Các dân tộc it người ở châu á thường sinh sống ở đầu tại sao

Các dân tộc it người ở châu Á thường sống ở


Câu 48756 Nhận biết

Các dân tộc it người ở châu Á thường sống ở


Đáp án đúng: b

Phương pháp giải

Môi trường vùng núi --- Xem chi tiết
...

Mục lục

Những sự phân loại khác nhauSửa đổi

Nhật Bản và Hàn QuốcSửa đổi

Đầu những năm 1921, tộc người Nhật Bản và Hàn Quốc đã có khái niệm rằng châu Á là một nền văn minh của Phương Đông đối lập với châu Âu.

Malaysia và SingaporeSửa đổi

Tại Malaysia và Singapore, 3 tộc người lớn nhất của họ là người Malay, người Trung Quốc và người Ấn Độ, tất cả đều được coi là người châu Á.

Tại Hoa KỳSửa đổi

Theo kết quả sự điều tra dân số của Mỹ, khái niệm "người châu Á" là một chủng người được phân định là "người có tổ tiên có nguồn gốc xa xưa từ Đông Á, Đông Nam Á và tiểu lục địa Ấn Độ. Những bản báo cáo này cũng nói về những tộc người riêng biệt, như người Trung Quốc, người Đài Loan, người Philippines, người Hàn Quốc, người Nhật Bản, người Malaysia, người Indonesia, người Việt Nam, người Pakistan, người Lào, người Thái Lan, người Ấn Độ châu Á, người Campuchia và "những người châu Á khác". Những người Mỹ Trung Á được cho là "Asiatic" [người thuộc châu Á] bởi cuộc điều tra dân số năm 1910, điều này về pháp lý đã gây trở ngại cho việc nhập cư của họ với những người châu Á khác. Những người Mỹ Trung Á Thổ Nhĩ Kỳ là mục tiêu của hội chứng "chống người châu Á" trong suốt "cơn khủng hoảng chủng da vàng". Trong vụ United States v. Bhagat Singh Thind [1923]. Chủng người Mỹ Ấn được quyết định là người châu Á. Người Mỹ Trung Đông không được bản điều tra dân số của Mỹ coi là người châu Á.

Theo Sharon M. Lee trong xuất bản của cô năm 1998, với rất nhiều những người không phải là người Mỹ Á tại Hoa Kỳ [năm 1998], người Mỹ Á có nghĩa là người từ phương Đông, người Mỹ Trung, người Mỹ Nhật. Điều này là bởi những người nhập cư Nhật Bản và Trung Quốc là những người nhập cư đầu tiên tại Hoa Kỳ. Ngày nay, với sự gia tăng số lượng người Mỹ Hàn, người Mỹ Nam Á và người Mỹ Đông Nam Á, sự định nghĩa về người Mỹ châu Á với dân Mỹ đã được mở rộng. Tuy nhiên, bình thường thì người châu Á được bổ sung bao gồm người Mỹ Philippines, người Mỹ Việt Nam và người Mỹ Hàn.

Tại Vương quốc AnhSửa đổi

Tại Vương Quốc Anh, khái niệm "người châu Á" bao gồm cả lục địa châu Á, bình thường thì thiên về người có nguồn gốc Nam Á, đặc biệt là Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh và Sri Lanska.

Tại CanadaSửa đổi

Tại Canada, người châu Á thường được coi là người từ phương Đông, Đông Nam Á, Nam Á, Tây Á. Cũng như Hoa Kỳ, khái niệm "người châu Á" thường thiên hơn về người thuộc Đông Á bởi họ là nhóm người nhập cư châu Á đầu tiên ở Canada.

Tại AustraliaSửa đổi

Điều tra dân số của Australia bao gồm 4 vùng ở châu Á có sự phân định chính thức. Được định ra bởi điều tra dân số Úc từ 2006 đến 2011, ba nhóm người được gắn thêm từ "Asian" [người châu Á] vào tên của họ là: người Trung và Nam Á, người Đông Nam Á, và người Đông Bắc Á. Người Nga được định nghĩa là người Nam hoặc Đông Âu trong khi người Trung Đông được định nghĩa là người Bắc Phi hoặc người Trung Đông.

