Cấu uế nghĩa là gì

GN - Kinh Thủy Tịnh Phạm chí [kinh Trung A-hàm, phẩm Uế], có bài kệ tổng kết lời dạy của Đức Thế Tôn, chỉ rõ phương pháp đoạn trừ ô uế của Phạm chí Thủy Tịnh là sai lầm và vô ích, từ đó Ngài dạy phương pháp đoạn trừ tâm ô uế theo Chánh pháp.

Quan điểm của ngoại đạo Phạm chí cho rằng: Sông Đa Thủy là kết tinh của sự trong sạch, có khả năng độ thoát, là phước đức cho thế gian. Nếu đến tắm nơi sông Đa Thủy thì đoạn trừ hết nghiệp ác, rửa sạch tất cả tội lỗi. Đức Phật khẳng định phương pháp này của Phạm chí là sai lầm và vô ích.

Diệu Hảo Thủ Phạm chí,

Nếu vào sông Đa Thủy,

Là trò chơi kẻ ngu,

Không thể sạch nghiệp dữ.

Kẻ ngu là người si mê tà kiến, không phân biệt chính tà, lựa chọn những pháp môn sai lầm để hành trì. Đức Phật dạy người dùng nước sông để rửa nghiệp dữ chỉ là “trò chơi kẻ ngu”.Đức Phật sử dụng từ ngữ rất thẳng thắn, chân thành, khiến người nghe bị tác động mạnh mà phải chú ý những gì Ngài dạy tiếp theo.

Hảo Thủ, đến sông chi?

Sông ấy có nghĩa gì,

Người tạo nghiệp bất thiện,

Nước trong nào ích chi.

Thanh tịnh hay ô nhiễm đều do tâm bởi tâm làm chủ, tâm tạo tác. Người tạo nghiệp bất thiện phải đoạn trừ tâm ô uế chứ không phải gột rửa ngoài thân. Ví như người luyện sắt phải gạn lọc phần cặn bã để được sắt tinh luyện chứ không thể chỉ đem rửa quặng sắt dưới nước trong mà được.

Ngược lại với người tâm ô uế là:

Người tịnh, không cấu uế,

Người tịnh, thường thuyết giới,

Người tịnh, nghiệp trắng trong,

Thường được hạnh thanh tịnh.

Người tịnh là người không bị cấu uế làm ô nhiễm tâm, thường giữ gìn và thuyết giảng giới luật, ba nghiệp thanh tịnh, chắc chắn được an lạc hạnh phúc. Ví như cái áo trắng sạch của loại vải dệt ở xứ Ba-la-nại được người thợ giặt “dùng tro, hoặc lấy chùm kết, hay dùng bột giặt chà xát thật kỹ cho sạch” nhưng cái áo ấy vốn đã sạch lại càng trắng, sạch thêm.

Ở đây, Đức Phật rất khéo léo trong việc giáo hóa ngoại đạo, chỉ ra quan điểm xuống sông gột rửa nghiệp ác là sai lầm, vô ích chứ không phê phán hay chỉ trích Phạm chí Thủy Tịnh.

Như ông không sát sanh,

Cũng không hay trộm cắp,

Chân thật, không nói dối,

Thường chánh niệm, chánh trí,

Phạm chí học như vậy,

Tất cả chúng sanh an.

Dùng ái ngữ, khen ngợi để nhiếp hóa đối phương là nghệ thuật trong giao tiếp ứng xử, đặc biệt quan trọng đối với người hành đạo. Vẫn bằng ngôn từ tha thiết, hòa khí, Đức Phật khuyên Thủy Tịnh Phạm chí:

Phạm chí về nhà chi,

Suối nhà đâu trong sạch,

Phạm chí, ông nên học,

Dùng thiện pháp tẩy sạch,

Cần gì nước bẩn kia?

Chỉ trừ dơ thân thể”.

Đức Phật dạy phương pháp đoạn trừ tâm ô uế bằng cách dùng thiện pháp để tẩy sạch. Thiện pháp đó chính là các thiện nghiệp của thân, miệng, ý: không sát sanh, không trộm cắp, chân thật - không nói dối, thường chánh niệm, chánh trí,… Đồng thời thiện pháp cũng là hành Tứ vô lượng tâm. Một người nếu bị các cấu uế làm ô uế tâm thì trước hết hãy chánh niệm tỉnh giác để nhận biết trong tâm đang khởi lên những cấu uế nào, sau đó tinh tấn, kiên trì hành thiện pháp để diệt trừ, phát triển Tứ vô lượng tâm, như vậy có thể gột rửa cấu uế từ trong tâm.

Đức Phật thuyết kệ bằng sự trải nghiệm của tự thân rồi từ đó giáo hóa rộng rãi để những ngoại đạo như Phạm chí Thủy Tịnh có thể thấy những sai lầm trong nhận thức cũng như phương pháp tu tập. Đức Phật lựa chọn thể loại kệ - một trong 12 thể văn Phật giáo để phương tiện giáo hóa cho phù hợp với căn cơ, trình độ người nghe. Thể kệ ghi lại lời thuyết giảng của Đức Phật dưới hình thức cô đọng, ngôn từ dễ hiểu, chân thật và rõ ràng.

Sự kết hợp hài hòa giữa hình thức nghệ thuật với nội dung thuyết giảng của bài kệ đã góp phần giúp cho Phạm chí Thủy Tịnh thấu hiểu, khởi tâm hoan hỷ và ngay đó quy y Phật, Pháp, Tăng. Phạm chí bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, con đã biết, bạch Thiện Thệ, con đã hiểu. Con nay tự quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo. Ngưỡng mong Thế Tôn cho con làm Ưu-bà-tắc, bắt đầu từ ngày nay, trọn đời tự quy y cho đến lúc mạng chung” [Kinh Thủy Tịnh Phạm chí].

Đức Phật không thuyết giảng để thâu nạp tín đồ mà là để soi sáng, thức tỉnh người nghe. Bằng từ bi và trí tuệ vô biên, Đức Phật đã soi sáng cho Phạm chí Thủy Tịnh nhận ra lẽ thật. Qua bài kệ, những hành giả đang trên con đường tu tập đạo giải thoát cần tinh tấn đoạn trừ tà kiến và các nghiệp ác, thực hành các pháp lành, có như vậy mới trở thành “Người tịnh, nghiệp trắng trong”, an lạc đời này và đời sau.

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI

HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI

The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 

An Anthology of Discourses from the Pāli Canon

Chương II. RÈN LUYỆN CÁ NHÂN


3. LOẠI TRỪ NHỮNG CẤU UẾ CỦA TÂM / THANH LỌC TÂM 

[1] Mười sáu loại  cấu uế của tâm.

“ Này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế phiền não của tâm ? Tham dụctham lam bất chánh là một loại phiền não làm cấu uế tâm. Sân hận …giận dữ…thù nghịch…khinh thường… hỗn láo…đố kỵ…keo kiệt…dối trá… lừa gạt…bướng bỉnh…ganh đua… ngã mạn… kiêu căng…hợm hĩnh…phóng dật…là cấu uế của tâm. Biết rằng tham dụctham lam bất chánhcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó. Biết rằng sân hận… phóng dậtcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó.”

                              [ Trung BK I, Kinh số 7: Kinh Ví Dụ Tấm Vải; tr 88]

[2] Hai loại ý niệm

“ Này các Tỷ-kheo, trước khi ta giác ngộ, khi ta còn là Bồ-tát chưa chứng đắc Chánh Giác, ta suy nghĩ như sau: ‘ Ta hãy chia những ý niệm của ta thành hai loại.’ Rồi ta xếp các ý niệm về tham dục, sân hậnđộc hại [dục tầm, sân tầm và hại tầm] vào loại thứ nhất, và ta xếp các ý niệm về ly dục, bao dungvô hại [ ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm] vào loại thứ hai.

“ Rồi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết. Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên, ta hiểu rằng:  ‘Ý niệm bất thiện này đã khởi lên trong ta. Nó sẽ đưa đến tự hại mình, hại người, hại cả hai; nó ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn.’ Khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến tự hại mình’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại người’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại cả  hai’, ý niệm ấy liền tan biến. Khi ta suy xét : ‘Ý niệm này ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn’ ; ý niệm ấy liền tan biến.  Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên trong ta, ta từ bỏ nó, ta đoạn trừ nó, ta xả ly nó.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thưởng xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về tham dục, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  ly dục để nuôi dưỡng ý niệm về tham dục, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về tham dục…  Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về sân hận… ý niệm độc hại, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  vô hại để nuôi dưỡng ý niệm về độc hại, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về độc hại.

“ Cũng giống như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò bằng cách dùng roi đánh và thúc đẩy liên tục vào bên này và bên kia đàn bò để kiểm soát và điều khiển chúng. Vì sao vậy? Bởi vì người mục đồng thấy rằng nếu để cho đàn bò đi lạc vào đồng lúa, anh ta sẽ bị đánh đập, tù tội, phạt vạ hay bị chưởi mắng. Cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, sự thấp kém, sự cấu uế trong các tâm hành bất thiện, và ta đã thấy phước lành của xả ly trong các tâm hành thiện, là một hình thái làm tâm thanh tịnh,

“ Khi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết, một  ý niệm về ly dục, bao dungvô hại khởi lên trong ta. Ta hiểu như như thế này:’ Ý niệm thiện này đã khởi lên trong ta. Ý niệm này không đưa đến hại mình, hại người hoặc hại cả hai; nó giúp tăng trưởng trí tuệ, không gây khó khăn trở ngại, và đưa đến Niết-bàn. Nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ về ý niệm này chỉ một đêm, thậm chí một ngày, thậm chí một đêm và một ngày, ta không có gì phải sợ hãi nó. Nhưng nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ quá nhiều, ta có thể làm cho thân mệt mỏi, và khi thân ta mệt mỏi, tâm có thể bị xáo trộn, và khi tâm bị xáo trộn thì  rất khó định tâm.’ Vì thế ta làm cho nội tâm vững chãi, làm tâm lắng dịu,  làm tâm hợp nhất và định tĩnh. Vì sao vậy ? Để cho tâm khỏi bị xáo trộn.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về xả ly, vị ấy từ bỏ ý niệm về tham dục để phát triển ý niệm về xả ly, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về xả ly. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bao dung..., nghĩ tưởng về vô hại, vị ấy từ bỏ ý niệm độc hại để phát triển ý niệm về vô hại, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về vô hại.

