủ yếu ở Liên hiệp Anh) ở bên kia. Câu nói của Descartes mà tôi sử dụng làm đề dẫn ở đầu bài luận này theo cách hiểu mà tôi đã cố gắng trình bày không phải là theo chủ ý của Descartes, cha đẻ của trường phái duy lý. Nó không được chủ định để đóng vai trò như là một gợi mở rằng tâm trí con người phải thử mọi cách thức để đạt được cái gì đó – nghĩa là, đạt được một giải pháp hữu ích nhất định nào đó – mà chỉ là một phê phán đầy bực tức đối với những ai dám thử làm những thứ vô nghĩa như thế. Điều Descartes muốn nói, ý tưởng chính đằng sau câu nói đó, là: một triết gia thực thụ nên cẩn thận tránh các ý tưởng vô nghĩa và ngu ngốc. Để tìm ra chân giá trị anh ta chỉ được phép chấp nhận một số rất ít các ý tưởng, những ý tưởng thuyết phục được lý tính bằng sự sáng sủa của chúng, bằng sự mạch lạc và minh bạch của chúng, nói ngắn gọn, các ý tưởng “tự thân đã rõ ràng” (self-evident). Quan điểm của trường phái Descartes là: chúng ta có thể xây dựng được các lý thuyết khoa học có khả năng giải thích mà không cần phải trông cậy vào kinh nghiệm, tức là chỉ cần trông cậy vào việc sử dụng lý tính của chúng ta; vì rằng mọi định đề có khả năng lý giải (nghĩa là, một định đề phó thác chính nó cho tính sáng sủa của nó) phải là một mô tả chân thực các thực tế (facts). Đấy là một tóm lược cái lý thuyết mà lịch sử triết học gọi là “chủ nghĩa duy lý”. (Một cái tên tốt hơn có lẽ là “chủ nghĩa duy trí tuệ” (intellectualism)). Có thể tóm tắt lý thuyết đó (sử dụng một diễn ngôn được đưa ra mãi sau này bởi Hegel) trong vài từ: “cái gì mà có lý tất phải có thực”.

Đối lập với lý thuyết này, chủ nghĩa thực nghiệm cho rằng: chỉ kinh nghiệm mới cho phép chúng ta quyết định tính chân hoặc giả của một lý thuyết khoa học. Theo chủ nghĩa thực nghiệm, chỉ lý lẽ thuần túy không thôi không thể nào thiết lập được chân giá trị thực sự; chúng ta phải sử dụng quan sát và thí nghiệm. Có thể an toàn nói rằng, chủ nghĩa thực nghiệm, dưới hình thức này hay hình thức khác, dù đó có là một hình thức mới nhất và đã được điều chỉnh, là cách lý giải phương pháp nghiên cứu khoa học duy nhất còn được tiếp nhận nghiêm túc trong thời đại của chúng ta. Cuộc đấu tranh giữa trường phái duy lý và trường phái thực nghiệm thủa ban sơ đã được bàn đến kỹ lưỡng bởi Kant, người đã nỗ lực đưa ra cái mà một nhà biện chứng (nhưng không phải là Kant) có thể coi là một hợp đề của hai quan niệm đối lập, nhưng chính xác ra thì đó là một phiên bản của chủ nghĩa thực nghiệm. Mục tiêu chính của ông là bác bỏ chủ nghĩa duy lý thuần túy. Trong Critique of Pure Reason [Phê phán lý tính thuần túy – ND], Kant đã nhận định rằng phạm vi hiểu biết của chúng ta bị giới hạn bởi khung vực của kinh nghiệm khả thể, và rằng lý lẽ tư biện vượt quá khung vực này – nỗ lực để xây dựng một hệ thống siêu hình vượt ra ngoài lý tính thuần túy – không có bất kỳ cơ sở biện minh nào cả. Phê phán lý tính thuần túy này tựa như một gáo nước lạnh dội vào hy vọng của hầu hết các triết gia châu Âu lục địa; tuy thế các triết gia Đức đã hồi phục và, thay vì bị phản bác của Kant về siêu hình học thuyết phục, họ đã nhanh chóng xây dựng các hệ thống siêu hình mới dựa trên “trực giác trí tuệ” (intellectual intuition). Họ đã cố gắng sử dụng một số các yếu tố nhất định của hệ thống của Kant, nhờ đó hy vọng trốn tránh được đòn tấn công chính yếu trong phê phán của ông. Cái trường phái được xây dựng, thường được gọi là trường phái của các nhà duy tâm Đức, đã tích tụ tới đỉnh điểm trong Hegel.