Tại những nước châu Phi nói tiếng Anh và CaribbeanSửa đổi

Tại New ZealandSửa đổi

Tại Na UySửa đổi

Sự định nghĩa bởi các học giảSửa đổi

Phương Đông và người Phương ĐôngSửa đổi

Người NgaSửa đổi

Phần lớn lãnh thổ của Nga nằm ở châu Á dù đa số dân cư thì ở châu Âu và thuộc tộc người Slav [một tộc người thuộc chủng người Ấn-Âu. Bình thường thì người Nga không nằm trong [được coi] khái niệm là "người châu Á".

Người ở các hòn đảo Thái Bình DươngSửa đổi

Bình thường, cách dùng "người châu Á" không áp dụng những cư dân các hòn đảo Thái Bình Dương. Khái niệm "những người châu Á và cư dân đảo Thái Bình Dương" hay ""Asia/Pacific" [có thể hiểu là người châu Á sống ở đảo] được sử dụng trong bản điều tra dân số của Mỹ năm 1990. Vào cuối năm 2001, phần lớn người Mỹ coi người đảo Thái Bình Dương có cùng chủng tộc với người châu Á vì những yếu tố của người đảo Thái Bình Dương hoàn toàn trái ngược với cái được gọi là "whiteness" [dịch nôm na theo ngữ cảnh: da trắng, tính chất da trắng, người da trắng]. Tuy nhiên, trong điều tra dân số của Mỹ năm 2000, nhiều cư dân đảo Thái Bình Dương không nhận họ có đặc tính giống người châu Á và tự cho rằng họ là chủng người khác biệt với người châu Á.

Các thành phần chủng tộcSửa đổi

Một cô gái châu Á

Nhóm Mongoloid: Chủng phương Bắc: gồm các dân tộc vùng Đông Á, Bắc Á, Đông Trung Á như Bắc Hán, người Nhật, người Mãn Châu, Triều Tiên. Họ mang những đặc điểm tiêu biểu của đại chủng Á như mắt nhỏ, mí góc, hơi xếch, mũi trung bình, gò má cao, tóc đen, thẳng, da vàng nhạt.

Chủng phương Nam: gồm các dân tộc vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa như Nam Hán, người Việt, người Mường, người Thái, Khmer, Mã Lai. Họ mang những đặc điểm của hai đại chủng Á và Úc như mắt to, rõ 2 mí, mũi thấp và da sẫm màu.

Nhóm Europeoid: Chủng phương Bắc: gồm các dân tộc ở vùng Bắc Á [trừ người Inuc tại Siberia]. Họ có nhiều đặc điểm giống người châu Âu như da trắng hồng, mũi cao, mắt sâu, vóc dáng cao to, mắt và tóc nhạt màu. Chủng phương Nam: gồm các dân tộc vùng Tây Trung Á, Nam Á và Trung Đông như người Ấn, Ả Rập. Họ mang nhiều đặc điểm đặc trưng của chủng tộc mình như mũi cao, mắt sâu, dáng vóc cao to nhưng lại có làn da sẫm màu, tóc và mắt đen.

Nhóm Australoid: Gồm một số dân tộc miền Nam Ấn Độ, quần đảo Mã Lai. Họ có vóc dáng thấp bé, da đen, tóc quăn và đen, mắt tròn, to,hai mí, mi mắt dày.

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ [1] Worldometers.info
  2. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  3. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  4. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  5. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  6. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  7. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  8. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  9. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  10. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  11. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  12. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  13. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  14. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  15. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2020.
  16. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  17. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2020.
  18. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  19. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2020.
  20. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  21. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  22. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  23. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  24. ^ “The World Factbook”. Cia.gov. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  25. ^ “Middle East:: Lebanon — The World Factbook - Central Intelligence Agency”. www.cia.gov. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2020.
  26. ^ “Estimated Population in the Palestinian Territory Mid-Year by Governorate,1997–2016”. Palestinian Central Bureau of Statistics. State of Palestine. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014.

Mục lục

Từ nguyênSửa đổi

Chữ Hán 州亞, chữ Hi Lạp cổ đại gốc: Ασία, chữ La-tinh: Asia.