“Cũng giống như vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi tất cả lúa gạo đã được đem cất trong làng, người mục đồng chăn giữ đàn bò trong lúc ngồi dưới gốc cây hay ngồi ngoài trời, vì người ấy chỉ cần chú tâm biết rằng đàn bò đang ở đó; củng vậy, ta cũng chỉ cần chú tâm tỉnh giác biết rằng các tâm hành thiện đang có mặt trong ta.”

                              [ Trung BK, Kinh số 19: Kinh Song Tầm, tr 261-265]

[3] Thực hành “ đoạn trừ phiền não

Thế Tôn dạy: “ Này Cunda, ông cần phải thực hành việc đoạn trừ phiền não [5] như thế này:

          [1] ‘ Người khác có thể gây tổn hại; ở đây chúng tôi nguyện không gây           tổn hại’ : đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [2] ‘ Người khác có thể sát sanh; ở đây chúng tôi nguyện  từ bỏ sát sanh ’:        đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [3] ‘ Người khác có thể lấy của không cho; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           lấy của không cho ’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [4] ‘ Người khác có thể không sống độc thân; ở đây chúng tôi nguyện sẽ           sống độc thân ’…

          [5] ‘ Người khác có thể nói láo; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói láo’....

          [6] ‘ Người khác có thể nói hai lưỡi ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           hai lưỡi’…

          [7] ‘ Người khác có thể nói lời độc ác ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           lời độc ác’...

          [8] ‘ Người khác có thể nói lời phù phiếm ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           nói lời phù phiếm…

          [9] ‘ Người khác có thể tham dục; ở đây chúng tôi nguyện không tham           dục’ ...

          [10] ‘ Người khác có thể sân hận; ở đây chúng tôi nguyện bao dung’ ...

          [11] ‘ Người khác có thể có tà kiến; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           kiến’ ...

          [12] ‘ Người khác có thể có tà tư duy; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tư duy’ ...

          [13] ‘ Người khác có thể có tà ngữ; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           ngữ’ ...

          [14] ‘ Người khác có thể có tà nghiệp; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           nghiệp’ ...

          [15]  ‘ Người khác có thể có tà mạng; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           mạng’ ...

          [16]  ‘ Người khác có thể có tà tinh tấn; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tinh tấn’ ...

          [17]  ‘ Người khác có thể có tà niệm; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           niệm’ ...

          [18] ‘ Người khác có thể có tà định; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           định’ ...

          [19] ‘ Người khác có thể có tà trí; ở đây chúng tôi nguyện có chánh trí’ ...

          [20] ‘ Người khác có thể có tà giải thoát; ở đây chúng tôi nguyện có           chánh giải thoát’ ...

          [21] ‘ Người khác có thể bị dật dờ buồn ngủ chi phối; ở đây chúng tôi           nguyện thoát khỏi dật dờ buồn ngủ’ ...

          [22] ‘ Người khác có thể bị bất an; ở đây chúng tôi nguyện thoát khỏi bất           an’…

          [23] Người khác có thể nghi ngờ; ở đây chúng tôi nguyện không còn nghi   ngờ ’…

          [24] Người khác có thể tức giận; ở đây chúng tôi nguyện không tức           giận’…

          [25] Người khác có thể hung bạo; ở đây chúng tôi nguyện không hung           bạo’…

          [26] ] Người khác có thể khinh thường; ở đây chúng tôi nguyện không           khinh thường’…

          [27] ] Người khác có thể hỗn láo; ở đây chúng tôi nguyện không hỗn           láo’…

          [28] ] Người khác có thể đố kỵ ; ở đây chúng tôi nguyện không đố kỵ ’…

          [29] Người khác có thể keo kiệt; ở đây chúng tôi nguyện không keo kiệt ’         …

          [30] Người khác có thể lường gạt; ở đây chúng tôi nguyện không lường           gạt ’ …

          [31] Người khác có thể dối trá ; ở đây chúng tôi nguyện không dối trá ’           …

          [32] Người khác có thể bướng bỉnh; ở đây chúng tôi nguyện không bướng          bỉnh ’ …

          [33] Người khác có thể kiêu ngạo; ở đây chúng tôi nguyện không kiêu           ngạo ’ …

          [34] Người khác có thể khó khuyên răn dạy bảo; ở đây chúng tôi sẽ dễ           khuyên răn dạy bảo ’ …

          [35] Người khác có thể có bạn xấu; ở đây chúng tôi có bạn tốt ’ …

          [36] Người khác có thể phóng dật; ở đây chúng tôi không phóng dật ’…

          [37] Người khác có thể không trung thành; ở đây chúng tôi trung thành ’…

          [38] Người khác có thể không biết hổ thẹn; ở đây chúng tôi biết hổ thẹn           ’…

          [39] Người khác có thể không biết sợ hãi khi làm điều ác; ở đây chúng tôi      biết sợ hãi khi làm điều ác ’…

          [40] Người khác có thể ít học hỏi; ở đây chúng tôi học hỏi rất nhiều ’…

          [41] Người khác có thể lười biếng; ở đây chúng tôi siêng năng ’…

          [42] Người khác có thể khôngchánh niệm; ở đây chúng tôi có chánh           niệm ’…

          [43] Người khác có thể ngu si; ở đây chúng tôitrí tuệ ’…

          [44] Người khác có thế dính mắc quan điểm của họ, chấp chặt quan điểm           ấy và khó xả bỏ chúng; ở đây chúng tôi không dính mắc quan điểm của           mình, không chấp chặt quan điểm ấy và dễ dàng xả bỏ chúng.’: đoạn trừ           phiền não cần phải được thực hành như thế.

                              [ Trung BK I, Kinh số 8: Kinh Đoạn Giảm, tr. 100-104]

Page 2

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI

HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI

The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 

An Anthology of Discourses from the Pāli Canon

Chương II. RÈN LUYỆN CÁ NHÂN


3. LOẠI TRỪ NHỮNG CẤU UẾ CỦA TÂM / THANH LỌC TÂM 

[1] Mười sáu loại  cấu uế của tâm.

“ Này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế phiền não của tâm ? Tham dụctham lam bất chánh là một loại phiền não làm cấu uế tâm. Sân hận …giận dữ…thù nghịch…khinh thường… hỗn láo…đố kỵ…keo kiệt…dối trá… lừa gạt…bướng bỉnh…ganh đua… ngã mạn… kiêu căng…hợm hĩnh…phóng dật…là cấu uế của tâm. Biết rằng tham dụctham lam bất chánhcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó. Biết rằng sân hận… phóng dậtcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó.”

                              [ Trung BK I, Kinh số 7: Kinh Ví Dụ Tấm Vải; tr 88]

[2] Hai loại ý niệm

“ Này các Tỷ-kheo, trước khi ta giác ngộ, khi ta còn là Bồ-tát chưa chứng đắc Chánh Giác, ta suy nghĩ như sau: ‘ Ta hãy chia những ý niệm của ta thành hai loại.’ Rồi ta xếp các ý niệm về tham dục, sân hậnđộc hại [dục tầm, sân tầm và hại tầm] vào loại thứ nhất, và ta xếp các ý niệm về ly dục, bao dungvô hại [ ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm] vào loại thứ hai.

“ Rồi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết. Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên, ta hiểu rằng:  ‘Ý niệm bất thiện này đã khởi lên trong ta. Nó sẽ đưa đến tự hại mình, hại người, hại cả hai; nó ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn.’ Khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến tự hại mình’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại người’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại cả  hai’, ý niệm ấy liền tan biến. Khi ta suy xét : ‘Ý niệm này ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn’ ; ý niệm ấy liền tan biến.  Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên trong ta, ta từ bỏ nó, ta đoạn trừ nó, ta xả ly nó.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thưởng xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về tham dục, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  ly dục để nuôi dưỡng ý niệm về tham dục, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về tham dục…  Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về sân hận… ý niệm độc hại, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  vô hại để nuôi dưỡng ý niệm về độc hại, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về độc hại.

“ Cũng giống như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò bằng cách dùng roi đánh và thúc đẩy liên tục vào bên này và bên kia đàn bò để kiểm soát và điều khiển chúng. Vì sao vậy? Bởi vì người mục đồng thấy rằng nếu để cho đàn bò đi lạc vào đồng lúa, anh ta sẽ bị đánh đập, tù tội, phạt vạ hay bị chưởi mắng. Cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, sự thấp kém, sự cấu uế trong các tâm hành bất thiện, và ta đã thấy phước lành của xả ly trong các tâm hành thiện, là một hình thái làm tâm thanh tịnh,

“ Khi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết, một  ý niệm về ly dục, bao dungvô hại khởi lên trong ta. Ta hiểu như như thế này:’ Ý niệm thiện này đã khởi lên trong ta. Ý niệm này không đưa đến hại mình, hại người hoặc hại cả hai; nó giúp tăng trưởng trí tuệ, không gây khó khăn trở ngại, và đưa đến Niết-bàn. Nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ về ý niệm này chỉ một đêm, thậm chí một ngày, thậm chí một đêm và một ngày, ta không có gì phải sợ hãi nó. Nhưng nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ quá nhiều, ta có thể làm cho thân mệt mỏi, và khi thân ta mệt mỏi, tâm có thể bị xáo trộn, và khi tâm bị xáo trộn thì  rất khó định tâm.’ Vì thế ta làm cho nội tâm vững chãi, làm tâm lắng dịu,  làm tâm hợp nhất và định tĩnh. Vì sao vậy ? Để cho tâm khỏi bị xáo trộn.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về xả ly, vị ấy từ bỏ ý niệm về tham dục để phát triển ý niệm về xả ly, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về xả ly. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bao dung..., nghĩ tưởng về vô hại, vị ấy từ bỏ ý niệm độc hại để phát triển ý niệm về vô hại, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về vô hại.