Châu Á là một châu lục có nhân khẩu nhiều nhất cả thế giới, đồng thời cũng là châu lục có mật độ nhân khẩu lớn nhất. Tên chữ của nó cũng xưa cũ nhất. "Asia" mang ý nghĩa là "khu vực Mặt Trời mọc", tương truyền là do người Phoenicia cổ đại đưa ra. Hoạt động trên biển thường xuyên, yêu cầu người Phoenicia cần phải xác định nơi chốn và hướng đi. Vì vậy họ đem khu vực biển Aegea về phía đông gọi chung là "Asu", nghĩa là "chỗ Mặt Trời mọc"; nhưng mà đem khu vực biển Aegea về phía tây thì gọi chung là "Ereb", nghĩa là "chỗ Mặt Trời lặn". Asia từng chữ một là do chữ Asu tiếng Phơ-ni-xi diễn hoá tới nay. Vùng đất mà nó chỉ về là không rõ ràng lắm, phạm vi là có hạn định. Đến thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên đã biến thành là một tên gọi tỉnh hành chính của đế quốc La Mã, về sau thì mới dần dần khuếch đại, bao gồm cả khu vực châu Á bây giờ, biến thành là một cái tên để gọi tên châu lục lớn nhất thế giới.

Phiên âm bằng tiếng Trung cho Asia là Yàxìyà [亞細亞 - Á-tế-á] được đặt tên cho châu lục này trước nhất là vào năm 1582. Sau khi giáo sĩ truyền giáo Hội Giê-su Matteo Ricci đến Trung Quốc, dưới sự giúp đỡ của Vương Bạn - tri phủ Long Khánh [nay là huyện Kiếm Các, huyện Tử Đồng, huyện Giang Du - phía bắc tỉnh Tứ Xuyên], cùng nhau làm ra "Khôn dư vạn quốc toàn đồ" với các phiên dịch viên.[7] Bởi vì người nước ngoài lúc đó đến Trung Quốc phần nhiều ở khu vực miền nam, các phiên dịch này đều có mang theo mình sắc thái tiếng Hán miền nam dày đặc. Chữ nước ngoài mở đầu phiên dịch là "á" đọc là "a", cuối đuôi phiên dịch là "á", chữ nước ngoài phần nhiều đọc là "ya", lúc phiên dịch thành Trung văn, phiên dịch viên tức khắc sẽ căn cứ vào phát âm chữ Hán trong ngôn ngữ nơi đó để chọn lựa chữ Hán tương ứng.[8]

Lịch sửSửa đổi

Lịch sử và văn hoá châu Á đều xa xưa. Ấn Độ, Iraq [nước Babylon cũ] và Trung Quốc là một trong bốn nước xưa có nền văn minh lớn của thế giới đều ở vào đất liền châu Á. Trình độ kinh tế và văn hoá của châu Á đã từng chiếm giữ vị trí dẫn đầu vào khoảng thời gian dài trên thế giới, tứ đại phát minh của Trung Quốc hoặc người Ấn Độ phát hiện số 0, người Ấn Độ phát minh chữ số Arabi, v.v rất nhiều sáng tạo và phát minh về phương diện khoa học, đều đã làm ra cống hiến cực kì to lớn cho thế giới.[9]

Thời đại viễn cổSửa đổi

Vào thời đại viễn cổ, rất nhiều dân tộc của châu Âu và Bắc Phi đều bắt nguồn ở khu vực thảo nguyên của Trung Á. Vào thời đại Đại thiên cư dân tộc, một bộ phận ở về phía tây tiến vào châu Âu, một bộ phận ở về phía đông dời vào Ấn Độ, hình thành các dân tộc ngữ hệ Ấn - Âu với phạm vi rộng lớn; một bộ phận khác ở về phía nam dời đến Bắc Phi và Tây Á, tiến vào Ai Cập, hợp thành các dân tộc ngữ hệ Phi - Á [tức ngữ hệ Semito - Hamitic] với người ở ngay địa phương đó.