“Cũng giống như vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi tất cả lúa gạo đã được đem cất trong làng, người mục đồng chăn giữ đàn bò trong lúc ngồi dưới gốc cây hay ngồi ngoài trời, vì người ấy chỉ cần chú tâm biết rằng đàn bò đang ở đó; củng vậy, ta cũng chỉ cần chú tâm tỉnh giác biết rằng các tâm hành thiện đang có mặt trong ta.”

                              [ Trung BK, Kinh số 19: Kinh Song Tầm, tr 261-265]

[3] Thực hành “ đoạn trừ phiền não

Thế Tôn dạy: “ Này Cunda, ông cần phải thực hành việc đoạn trừ phiền não [5] như thế này:

          [1] ‘ Người khác có thể gây tổn hại; ở đây chúng tôi nguyện không gây           tổn hại’ : đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [2] ‘ Người khác có thể sát sanh; ở đây chúng tôi nguyện  từ bỏ sát sanh ’:        đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [3] ‘ Người khác có thể lấy của không cho; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           lấy của không cho ’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [4] ‘ Người khác có thể không sống độc thân; ở đây chúng tôi nguyện sẽ           sống độc thân ’…

          [5] ‘ Người khác có thể nói láo; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói láo’....

          [6] ‘ Người khác có thể nói hai lưỡi ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           hai lưỡi’…

          [7] ‘ Người khác có thể nói lời độc ác ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           lời độc ác’...

          [8] ‘ Người khác có thể nói lời phù phiếm ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           nói lời phù phiếm…

          [9] ‘ Người khác có thể tham dục; ở đây chúng tôi nguyện không tham           dục’ ...

          [10] ‘ Người khác có thể sân hận; ở đây chúng tôi nguyện bao dung’ ...

          [11] ‘ Người khác có thể có tà kiến; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           kiến’ ...

          [12] ‘ Người khác có thể có tà tư duy; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tư duy’ ...

          [13] ‘ Người khác có thể có tà ngữ; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           ngữ’ ...

          [14] ‘ Người khác có thể có tà nghiệp; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           nghiệp’ ...

          [15]  ‘ Người khác có thể có tà mạng; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           mạng’ ...

          [16]  ‘ Người khác có thể có tà tinh tấn; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tinh tấn’ ...

          [17]  ‘ Người khác có thể có tà niệm; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           niệm’ ...

          [18] ‘ Người khác có thể có tà định; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           định’ ...

          [19] ‘ Người khác có thể có tà trí; ở đây chúng tôi nguyện có chánh trí’ ...

          [20] ‘ Người khác có thể có tà giải thoát; ở đây chúng tôi nguyện có           chánh giải thoát’ ...

          [21] ‘ Người khác có thể bị dật dờ buồn ngủ chi phối; ở đây chúng tôi           nguyện thoát khỏi dật dờ buồn ngủ’ ...

          [22] ‘ Người khác có thể bị bất an; ở đây chúng tôi nguyện thoát khỏi bất           an’…

          [23] Người khác có thể nghi ngờ; ở đây chúng tôi nguyện không còn nghi   ngờ ’…

          [24] Người khác có thể tức giận; ở đây chúng tôi nguyện không tức           giận’…

          [25] Người khác có thể hung bạo; ở đây chúng tôi nguyện không hung           bạo’…

          [26] ] Người khác có thể khinh thường; ở đây chúng tôi nguyện không           khinh thường’…

          [27] ] Người khác có thể hỗn láo; ở đây chúng tôi nguyện không hỗn           láo’…

          [28] ] Người khác có thể đố kỵ ; ở đây chúng tôi nguyện không đố kỵ ’…

          [29] Người khác có thể keo kiệt; ở đây chúng tôi nguyện không keo kiệt ’         …

          [30] Người khác có thể lường gạt; ở đây chúng tôi nguyện không lường           gạt ’ …

          [31] Người khác có thể dối trá ; ở đây chúng tôi nguyện không dối trá ’           …

          [32] Người khác có thể bướng bỉnh; ở đây chúng tôi nguyện không bướng          bỉnh ’ …

          [33] Người khác có thể kiêu ngạo; ở đây chúng tôi nguyện không kiêu           ngạo ’ …

          [34] Người khác có thể khó khuyên răn dạy bảo; ở đây chúng tôi sẽ dễ           khuyên răn dạy bảo ’ …

          [35] Người khác có thể có bạn xấu; ở đây chúng tôi có bạn tốt ’ …

          [36] Người khác có thể phóng dật; ở đây chúng tôi không phóng dật ’…

          [37] Người khác có thể không trung thành; ở đây chúng tôi trung thành ’…

          [38] Người khác có thể không biết hổ thẹn; ở đây chúng tôi biết hổ thẹn           ’…

          [39] Người khác có thể không biết sợ hãi khi làm điều ác; ở đây chúng tôi      biết sợ hãi khi làm điều ác ’…

          [40] Người khác có thể ít học hỏi; ở đây chúng tôi học hỏi rất nhiều ’…

          [41] Người khác có thể lười biếng; ở đây chúng tôi siêng năng ’…

          [42] Người khác có thể khôngchánh niệm; ở đây chúng tôi có chánh           niệm ’…

          [43] Người khác có thể ngu si; ở đây chúng tôitrí tuệ ’…

          [44] Người khác có thế dính mắc quan điểm của họ, chấp chặt quan điểm           ấy và khó xả bỏ chúng; ở đây chúng tôi không dính mắc quan điểm của           mình, không chấp chặt quan điểm ấy và dễ dàng xả bỏ chúng.’: đoạn trừ           phiền não cần phải được thực hành như thế.

                              [ Trung BK I, Kinh số 8: Kinh Đoạn Giảm, tr. 100-104]

Page 3

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI

HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI

The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 

An Anthology of Discourses from the Pāli Canon

Chương II. RÈN LUYỆN CÁ NHÂN


3. LOẠI TRỪ NHỮNG CẤU UẾ CỦA TÂM / THANH LỌC TÂM 

[1] Mười sáu loại  cấu uế của tâm.

“ Này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế phiền não của tâm ? Tham dụctham lam bất chánh là một loại phiền não làm cấu uế tâm. Sân hận …giận dữ…thù nghịch…khinh thường… hỗn láo…đố kỵ…keo kiệt…dối trá… lừa gạt…bướng bỉnh…ganh đua… ngã mạn… kiêu căng…hợm hĩnh…phóng dật…là cấu uế của tâm. Biết rằng tham dụctham lam bất chánhcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó. Biết rằng sân hận… phóng dậtcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó.”

                              [ Trung BK I, Kinh số 7: Kinh Ví Dụ Tấm Vải; tr 88]

[2] Hai loại ý niệm

“ Này các Tỷ-kheo, trước khi ta giác ngộ, khi ta còn là Bồ-tát chưa chứng đắc Chánh Giác, ta suy nghĩ như sau: ‘ Ta hãy chia những ý niệm của ta thành hai loại.’ Rồi ta xếp các ý niệm về tham dục, sân hậnđộc hại [dục tầm, sân tầm và hại tầm] vào loại thứ nhất, và ta xếp các ý niệm về ly dục, bao dungvô hại [ ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm] vào loại thứ hai.

“ Rồi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết. Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên, ta hiểu rằng:  ‘Ý niệm bất thiện này đã khởi lên trong ta. Nó sẽ đưa đến tự hại mình, hại người, hại cả hai; nó ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn.’ Khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến tự hại mình’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại người’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại cả  hai’, ý niệm ấy liền tan biến. Khi ta suy xét : ‘Ý niệm này ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn’ ; ý niệm ấy liền tan biến.  Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên trong ta, ta từ bỏ nó, ta đoạn trừ nó, ta xả ly nó.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thưởng xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về tham dục, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  ly dục để nuôi dưỡng ý niệm về tham dục, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về tham dục…  Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về sân hận… ý niệm độc hại, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  vô hại để nuôi dưỡng ý niệm về độc hại, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về độc hại.

“ Cũng giống như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò bằng cách dùng roi đánh và thúc đẩy liên tục vào bên này và bên kia đàn bò để kiểm soát và điều khiển chúng. Vì sao vậy? Bởi vì người mục đồng thấy rằng nếu để cho đàn bò đi lạc vào đồng lúa, anh ta sẽ bị đánh đập, tù tội, phạt vạ hay bị chưởi mắng. Cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, sự thấp kém, sự cấu uế trong các tâm hành bất thiện, và ta đã thấy phước lành của xả ly trong các tâm hành thiện, là một hình thái làm tâm thanh tịnh,

“ Khi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết, một  ý niệm về ly dục, bao dungvô hại khởi lên trong ta. Ta hiểu như như thế này:’ Ý niệm thiện này đã khởi lên trong ta. Ý niệm này không đưa đến hại mình, hại người hoặc hại cả hai; nó giúp tăng trưởng trí tuệ, không gây khó khăn trở ngại, và đưa đến Niết-bàn. Nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ về ý niệm này chỉ một đêm, thậm chí một ngày, thậm chí một đêm và một ngày, ta không có gì phải sợ hãi nó. Nhưng nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ quá nhiều, ta có thể làm cho thân mệt mỏi, và khi thân ta mệt mỏi, tâm có thể bị xáo trộn, và khi tâm bị xáo trộn thì  rất khó định tâm.’ Vì thế ta làm cho nội tâm vững chãi, làm tâm lắng dịu,  làm tâm hợp nhất và định tĩnh. Vì sao vậy ? Để cho tâm khỏi bị xáo trộn.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về xả ly, vị ấy từ bỏ ý niệm về tham dục để phát triển ý niệm về xả ly, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về xả ly. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bao dung..., nghĩ tưởng về vô hại, vị ấy từ bỏ ý niệm độc hại để phát triển ý niệm về vô hại, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về vô hại.