Thời đại thượng cổSửa đổi

Vào thời đại thượng cổ, Trung Quốc ở phương đông và đế quốc Ba Tư ở phương tây đều phát triển biến thành là đế quốc lớn mạnh, Ba Tư một mạch tranh hùng với Hi Lạp ở châu Âu, cuối cùng đều bị Alexander Đại đế của đế quốc Macedonia đánh bại, quân đội của Alexander tiến thẳng xâm nhập á lục địa Ấn Độ, cuối cùng một phần quân đội còn lưu trú lại đã kiến lập nhà nước Armenia. Trung Quốc cũng đang đi đường lối hướng về bành trướng thống nhất, các dân tộc chung quanh mở đầu hiểu ra nhà nước Tần.

Lúc đế quốc La Mã ở phương tây trỗi lên, triều nhà Hán của Trung Quốc ở phương đông cũng là một nhà nước lớn mạnh, lãnh thổ của đế quốc La Mã bành trướng đến chỗ thung lũng sông Babylon cũ [bây giờ gọi là sông Ơ-phơ-rát] ở Trung Đông, phương đông và phương tây mở đầu có giao lưu kinh tế và văn hoá, đường tơ lụa ban đầu từ đô thành Trường An, Trung Quốc đi qua Tây Vực [chính là Tân Cương và một phần khu vực Trung Á hiện nay] và Trung Đông, xa đến Rôma, Ý. Sau khi người Hung Nô ở phía bắc triều nhà Hán bị triều nhà Hán đánh bại, dần dần thiên cư hướng về phương tây, một ít bộ tộc mà trong mắt đế quốc Tây La Mã bị coi là "người chưa khai hoá", sau khi dời vào châu Âu, lập tức tăng tốc diệt vong đế quốc Tây La Mã.

Thời đại trung cổSửa đổi

Vào thời đại trung cổ, ở vùng đất phía tây nam châu Á nổi lên đế quốc Arabi lớn mạnh - bao quát Nam Âu, Tây Á, Trung Á và Bắc Phi. Cương vực của Trung Quốc vào lúc triều nhà Đường lớn mạnh ở phương đông cũng bành trướng đến Trung Á, Triều Tiên và Nhật Bản đã dần dần làm thành dân tộc thống nhất.

Sự trỗi dậy của dân tộc Mông Cổ hình thành ảnh hưởng không ít ở thế giới, đã chinh phục vùng đất Âu - Á rộng lớn. nhưng mà vì củng cố chính quyền của bản thân nên đã tàn sát rất nhiều người dân dị tộc, rất nhiều văn minh ưu tú bị phá bỏ trong vòng một ngày.

Từ năm 1453, sau khi đế quốc Byzantine bị diệt vong, đế quốc Ottoman của nhà nước Hồi giáo đã xưng hùng chiếm giữ khu vực Trung Đông, bán đảo Tiểu Á và Bắc Phi hơn 400 năm. Ở múc độ nào đó, đế quốc Ottoman đã gây trở ngại giao lưu đông - tây về phương diện văn hoá và kinh tế. Khu vực Đông Á từ thế kỉ XVI tới nay, sự phát triển văn hoá và khoa học dần dần lạc hậu, thường hay thấy tình huống các nước cấm chỉ người dân trong nước giao lưu với người nước ngoài. Thí dụ chính sách toả quốc được thực thi vào thời đại Edo ở Nhật Bản, hoặc chính sách toả quốc của vương triều Triều Tiên, hoặc chính sách cấm biển vào thời kì nhà Minh và nhà Thanh, v.v

Từ sau cận đạiSửa đổi

Từ sau thế kỉ XVIII, cùng với sự nổi lên của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa thực dân ở châu Âu, người theo chủ nghĩa thực dân thông qua tuyến đường hàng hải, tiến hành khai thác tài nguyên ở đất liền châu Á, và sự suy nhược trong thời gian dài của vùng đất châu Á, trở thành miếng mồi mà các cường quốc châu Âu tranh giành, rất nhiều lãnh thổ bị chiếm đóng làm thành thuộc địa hoặc bán thuộc địa. Vùng đất hoang vu Siberia ở phía bắc châu Á, tan vỡ theo sau nỗ lực của đế quốc Mông Cổ, nước Nga Sa hoàng do dân tộc Nga ở châu Âu kiến lập dần dần men theo đường bộ mà khai quật mở mang, rồi xưng hùng chiếm giữ một vùng rộng lớn ở phía bắc châu Á.