“Cũng giống như vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi tất cả lúa gạo đã được đem cất trong làng, người mục đồng chăn giữ đàn bò trong lúc ngồi dưới gốc cây hay ngồi ngoài trời, vì người ấy chỉ cần chú tâm biết rằng đàn bò đang ở đó; củng vậy, ta cũng chỉ cần chú tâm tỉnh giác biết rằng các tâm hành thiện đang có mặt trong ta.”

                              [ Trung BK, Kinh số 19: Kinh Song Tầm, tr 261-265]

[3] Thực hành “ đoạn trừ phiền não

Thế Tôn dạy: “ Này Cunda, ông cần phải thực hành việc đoạn trừ phiền não [5] như thế này:

          [1] ‘ Người khác có thể gây tổn hại; ở đây chúng tôi nguyện không gây           tổn hại’ : đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [2] ‘ Người khác có thể sát sanh; ở đây chúng tôi nguyện  từ bỏ sát sanh ’:        đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [3] ‘ Người khác có thể lấy của không cho; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           lấy của không cho ’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [4] ‘ Người khác có thể không sống độc thân; ở đây chúng tôi nguyện sẽ           sống độc thân ’…

          [5] ‘ Người khác có thể nói láo; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói láo’....

          [6] ‘ Người khác có thể nói hai lưỡi ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           hai lưỡi’…

          [7] ‘ Người khác có thể nói lời độc ác ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           lời độc ác’...

          [8] ‘ Người khác có thể nói lời phù phiếm ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           nói lời phù phiếm…

          [9] ‘ Người khác có thể tham dục; ở đây chúng tôi nguyện không tham           dục’ ...

          [10] ‘ Người khác có thể sân hận; ở đây chúng tôi nguyện bao dung’ ...

          [11] ‘ Người khác có thể có tà kiến; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           kiến’ ...

          [12] ‘ Người khác có thể có tà tư duy; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tư duy’ ...

          [13] ‘ Người khác có thể có tà ngữ; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           ngữ’ ...

          [14] ‘ Người khác có thể có tà nghiệp; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           nghiệp’ ...

          [15]  ‘ Người khác có thể có tà mạng; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           mạng’ ...

          [16]  ‘ Người khác có thể có tà tinh tấn; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tinh tấn’ ...

          [17]  ‘ Người khác có thể có tà niệm; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           niệm’ ...

          [18] ‘ Người khác có thể có tà định; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           định’ ...

          [19] ‘ Người khác có thể có tà trí; ở đây chúng tôi nguyện có chánh trí’ ...

          [20] ‘ Người khác có thể có tà giải thoát; ở đây chúng tôi nguyện có           chánh giải thoát’ ...

          [21] ‘ Người khác có thể bị dật dờ buồn ngủ chi phối; ở đây chúng tôi           nguyện thoát khỏi dật dờ buồn ngủ’ ...

          [22] ‘ Người khác có thể bị bất an; ở đây chúng tôi nguyện thoát khỏi bất           an’…

          [23] Người khác có thể nghi ngờ; ở đây chúng tôi nguyện không còn nghi   ngờ ’…

          [24] Người khác có thể tức giận; ở đây chúng tôi nguyện không tức           giận’…

          [25] Người khác có thể hung bạo; ở đây chúng tôi nguyện không hung           bạo’…

          [26] ] Người khác có thể khinh thường; ở đây chúng tôi nguyện không           khinh thường’…

          [27] ] Người khác có thể hỗn láo; ở đây chúng tôi nguyện không hỗn           láo’…

          [28] ] Người khác có thể đố kỵ ; ở đây chúng tôi nguyện không đố kỵ ’…

          [29] Người khác có thể keo kiệt; ở đây chúng tôi nguyện không keo kiệt ’         …

          [30] Người khác có thể lường gạt; ở đây chúng tôi nguyện không lường           gạt ’ …

          [31] Người khác có thể dối trá ; ở đây chúng tôi nguyện không dối trá ’           …

          [32] Người khác có thể bướng bỉnh; ở đây chúng tôi nguyện không bướng          bỉnh ’ …

          [33] Người khác có thể kiêu ngạo; ở đây chúng tôi nguyện không kiêu           ngạo ’ …

          [34] Người khác có thể khó khuyên răn dạy bảo; ở đây chúng tôi sẽ dễ           khuyên răn dạy bảo ’ …

          [35] Người khác có thể có bạn xấu; ở đây chúng tôi có bạn tốt ’ …

          [36] Người khác có thể phóng dật; ở đây chúng tôi không phóng dật ’…

          [37] Người khác có thể không trung thành; ở đây chúng tôi trung thành ’…

          [38] Người khác có thể không biết hổ thẹn; ở đây chúng tôi biết hổ thẹn           ’…

          [39] Người khác có thể không biết sợ hãi khi làm điều ác; ở đây chúng tôi      biết sợ hãi khi làm điều ác ’…

          [40] Người khác có thể ít học hỏi; ở đây chúng tôi học hỏi rất nhiều ’…

          [41] Người khác có thể lười biếng; ở đây chúng tôi siêng năng ’…

          [42] Người khác có thể khôngchánh niệm; ở đây chúng tôi có chánh           niệm ’…

          [43] Người khác có thể ngu si; ở đây chúng tôitrí tuệ ’…

          [44] Người khác có thế dính mắc quan điểm của họ, chấp chặt quan điểm           ấy và khó xả bỏ chúng; ở đây chúng tôi không dính mắc quan điểm của           mình, không chấp chặt quan điểm ấy và dễ dàng xả bỏ chúng.’: đoạn trừ           phiền não cần phải được thực hành như thế.

                              [ Trung BK I, Kinh số 8: Kinh Đoạn Giảm, tr. 100-104]

Page 4

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI

HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI

The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 

An Anthology of Discourses from the Pāli Canon

Chương II. RÈN LUYỆN CÁ NHÂN


3. LOẠI TRỪ NHỮNG CẤU UẾ CỦA TÂM / THANH LỌC TÂM 

[1] Mười sáu loại  cấu uế của tâm.

“ Này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế phiền não của tâm ? Tham dụctham lam bất chánh là một loại phiền não làm cấu uế tâm. Sân hận …giận dữ…thù nghịch…khinh thường… hỗn láo…đố kỵ…keo kiệt…dối trá… lừa gạt…bướng bỉnh…ganh đua… ngã mạn… kiêu căng…hợm hĩnh…phóng dật…là cấu uế của tâm. Biết rằng tham dụctham lam bất chánhcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó. Biết rằng sân hận… phóng dậtcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó.”

                              [ Trung BK I, Kinh số 7: Kinh Ví Dụ Tấm Vải; tr 88]

[2] Hai loại ý niệm

“ Này các Tỷ-kheo, trước khi ta giác ngộ, khi ta còn là Bồ-tát chưa chứng đắc Chánh Giác, ta suy nghĩ như sau: ‘ Ta hãy chia những ý niệm của ta thành hai loại.’ Rồi ta xếp các ý niệm về tham dục, sân hậnđộc hại [dục tầm, sân tầm và hại tầm] vào loại thứ nhất, và ta xếp các ý niệm về ly dục, bao dungvô hại [ ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm] vào loại thứ hai.

“ Rồi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết. Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên, ta hiểu rằng:  ‘Ý niệm bất thiện này đã khởi lên trong ta. Nó sẽ đưa đến tự hại mình, hại người, hại cả hai; nó ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn.’ Khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến tự hại mình’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại người’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại cả  hai’, ý niệm ấy liền tan biến. Khi ta suy xét : ‘Ý niệm này ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn’ ; ý niệm ấy liền tan biến.  Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên trong ta, ta từ bỏ nó, ta đoạn trừ nó, ta xả ly nó.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thưởng xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về tham dục, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  ly dục để nuôi dưỡng ý niệm về tham dục, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về tham dục…  Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về sân hận… ý niệm độc hại, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  vô hại để nuôi dưỡng ý niệm về độc hại, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về độc hại.

“ Cũng giống như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò bằng cách dùng roi đánh và thúc đẩy liên tục vào bên này và bên kia đàn bò để kiểm soát và điều khiển chúng. Vì sao vậy? Bởi vì người mục đồng thấy rằng nếu để cho đàn bò đi lạc vào đồng lúa, anh ta sẽ bị đánh đập, tù tội, phạt vạ hay bị chưởi mắng. Cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, sự thấp kém, sự cấu uế trong các tâm hành bất thiện, và ta đã thấy phước lành của xả ly trong các tâm hành thiện, là một hình thái làm tâm thanh tịnh,

“ Khi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết, một  ý niệm về ly dục, bao dungvô hại khởi lên trong ta. Ta hiểu như như thế này:’ Ý niệm thiện này đã khởi lên trong ta. Ý niệm này không đưa đến hại mình, hại người hoặc hại cả hai; nó giúp tăng trưởng trí tuệ, không gây khó khăn trở ngại, và đưa đến Niết-bàn. Nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ về ý niệm này chỉ một đêm, thậm chí một ngày, thậm chí một đêm và một ngày, ta không có gì phải sợ hãi nó. Nhưng nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ quá nhiều, ta có thể làm cho thân mệt mỏi, và khi thân ta mệt mỏi, tâm có thể bị xáo trộn, và khi tâm bị xáo trộn thì  rất khó định tâm.’ Vì thế ta làm cho nội tâm vững chãi, làm tâm lắng dịu,  làm tâm hợp nhất và định tĩnh. Vì sao vậy ? Để cho tâm khỏi bị xáo trộn.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về xả ly, vị ấy từ bỏ ý niệm về tham dục để phát triển ý niệm về xả ly, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về xả ly. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bao dung..., nghĩ tưởng về vô hại, vị ấy từ bỏ ý niệm độc hại để phát triển ý niệm về vô hại, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về vô hại.

“Cũng giống như vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi tất cả lúa gạo đã được đem cất trong làng, người mục đồng chăn giữ đàn bò trong lúc ngồi dưới gốc cây hay ngồi ngoài trời, vì người ấy chỉ cần chú tâm biết rằng đàn bò đang ở đó; củng vậy, ta cũng chỉ cần chú tâm tỉnh giác biết rằng các tâm hành thiện đang có mặt trong ta.”

                              [ Trung BK, Kinh số 19: Kinh Song Tầm, tr 261-265]

[3] Thực hành “ đoạn trừ phiền não

Thế Tôn dạy: “ Này Cunda, ông cần phải thực hành việc đoạn trừ phiền não [5] như thế này:

          [1] ‘ Người khác có thể gây tổn hại; ở đây chúng tôi nguyện không gây           tổn hại’ : đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [2] ‘ Người khác có thể sát sanh; ở đây chúng tôi nguyện  từ bỏ sát sanh ’:        đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [3] ‘ Người khác có thể lấy của không cho; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           lấy của không cho ’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [4] ‘ Người khác có thể không sống độc thân; ở đây chúng tôi nguyện sẽ           sống độc thân ’…

          [5] ‘ Người khác có thể nói láo; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói láo’....

          [6] ‘ Người khác có thể nói hai lưỡi ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           hai lưỡi’…

          [7] ‘ Người khác có thể nói lời độc ác ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           lời độc ác’...

          [8] ‘ Người khác có thể nói lời phù phiếm ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           nói lời phù phiếm…

          [9] ‘ Người khác có thể tham dục; ở đây chúng tôi nguyện không tham           dục’ ...

          [10] ‘ Người khác có thể sân hận; ở đây chúng tôi nguyện bao dung’ ...

          [11] ‘ Người khác có thể có tà kiến; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           kiến’ ...

          [12] ‘ Người khác có thể có tà tư duy; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tư duy’ ...

          [13] ‘ Người khác có thể có tà ngữ; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           ngữ’ ...

          [14] ‘ Người khác có thể có tà nghiệp; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           nghiệp’ ...

          [15]  ‘ Người khác có thể có tà mạng; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           mạng’ ...

          [16]  ‘ Người khác có thể có tà tinh tấn; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tinh tấn’ ...

          [17]  ‘ Người khác có thể có tà niệm; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           niệm’ ...

          [18] ‘ Người khác có thể có tà định; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           định’ ...

          [19] ‘ Người khác có thể có tà trí; ở đây chúng tôi nguyện có chánh trí’ ...

          [20] ‘ Người khác có thể có tà giải thoát; ở đây chúng tôi nguyện có           chánh giải thoát’ ...

          [21] ‘ Người khác có thể bị dật dờ buồn ngủ chi phối; ở đây chúng tôi           nguyện thoát khỏi dật dờ buồn ngủ’ ...

          [22] ‘ Người khác có thể bị bất an; ở đây chúng tôi nguyện thoát khỏi bất           an’…

          [23] Người khác có thể nghi ngờ; ở đây chúng tôi nguyện không còn nghi   ngờ ’…

          [24] Người khác có thể tức giận; ở đây chúng tôi nguyện không tức           giận’…

          [25] Người khác có thể hung bạo; ở đây chúng tôi nguyện không hung           bạo’…

          [26] ] Người khác có thể khinh thường; ở đây chúng tôi nguyện không           khinh thường’…

          [27] ] Người khác có thể hỗn láo; ở đây chúng tôi nguyện không hỗn           láo’…

          [28] ] Người khác có thể đố kỵ ; ở đây chúng tôi nguyện không đố kỵ ’…

          [29] Người khác có thể keo kiệt; ở đây chúng tôi nguyện không keo kiệt ’         …

          [30] Người khác có thể lường gạt; ở đây chúng tôi nguyện không lường           gạt ’ …

          [31] Người khác có thể dối trá ; ở đây chúng tôi nguyện không dối trá ’           …

          [32] Người khác có thể bướng bỉnh; ở đây chúng tôi nguyện không bướng          bỉnh ’ …

          [33] Người khác có thể kiêu ngạo; ở đây chúng tôi nguyện không kiêu           ngạo ’ …

          [34] Người khác có thể khó khuyên răn dạy bảo; ở đây chúng tôi sẽ dễ           khuyên răn dạy bảo ’ …

          [35] Người khác có thể có bạn xấu; ở đây chúng tôi có bạn tốt ’ …

          [36] Người khác có thể phóng dật; ở đây chúng tôi không phóng dật ’…

          [37] Người khác có thể không trung thành; ở đây chúng tôi trung thành ’…

          [38] Người khác có thể không biết hổ thẹn; ở đây chúng tôi biết hổ thẹn           ’…

          [39] Người khác có thể không biết sợ hãi khi làm điều ác; ở đây chúng tôi      biết sợ hãi khi làm điều ác ’…

          [40] Người khác có thể ít học hỏi; ở đây chúng tôi học hỏi rất nhiều ’…

          [41] Người khác có thể lười biếng; ở đây chúng tôi siêng năng ’…

          [42] Người khác có thể khôngchánh niệm; ở đây chúng tôi có chánh           niệm ’…

          [43] Người khác có thể ngu si; ở đây chúng tôitrí tuệ ’…

          [44] Người khác có thế dính mắc quan điểm của họ, chấp chặt quan điểm           ấy và khó xả bỏ chúng; ở đây chúng tôi không dính mắc quan điểm của           mình, không chấp chặt quan điểm ấy và dễ dàng xả bỏ chúng.’: đoạn trừ           phiền não cần phải được thực hành như thế.

                              [ Trung BK I, Kinh số 8: Kinh Đoạn Giảm, tr. 100-104]

Page 5

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI

HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI

The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 

An Anthology of Discourses from the Pāli Canon

Chương II. RÈN LUYỆN CÁ NHÂN


3. LOẠI TRỪ NHỮNG CẤU UẾ CỦA TÂM / THANH LỌC TÂM 

[1] Mười sáu loại  cấu uế của tâm.

“ Này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế phiền não của tâm ? Tham dụctham lam bất chánh là một loại phiền não làm cấu uế tâm. Sân hận …giận dữ…thù nghịch…khinh thường… hỗn láo…đố kỵ…keo kiệt…dối trá… lừa gạt…bướng bỉnh…ganh đua… ngã mạn… kiêu căng…hợm hĩnh…phóng dật…là cấu uế của tâm. Biết rằng tham dụctham lam bất chánhcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó. Biết rằng sân hận… phóng dậtcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó.”

                              [ Trung BK I, Kinh số 7: Kinh Ví Dụ Tấm Vải; tr 88]

[2] Hai loại ý niệm

“ Này các Tỷ-kheo, trước khi ta giác ngộ, khi ta còn là Bồ-tát chưa chứng đắc Chánh Giác, ta suy nghĩ như sau: ‘ Ta hãy chia những ý niệm của ta thành hai loại.’ Rồi ta xếp các ý niệm về tham dục, sân hậnđộc hại [dục tầm, sân tầm và hại tầm] vào loại thứ nhất, và ta xếp các ý niệm về ly dục, bao dungvô hại [ ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm] vào loại thứ hai.

“ Rồi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết. Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên, ta hiểu rằng:  ‘Ý niệm bất thiện này đã khởi lên trong ta. Nó sẽ đưa đến tự hại mình, hại người, hại cả hai; nó ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn.’ Khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến tự hại mình’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại người’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại cả  hai’, ý niệm ấy liền tan biến. Khi ta suy xét : ‘Ý niệm này ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn’ ; ý niệm ấy liền tan biến.  Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên trong ta, ta từ bỏ nó, ta đoạn trừ nó, ta xả ly nó.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thưởng xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về tham dục, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  ly dục để nuôi dưỡng ý niệm về tham dục, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về tham dục…  Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về sân hận… ý niệm độc hại, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  vô hại để nuôi dưỡng ý niệm về độc hại, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về độc hại.

“ Cũng giống như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò bằng cách dùng roi đánh và thúc đẩy liên tục vào bên này và bên kia đàn bò để kiểm soát và điều khiển chúng. Vì sao vậy? Bởi vì người mục đồng thấy rằng nếu để cho đàn bò đi lạc vào đồng lúa, anh ta sẽ bị đánh đập, tù tội, phạt vạ hay bị chưởi mắng. Cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, sự thấp kém, sự cấu uế trong các tâm hành bất thiện, và ta đã thấy phước lành của xả ly trong các tâm hành thiện, là một hình thái làm tâm thanh tịnh,

“ Khi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết, một  ý niệm về ly dục, bao dungvô hại khởi lên trong ta. Ta hiểu như như thế này:’ Ý niệm thiện này đã khởi lên trong ta. Ý niệm này không đưa đến hại mình, hại người hoặc hại cả hai; nó giúp tăng trưởng trí tuệ, không gây khó khăn trở ngại, và đưa đến Niết-bàn. Nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ về ý niệm này chỉ một đêm, thậm chí một ngày, thậm chí một đêm và một ngày, ta không có gì phải sợ hãi nó. Nhưng nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ quá nhiều, ta có thể làm cho thân mệt mỏi, và khi thân ta mệt mỏi, tâm có thể bị xáo trộn, và khi tâm bị xáo trộn thì  rất khó định tâm.’ Vì thế ta làm cho nội tâm vững chãi, làm tâm lắng dịu,  làm tâm hợp nhất và định tĩnh. Vì sao vậy ? Để cho tâm khỏi bị xáo trộn.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về xả ly, vị ấy từ bỏ ý niệm về tham dục để phát triển ý niệm về xả ly, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về xả ly. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bao dung..., nghĩ tưởng về vô hại, vị ấy từ bỏ ý niệm độc hại để phát triển ý niệm về vô hại, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về vô hại.

“Cũng giống như vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi tất cả lúa gạo đã được đem cất trong làng, người mục đồng chăn giữ đàn bò trong lúc ngồi dưới gốc cây hay ngồi ngoài trời, vì người ấy chỉ cần chú tâm biết rằng đàn bò đang ở đó; củng vậy, ta cũng chỉ cần chú tâm tỉnh giác biết rằng các tâm hành thiện đang có mặt trong ta.”