Cuối thế kỉ XIX, Nhật Bản theo sau sự thành công cải cách Duy tân Minh Trị, khiến cho thế nước hưng thịnh nhanh chóng, trở thành nước châu Á duy nhất có đầy đủ địa vị trên vũ đài cộng đồng quốc tế bằng tư cách "cường quốc". Từ lúc thắng lợi nhiều lần phát động chiến tranh chống lại các nước chung quanh như triều nhà Thanh, nước Nga Sa hoàng cùng với sau khi trải qua Đại chiến thế giới lần thứ nhất, Nhật Bản thác quản thuộc địa của nước chiến bại Đức Quốc ở châu Á bằng tư cách nước chiến thắng, khiến cho phạm vi thế lực của Nhật Bản trải khắp cả Tây Thái Bình Dương. Lại thúc đẩy tham vọng chinh phục Trung Quốc và cả châu Á của nó ngày một lớn dần, Nhật Bản dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa quân quốc vào niên đại 30 - 40 thế kỉ XX, phát động chiến tranh Trung – Nhật lần thứ hai và chiến tranh Thái Bình Dương, Đại chiến thế giới lần thứ hai cũng mở đầu từ quân Đức đánh chớp nhoáng Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, sau đó mở rộng chiến tranh sang khu vực châu Á. Nhật Bản cuối cùng đầu hàng sau khi bị Hoa Kỳ ném xuống hai trái bom nguyên tử hướng về Hiroshima và Nagasaki. Sau khi Đại chiến thế giới lần thứ hai đi qua, chủ nghĩa dân tộc ở châu Á ngóc đầu, các nước và dân tộc vừa mới bắt đầu sôi nổi tranh giành tìm lấy độc lập. Cùng lúc với đó, đối lập chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản ở phương tây lan rộng đến đại lục địa châu Á. Năm 1949 Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh bại Đảng Quốc dân Trung Quốc trong Nội chiến Quốc - Cộng, đã nắm giữ chính quyền của Trung Hoa dân quốc ở vùng đất Trung Quốc đại lục, thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa; Chính phủ Trung Hoa dân quốc dời đến Đài Bắc. Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa do Đảng Cộng sản Trung Quốc kiến lập và Liên minh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô-viết do Đảng Cộng sản Liên Xô kiến lập cùng nhau thúc đẩy mở rộng chủ nghĩa cộng sản ở châu Á. Vùng đất Đông Á trước sau liên tục kiến lập nhiều chính quyền chủ nghĩa xã hội, như Triều Tiên, Việt Nam, Lào, v.v... Vào niên đại 50 đến 70 thế kỉ XX, chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam là tuyến đầu của cuộc chiến tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản ở châu Á.

Các dân tộc ở Tây Á, Nam Á và Trung Đông cũng sôi nổi tranh giành độc lập từ sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, nổi tiếng nhất chính là cuộc vận động cách mạng độc lập Ấn Độ do Mahatma Gandhi khởi xướng, cuối cùng dẫn đến Cuộc chia cắt Ấn Độ - Pakistan, Ấn Độ lấy tín đồ Ấn Độ giáo là chính và Pakistan lấy tín đồ Hồi giáo là chính cùng độc lập vào năm 1948. Tuy nhiên, vấn đề kiến lập nhà nước của Israel và Palestine ở Trung Đông, mang theo xung đột nghiêm trọng dính líu đến phương diện tôn giáo và dân tộc. Mặc dù Israel được hứa hẹn dựng nước ở vùng đất người Do Thái vào năm 1947, nhưng vì thánh địa Jerusalem được chia cho Israel, khiến các nước Hồi giáo chung quanh bất mãn, người Do Thái và tín đồ Hồi giáo bất hoà, dẫn đến Israel và các nước Hồi giáo chung quanh mỗi ngày gia tăng xung đột, trong chiến tranh Trung Đông lần thứ ba Israel kháng cự với Syria, Jordan và Ai Cập, Israel chiếm lĩnh một vùng đất đáng kể của Palestine, và thiết lập thuộc địa ở vùng đó. Mặt khác, vùng đất Trung Đông từ trước tới nay bị coi là "kho thuốc súng thế giới", vùng đất này chiến tranh liên miên không ngớt, bao gồm chiến tranh Iran - Iraq mà Iraq và Iran chĩa súng lẫn nhau, và chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Iraq như chiến tranh vùng Vịnh vào ngày 17 tháng 1 năm 1991 và Chiến tranh Iraq vào ngày 20 tháng 3 năm 2003, và chiến tranh Afghanistan do lãnh đạo phần tử khủng bố số một Osama bin Laden nhắm vào tuyên bố của Hoa Kỳ cho nên năm 2002 phát động để lật đổ tập đoàn chính trị Taliban.