                              [ Trung BK, Kinh số 19: Kinh Song Tầm, tr 261-265]

[3] Thực hành “ đoạn trừ phiền não

Thế Tôn dạy: “ Này Cunda, ông cần phải thực hành việc đoạn trừ phiền não [5] như thế này:

          [1] ‘ Người khác có thể gây tổn hại; ở đây chúng tôi nguyện không gây           tổn hại’ : đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [2] ‘ Người khác có thể sát sanh; ở đây chúng tôi nguyện  từ bỏ sát sanh ’:        đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [3] ‘ Người khác có thể lấy của không cho; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           lấy của không cho ’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [4] ‘ Người khác có thể không sống độc thân; ở đây chúng tôi nguyện sẽ           sống độc thân ’…

          [5] ‘ Người khác có thể nói láo; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói láo’....

          [6] ‘ Người khác có thể nói hai lưỡi ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           hai lưỡi’…

          [7] ‘ Người khác có thể nói lời độc ác ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           lời độc ác’...

          [8] ‘ Người khác có thể nói lời phù phiếm ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           nói lời phù phiếm…

          [9] ‘ Người khác có thể tham dục; ở đây chúng tôi nguyện không tham           dục’ ...

          [10] ‘ Người khác có thể sân hận; ở đây chúng tôi nguyện bao dung’ ...

          [11] ‘ Người khác có thể có tà kiến; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           kiến’ ...

          [12] ‘ Người khác có thể có tà tư duy; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tư duy’ ...

          [13] ‘ Người khác có thể có tà ngữ; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           ngữ’ ...

          [14] ‘ Người khác có thể có tà nghiệp; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           nghiệp’ ...

          [15]  ‘ Người khác có thể có tà mạng; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           mạng’ ...

          [16]  ‘ Người khác có thể có tà tinh tấn; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tinh tấn’ ...

          [17]  ‘ Người khác có thể có tà niệm; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           niệm’ ...

          [18] ‘ Người khác có thể có tà định; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           định’ ...

          [19] ‘ Người khác có thể có tà trí; ở đây chúng tôi nguyện có chánh trí’ ...

          [20] ‘ Người khác có thể có tà giải thoát; ở đây chúng tôi nguyện có           chánh giải thoát’ ...

          [21] ‘ Người khác có thể bị dật dờ buồn ngủ chi phối; ở đây chúng tôi           nguyện thoát khỏi dật dờ buồn ngủ’ ...

          [22] ‘ Người khác có thể bị bất an; ở đây chúng tôi nguyện thoát khỏi bất           an’…

          [23] Người khác có thể nghi ngờ; ở đây chúng tôi nguyện không còn nghi   ngờ ’…

          [24] Người khác có thể tức giận; ở đây chúng tôi nguyện không tức           giận’…

          [25] Người khác có thể hung bạo; ở đây chúng tôi nguyện không hung           bạo’…

          [26] ] Người khác có thể khinh thường; ở đây chúng tôi nguyện không           khinh thường’…

          [27] ] Người khác có thể hỗn láo; ở đây chúng tôi nguyện không hỗn           láo’…

          [28] ] Người khác có thể đố kỵ ; ở đây chúng tôi nguyện không đố kỵ ’…

          [29] Người khác có thể keo kiệt; ở đây chúng tôi nguyện không keo kiệt ’         …

          [30] Người khác có thể lường gạt; ở đây chúng tôi nguyện không lường           gạt ’ …

          [31] Người khác có thể dối trá ; ở đây chúng tôi nguyện không dối trá ’           …

          [32] Người khác có thể bướng bỉnh; ở đây chúng tôi nguyện không bướng          bỉnh ’ …

          [33] Người khác có thể kiêu ngạo; ở đây chúng tôi nguyện không kiêu           ngạo ’ …

          [34] Người khác có thể khó khuyên răn dạy bảo; ở đây chúng tôi sẽ dễ           khuyên răn dạy bảo ’ …

          [35] Người khác có thể có bạn xấu; ở đây chúng tôi có bạn tốt ’ …

          [36] Người khác có thể phóng dật; ở đây chúng tôi không phóng dật ’…

          [37] Người khác có thể không trung thành; ở đây chúng tôi trung thành ’…

          [38] Người khác có thể không biết hổ thẹn; ở đây chúng tôi biết hổ thẹn           ’…

          [39] Người khác có thể không biết sợ hãi khi làm điều ác; ở đây chúng tôi      biết sợ hãi khi làm điều ác ’…

          [40] Người khác có thể ít học hỏi; ở đây chúng tôi học hỏi rất nhiều ’…

          [41] Người khác có thể lười biếng; ở đây chúng tôi siêng năng ’…

          [42] Người khác có thể khôngchánh niệm; ở đây chúng tôi có chánh           niệm ’…

          [43] Người khác có thể ngu si; ở đây chúng tôitrí tuệ ’…

          [44] Người khác có thế dính mắc quan điểm của họ, chấp chặt quan điểm           ấy và khó xả bỏ chúng; ở đây chúng tôi không dính mắc quan điểm của           mình, không chấp chặt quan điểm ấy và dễ dàng xả bỏ chúng.’: đoạn trừ           phiền não cần phải được thực hành như thế.

                              [ Trung BK I, Kinh số 8: Kinh Đoạn Giảm, tr. 100-104]

Page 6

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI

HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI

The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 

An Anthology of Discourses from the Pāli Canon

Chương II. RÈN LUYỆN CÁ NHÂN


3. LOẠI TRỪ NHỮNG CẤU UẾ CỦA TÂM / THANH LỌC TÂM 

[1] Mười sáu loại  cấu uế của tâm.

“ Này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế phiền não của tâm ? Tham dụctham lam bất chánh là một loại phiền não làm cấu uế tâm. Sân hận …giận dữ…thù nghịch…khinh thường… hỗn láo…đố kỵ…keo kiệt…dối trá… lừa gạt…bướng bỉnh…ganh đua… ngã mạn… kiêu căng…hợm hĩnh…phóng dật…là cấu uế của tâm. Biết rằng tham dụctham lam bất chánhcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó. Biết rằng sân hận… phóng dậtcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó.”

                              [ Trung BK I, Kinh số 7: Kinh Ví Dụ Tấm Vải; tr 88]

[2] Hai loại ý niệm

“ Này các Tỷ-kheo, trước khi ta giác ngộ, khi ta còn là Bồ-tát chưa chứng đắc Chánh Giác, ta suy nghĩ như sau: ‘ Ta hãy chia những ý niệm của ta thành hai loại.’ Rồi ta xếp các ý niệm về tham dục, sân hậnđộc hại [dục tầm, sân tầm và hại tầm] vào loại thứ nhất, và ta xếp các ý niệm về ly dục, bao dungvô hại [ ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm] vào loại thứ hai.

“ Rồi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết. Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên, ta hiểu rằng:  ‘Ý niệm bất thiện này đã khởi lên trong ta. Nó sẽ đưa đến tự hại mình, hại người, hại cả hai; nó ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn.’ Khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến tự hại mình’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại người’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại cả  hai’, ý niệm ấy liền tan biến. Khi ta suy xét : ‘Ý niệm này ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn’ ; ý niệm ấy liền tan biến.  Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên trong ta, ta từ bỏ nó, ta đoạn trừ nó, ta xả ly nó.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thưởng xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về tham dục, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  ly dục để nuôi dưỡng ý niệm về tham dục, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về tham dục…  Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về sân hận… ý niệm độc hại, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  vô hại để nuôi dưỡng ý niệm về độc hại, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về độc hại.

“ Cũng giống như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò bằng cách dùng roi đánh và thúc đẩy liên tục vào bên này và bên kia đàn bò để kiểm soát và điều khiển chúng. Vì sao vậy? Bởi vì người mục đồng thấy rằng nếu để cho đàn bò đi lạc vào đồng lúa, anh ta sẽ bị đánh đập, tù tội, phạt vạ hay bị chưởi mắng. Cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, sự thấp kém, sự cấu uế trong các tâm hành bất thiện, và ta đã thấy phước lành của xả ly trong các tâm hành thiện, là một hình thái làm tâm thanh tịnh,

“ Khi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết, một  ý niệm về ly dục, bao dungvô hại khởi lên trong ta. Ta hiểu như như thế này:’ Ý niệm thiện này đã khởi lên trong ta. Ý niệm này không đưa đến hại mình, hại người hoặc hại cả hai; nó giúp tăng trưởng trí tuệ, không gây khó khăn trở ngại, và đưa đến Niết-bàn. Nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ về ý niệm này chỉ một đêm, thậm chí một ngày, thậm chí một đêm và một ngày, ta không có gì phải sợ hãi nó. Nhưng nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ quá nhiều, ta có thể làm cho thân mệt mỏi, và khi thân ta mệt mỏi, tâm có thể bị xáo trộn, và khi tâm bị xáo trộn thì  rất khó định tâm.’ Vì thế ta làm cho nội tâm vững chãi, làm tâm lắng dịu,  làm tâm hợp nhất và định tĩnh. Vì sao vậy ? Để cho tâm khỏi bị xáo trộn.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về xả ly, vị ấy từ bỏ ý niệm về tham dục để phát triển ý niệm về xả ly, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về xả ly. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bao dung..., nghĩ tưởng về vô hại, vị ấy từ bỏ ý niệm độc hại để phát triển ý niệm về vô hại, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về vô hại.

“Cũng giống như vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi tất cả lúa gạo đã được đem cất trong làng, người mục đồng chăn giữ đàn bò trong lúc ngồi dưới gốc cây hay ngồi ngoài trời, vì người ấy chỉ cần chú tâm biết rằng đàn bò đang ở đó; củng vậy, ta cũng chỉ cần chú tâm tỉnh giác biết rằng các tâm hành thiện đang có mặt trong ta.”

                              [ Trung BK, Kinh số 19: Kinh Song Tầm, tr 261-265]

[3] Thực hành “ đoạn trừ phiền não

Thế Tôn dạy: “ Này Cunda, ông cần phải thực hành việc đoạn trừ phiền não [5] như thế này:

          [1] ‘ Người khác có thể gây tổn hại; ở đây chúng tôi nguyện không gây           tổn hại’ : đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [2] ‘ Người khác có thể sát sanh; ở đây chúng tôi nguyện  từ bỏ sát sanh ’:        đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [3] ‘ Người khác có thể lấy của không cho; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           lấy của không cho ’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [4] ‘ Người khác có thể không sống độc thân; ở đây chúng tôi nguyện sẽ           sống độc thân ’…

          [5] ‘ Người khác có thể nói láo; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói láo’....