Liên Xô phát sinh chính biến vào cuối tháng 8 năm 1991, mặc dù Đảng Cộng sản Liên Xô giải quyết trong một tuần, nhưng mà vẫn khiến Liên Xô giải thể vào cuối năm 1991. Ở vùng đất Trung Á nhiều nước cộng hoà tách khỏi Liên Xô cũ thành nhà nước độc lập mới như Kazakhstan, Turkmenistan, Uzbekistan, v.v[9]

Phương Tây nhìn người Châu Á thế nào?

Nguồn hình ảnh, PA

Chụp lại hình ảnh,

Nhiều nước Phương Tây đã quen với xã hội đa văn hóa

Trong bài tiểu luận trước, tôi đã đề cập đến những vấn đề, góc nhìn và sự phát triển gần đây mà người Việt cần biết trước khi họ mạo hiểm sang Phương Tây.

Tuy nhiên, tôi đã sao nhãng một câu hỏi rất quan trọng: “Nói chung, người Tây nhìn và đối xử với người Việt và người Châu Á như thế nào?”

Tin mừng là người Tây nói chung nhìn người Châu Á cũng giống như mọi người khác. Vì đạo đức tự do được phổ biến và cá nhân được đề cao, nhiều nước Phương Tây tin tưởng rằng mọi người nên được đối đãi bình đẳng và công bằng. Có pháp luật ở mỗi nước khuyến khích và bảo vệ lý tưởng này, tức là trong việc làm và cả trong đời sống công cộng, không phân biệt nam hay nữ, gia đình, giới tính, tôn giáo, dân tộc hoặc là chủng tộc. Quan trọng nữa là những đạo luật này phản ánh sự cởi mở và quyết tâm có công bằng xã hội mà đã giúp cho phương Tây thành công và đáng được đến thăm hay định cư.

Nhưng dĩ nhiên, xã hội phương Tây, như bất cứ xã hội nào, không phải lúc nào cũng sống đúng theo lý tưởng của mình. Mặc dù những vụ phân biệt chính thức hay quá khích ít xảy ra, nhưng sự phân biệt thực sự vẫn còn. Theo kinh nghiệm của tôi sau khi ở Úc hơn 30 năm, rất hiếm khi xảy ra các vụ tấn công bạo lực do kỳ thị chủng tộc. Vì vậy, mỗi người đi nước ngoài, dù phải lo về an toàn cá nhân, nhưng không phải vì thế mà ngần ngại làm chuyến “Tây du ký”.

Tệ phân biệt mà người Châu Á nên chú ý hơn là sự phân biệt “tinh tế hơn”, hiện hữu trong những cửa hàng và quán ăn nơi mà người bán hàng và hầu bàn có vẻ đối xứ với mình cộc lốc và uể oải hơn những khách không phải là người Châu Á. Đôi khi chúng ta bị bắt gặp đang nói chuyện to bằng tiếng Việt và người qua đường nhìn chúng ta với thái độ khinh miệt. Và chúng ta có thể nhận ra khi người khác cười khẩy vì những điều bình thường đại loại như râu tóc, ngón tay nhỏ dài, một món ăn không quen hay cách ta đậu xe hơi.

Video liên quan

Chủ Đề