          [6] ‘ Người khác có thể nói hai lưỡi ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           hai lưỡi’…

          [7] ‘ Người khác có thể nói lời độc ác ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           lời độc ác’...

          [8] ‘ Người khác có thể nói lời phù phiếm ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           nói lời phù phiếm…

          [9] ‘ Người khác có thể tham dục; ở đây chúng tôi nguyện không tham           dục’ ...

          [10] ‘ Người khác có thể sân hận; ở đây chúng tôi nguyện bao dung’ ...

          [11] ‘ Người khác có thể có tà kiến; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           kiến’ ...

          [12] ‘ Người khác có thể có tà tư duy; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tư duy’ ...

          [13] ‘ Người khác có thể có tà ngữ; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           ngữ’ ...

          [14] ‘ Người khác có thể có tà nghiệp; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           nghiệp’ ...

          [15]  ‘ Người khác có thể có tà mạng; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           mạng’ ...

          [16]  ‘ Người khác có thể có tà tinh tấn; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tinh tấn’ ...

          [17]  ‘ Người khác có thể có tà niệm; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           niệm’ ...

          [18] ‘ Người khác có thể có tà định; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           định’ ...

          [19] ‘ Người khác có thể có tà trí; ở đây chúng tôi nguyện có chánh trí’ ...

          [20] ‘ Người khác có thể có tà giải thoát; ở đây chúng tôi nguyện có           chánh giải thoát’ ...

          [21] ‘ Người khác có thể bị dật dờ buồn ngủ chi phối; ở đây chúng tôi           nguyện thoát khỏi dật dờ buồn ngủ’ ...

          [22] ‘ Người khác có thể bị bất an; ở đây chúng tôi nguyện thoát khỏi bất           an’…

          [23] Người khác có thể nghi ngờ; ở đây chúng tôi nguyện không còn nghi   ngờ ’…

          [24] Người khác có thể tức giận; ở đây chúng tôi nguyện không tức           giận’…

          [25] Người khác có thể hung bạo; ở đây chúng tôi nguyện không hung           bạo’…

          [26] ] Người khác có thể khinh thường; ở đây chúng tôi nguyện không           khinh thường’…

          [27] ] Người khác có thể hỗn láo; ở đây chúng tôi nguyện không hỗn           láo’…

          [28] ] Người khác có thể đố kỵ ; ở đây chúng tôi nguyện không đố kỵ ’…

          [29] Người khác có thể keo kiệt; ở đây chúng tôi nguyện không keo kiệt ’         …

          [30] Người khác có thể lường gạt; ở đây chúng tôi nguyện không lường           gạt ’ …

          [31] Người khác có thể dối trá ; ở đây chúng tôi nguyện không dối trá ’           …

          [32] Người khác có thể bướng bỉnh; ở đây chúng tôi nguyện không bướng          bỉnh ’ …

          [33] Người khác có thể kiêu ngạo; ở đây chúng tôi nguyện không kiêu           ngạo ’ …

          [34] Người khác có thể khó khuyên răn dạy bảo; ở đây chúng tôi sẽ dễ           khuyên răn dạy bảo ’ …

          [35] Người khác có thể có bạn xấu; ở đây chúng tôi có bạn tốt ’ …

          [36] Người khác có thể phóng dật; ở đây chúng tôi không phóng dật ’…

          [37] Người khác có thể không trung thành; ở đây chúng tôi trung thành ’…

          [38] Người khác có thể không biết hổ thẹn; ở đây chúng tôi biết hổ thẹn           ’…

          [39] Người khác có thể không biết sợ hãi khi làm điều ác; ở đây chúng tôi      biết sợ hãi khi làm điều ác ’…

          [40] Người khác có thể ít học hỏi; ở đây chúng tôi học hỏi rất nhiều ’…

          [41] Người khác có thể lười biếng; ở đây chúng tôi siêng năng ’…

          [42] Người khác có thể khôngchánh niệm; ở đây chúng tôi có chánh           niệm ’…

          [43] Người khác có thể ngu si; ở đây chúng tôitrí tuệ ’…

          [44] Người khác có thế dính mắc quan điểm của họ, chấp chặt quan điểm           ấy và khó xả bỏ chúng; ở đây chúng tôi không dính mắc quan điểm của           mình, không chấp chặt quan điểm ấy và dễ dàng xả bỏ chúng.’: đoạn trừ           phiền não cần phải được thực hành như thế.

                              [ Trung BK I, Kinh số 8: Kinh Đoạn Giảm, tr. 100-104]

Page 7

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI

HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI

The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 

An Anthology of Discourses from the Pāli Canon

Chương II. RÈN LUYỆN CÁ NHÂN


3. LOẠI TRỪ NHỮNG CẤU UẾ CỦA TÂM / THANH LỌC TÂM 

[1] Mười sáu loại  cấu uế của tâm.

“ Này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế phiền não của tâm ? Tham dụctham lam bất chánh là một loại phiền não làm cấu uế tâm. Sân hận …giận dữ…thù nghịch…khinh thường… hỗn láo…đố kỵ…keo kiệt…dối trá… lừa gạt…bướng bỉnh…ganh đua… ngã mạn… kiêu căng…hợm hĩnh…phóng dật…là cấu uế của tâm. Biết rằng tham dụctham lam bất chánhcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó. Biết rằng sân hận… phóng dậtcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó.”

                              [ Trung BK I, Kinh số 7: Kinh Ví Dụ Tấm Vải; tr 88]

[2] Hai loại ý niệm

“ Này các Tỷ-kheo, trước khi ta giác ngộ, khi ta còn là Bồ-tát chưa chứng đắc Chánh Giác, ta suy nghĩ như sau: ‘ Ta hãy chia những ý niệm của ta thành hai loại.’ Rồi ta xếp các ý niệm về tham dục, sân hậnđộc hại [dục tầm, sân tầm và hại tầm] vào loại thứ nhất, và ta xếp các ý niệm về ly dục, bao dungvô hại [ ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm] vào loại thứ hai.

“ Rồi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết. Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên, ta hiểu rằng:  ‘Ý niệm bất thiện này đã khởi lên trong ta. Nó sẽ đưa đến tự hại mình, hại người, hại cả hai; nó ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn.’ Khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến tự hại mình’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại người’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại cả  hai’, ý niệm ấy liền tan biến. Khi ta suy xét : ‘Ý niệm này ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn’ ; ý niệm ấy liền tan biến.  Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên trong ta, ta từ bỏ nó, ta đoạn trừ nó, ta xả ly nó.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thưởng xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về tham dục, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  ly dục để nuôi dưỡng ý niệm về tham dục, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về tham dục…  Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về sân hận… ý niệm độc hại, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  vô hại để nuôi dưỡng ý niệm về độc hại, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về độc hại.

“ Cũng giống như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò bằng cách dùng roi đánh và thúc đẩy liên tục vào bên này và bên kia đàn bò để kiểm soát và điều khiển chúng. Vì sao vậy? Bởi vì người mục đồng thấy rằng nếu để cho đàn bò đi lạc vào đồng lúa, anh ta sẽ bị đánh đập, tù tội, phạt vạ hay bị chưởi mắng. Cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, sự thấp kém, sự cấu uế trong các tâm hành bất thiện, và ta đã thấy phước lành của xả ly trong các tâm hành thiện, là một hình thái làm tâm thanh tịnh,

“ Khi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết, một  ý niệm về ly dục, bao dungvô hại khởi lên trong ta. Ta hiểu như như thế này:’ Ý niệm thiện này đã khởi lên trong ta. Ý niệm này không đưa đến hại mình, hại người hoặc hại cả hai; nó giúp tăng trưởng trí tuệ, không gây khó khăn trở ngại, và đưa đến Niết-bàn. Nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ về ý niệm này chỉ một đêm, thậm chí một ngày, thậm chí một đêm và một ngày, ta không có gì phải sợ hãi nó. Nhưng nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ quá nhiều, ta có thể làm cho thân mệt mỏi, và khi thân ta mệt mỏi, tâm có thể bị xáo trộn, và khi tâm bị xáo trộn thì  rất khó định tâm.’ Vì thế ta làm cho nội tâm vững chãi, làm tâm lắng dịu,  làm tâm hợp nhất và định tĩnh. Vì sao vậy ? Để cho tâm khỏi bị xáo trộn.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về xả ly, vị ấy từ bỏ ý niệm về tham dục để phát triển ý niệm về xả ly, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về xả ly. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bao dung..., nghĩ tưởng về vô hại, vị ấy từ bỏ ý niệm độc hại để phát triển ý niệm về vô hại, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về vô hại.

“Cũng giống như vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi tất cả lúa gạo đã được đem cất trong làng, người mục đồng chăn giữ đàn bò trong lúc ngồi dưới gốc cây hay ngồi ngoài trời, vì người ấy chỉ cần chú tâm biết rằng đàn bò đang ở đó; củng vậy, ta cũng chỉ cần chú tâm tỉnh giác biết rằng các tâm hành thiện đang có mặt trong ta.”

                              [ Trung BK, Kinh số 19: Kinh Song Tầm, tr 261-265]

[3] Thực hành “ đoạn trừ phiền não

Thế Tôn dạy: “ Này Cunda, ông cần phải thực hành việc đoạn trừ phiền não [5] như thế này:

          [1] ‘ Người khác có thể gây tổn hại; ở đây chúng tôi nguyện không gây           tổn hại’ : đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [2] ‘ Người khác có thể sát sanh; ở đây chúng tôi nguyện  từ bỏ sát sanh ’:        đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [3] ‘ Người khác có thể lấy của không cho; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           lấy của không cho ’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [4] ‘ Người khác có thể không sống độc thân; ở đây chúng tôi nguyện sẽ           sống độc thân ’…

          [5] ‘ Người khác có thể nói láo; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói láo’....

          [6] ‘ Người khác có thể nói hai lưỡi ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           hai lưỡi’…

          [7] ‘ Người khác có thể nói lời độc ác ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           lời độc ác’...

          [8] ‘ Người khác có thể nói lời phù phiếm ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           nói lời phù phiếm…

          [9] ‘ Người khác có thể tham dục; ở đây chúng tôi nguyện không tham           dục’ ...

          [10] ‘ Người khác có thể sân hận; ở đây chúng tôi nguyện bao dung’ ...

          [11] ‘ Người khác có thể có tà kiến; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           kiến’ ...

          [12] ‘ Người khác có thể có tà tư duy; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tư duy’ ...

          [13] ‘ Người khác có thể có tà ngữ; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           ngữ’ ...

          [14] ‘ Người khác có thể có tà nghiệp; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           nghiệp’ ...

          [15]  ‘ Người khác có thể có tà mạng; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           mạng’ ...

          [16]  ‘ Người khác có thể có tà tinh tấn; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tinh tấn’ ...

          [17]  ‘ Người khác có thể có tà niệm; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           niệm’ ...

          [18] ‘ Người khác có thể có tà định; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           định’ ...

          [19] ‘ Người khác có thể có tà trí; ở đây chúng tôi nguyện có chánh trí’ ...

          [20] ‘ Người khác có thể có tà giải thoát; ở đây chúng tôi nguyện có           chánh giải thoát’ ...

          [21] ‘ Người khác có thể bị dật dờ buồn ngủ chi phối; ở đây chúng tôi           nguyện thoát khỏi dật dờ buồn ngủ’ ...

          [22] ‘ Người khác có thể bị bất an; ở đây chúng tôi nguyện thoát khỏi bất           an’…

          [23] Người khác có thể nghi ngờ; ở đây chúng tôi nguyện không còn nghi   ngờ ’…

          [24] Người khác có thể tức giận; ở đây chúng tôi nguyện không tức           giận’…

          [25] Người khác có thể hung bạo; ở đây chúng tôi nguyện không hung           bạo’…

          [26] ] Người khác có thể khinh thường; ở đây chúng tôi nguyện không           khinh thường’…

          [27] ] Người khác có thể hỗn láo; ở đây chúng tôi nguyện không hỗn           láo’…

          [28] ] Người khác có thể đố kỵ ; ở đây chúng tôi nguyện không đố kỵ ’…

          [29] Người khác có thể keo kiệt; ở đây chúng tôi nguyện không keo kiệt ’         …

          [30] Người khác có thể lường gạt; ở đây chúng tôi nguyện không lường           gạt ’ …

          [31] Người khác có thể dối trá ; ở đây chúng tôi nguyện không dối trá ’           …

          [32] Người khác có thể bướng bỉnh; ở đây chúng tôi nguyện không bướng          bỉnh ’ …

          [33] Người khác có thể kiêu ngạo; ở đây chúng tôi nguyện không kiêu           ngạo ’ …

          [34] Người khác có thể khó khuyên răn dạy bảo; ở đây chúng tôi sẽ dễ           khuyên răn dạy bảo ’ …

          [35] Người khác có thể có bạn xấu; ở đây chúng tôi có bạn tốt ’ …

          [36] Người khác có thể phóng dật; ở đây chúng tôi không phóng dật ’…

          [37] Người khác có thể không trung thành; ở đây chúng tôi trung thành ’…

          [38] Người khác có thể không biết hổ thẹn; ở đây chúng tôi biết hổ thẹn           ’…

          [39] Người khác có thể không biết sợ hãi khi làm điều ác; ở đây chúng tôi      biết sợ hãi khi làm điều ác ’…

          [40] Người khác có thể ít học hỏi; ở đây chúng tôi học hỏi rất nhiều ’…

          [41] Người khác có thể lười biếng; ở đây chúng tôi siêng năng ’…

          [42] Người khác có thể khôngchánh niệm; ở đây chúng tôi có chánh           niệm ’…

          [43] Người khác có thể ngu si; ở đây chúng tôitrí tuệ ’…

          [44] Người khác có thế dính mắc quan điểm của họ, chấp chặt quan điểm           ấy và khó xả bỏ chúng; ở đây chúng tôi không dính mắc quan điểm của           mình, không chấp chặt quan điểm ấy và dễ dàng xả bỏ chúng.’: đoạn trừ           phiền não cần phải được thực hành như thế.

                              [ Trung BK I, Kinh số 8: Kinh Đoạn Giảm, tr. 100-104]

Page 8

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI

HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI

The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 

An Anthology of Discourses from the Pāli Canon

Chương II. RÈN LUYỆN CÁ NHÂN


3. LOẠI TRỪ NHỮNG CẤU UẾ CỦA TÂM / THANH LỌC TÂM 

[1] Mười sáu loại  cấu uế của tâm.

“ Này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế phiền não của tâm ? Tham dụctham lam bất chánh là một loại phiền não làm cấu uế tâm. Sân hận …giận dữ…thù nghịch…khinh thường… hỗn láo…đố kỵ…keo kiệt…dối trá… lừa gạt…bướng bỉnh…ganh đua… ngã mạn… kiêu căng…hợm hĩnh…phóng dật…là cấu uế của tâm. Biết rằng tham dụctham lam bất chánhcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó. Biết rằng sân hận… phóng dậtcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó.”

                              [ Trung BK I, Kinh số 7: Kinh Ví Dụ Tấm Vải; tr 88]

[2] Hai loại ý niệm

“ Này các Tỷ-kheo, trước khi ta giác ngộ, khi ta còn là Bồ-tát chưa chứng đắc Chánh Giác, ta suy nghĩ như sau: ‘ Ta hãy chia những ý niệm của ta thành hai loại.’ Rồi ta xếp các ý niệm về tham dục, sân hậnđộc hại [dục tầm, sân tầm và hại tầm] vào loại thứ nhất, và ta xếp các ý niệm về ly dục, bao dungvô hại [ ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm] vào loại thứ hai.

“ Rồi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết. Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên, ta hiểu rằng:  ‘Ý niệm bất thiện này đã khởi lên trong ta. Nó sẽ đưa đến tự hại mình, hại người, hại cả hai; nó ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn.’ Khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến tự hại mình’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại người’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại cả  hai’, ý niệm ấy liền tan biến. Khi ta suy xét : ‘Ý niệm này ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn’ ; ý niệm ấy liền tan biến.  Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên trong ta, ta từ bỏ nó, ta đoạn trừ nó, ta xả ly nó.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thưởng xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về tham dục, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  ly dục để nuôi dưỡng ý niệm về tham dục, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về tham dục…  Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về sân hận… ý niệm độc hại, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  vô hại để nuôi dưỡng ý niệm về độc hại, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về độc hại.

“ Cũng giống như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò bằng cách dùng roi đánh và thúc đẩy liên tục vào bên này và bên kia đàn bò để kiểm soát và điều khiển chúng. Vì sao vậy? Bởi vì người mục đồng thấy rằng nếu để cho đàn bò đi lạc vào đồng lúa, anh ta sẽ bị đánh đập, tù tội, phạt vạ hay bị chưởi mắng. Cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, sự thấp kém, sự cấu uế trong các tâm hành bất thiện, và ta đã thấy phước lành của xả ly trong các tâm hành thiện, là một hình thái làm tâm thanh tịnh,

“ Khi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết, một  ý niệm về ly dục, bao dungvô hại khởi lên trong ta. Ta hiểu như như thế này:’ Ý niệm thiện này đã khởi lên trong ta. Ý niệm này không đưa đến hại mình, hại người hoặc hại cả hai; nó giúp tăng trưởng trí tuệ, không gây khó khăn trở ngại, và đưa đến Niết-bàn. Nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ về ý niệm này chỉ một đêm, thậm chí một ngày, thậm chí một đêm và một ngày, ta không có gì phải sợ hãi nó. Nhưng nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ quá nhiều, ta có thể làm cho thân mệt mỏi, và khi thân ta mệt mỏi, tâm có thể bị xáo trộn, và khi tâm bị xáo trộn thì  rất khó định tâm.’ Vì thế ta làm cho nội tâm vững chãi, làm tâm lắng dịu,  làm tâm hợp nhất và định tĩnh. Vì sao vậy ? Để cho tâm khỏi bị xáo trộn.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về xả ly, vị ấy từ bỏ ý niệm về tham dục để phát triển ý niệm về xả ly, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về xả ly. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bao dung..., nghĩ tưởng về vô hại, vị ấy từ bỏ ý niệm độc hại để phát triển ý niệm về vô hại, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về vô hại.

“Cũng giống như vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi tất cả lúa gạo đã được đem cất trong làng, người mục đồng chăn giữ đàn bò trong lúc ngồi dưới gốc cây hay ngồi ngoài trời, vì người ấy chỉ cần chú tâm biết rằng đàn bò đang ở đó; củng vậy, ta cũng chỉ cần chú tâm tỉnh giác biết rằng các tâm hành thiện đang có mặt trong ta.”

                              [ Trung BK, Kinh số 19: Kinh Song Tầm, tr 261-265]

[3] Thực hành “ đoạn trừ phiền não

Thế Tôn dạy: “ Này Cunda, ông cần phải thực hành việc đoạn trừ phiền não [5] như thế này:

          [1] ‘ Người khác có thể gây tổn hại; ở đây chúng tôi nguyện không gây           tổn hại’ : đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [2] ‘ Người khác có thể sát sanh; ở đây chúng tôi nguyện  từ bỏ sát sanh ’:        đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [3] ‘ Người khác có thể lấy của không cho; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           lấy của không cho ’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [4] ‘ Người khác có thể không sống độc thân; ở đây chúng tôi nguyện sẽ           sống độc thân ’…

          [5] ‘ Người khác có thể nói láo; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói láo’....

          [6] ‘ Người khác có thể nói hai lưỡi ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           hai lưỡi’…

          [7] ‘ Người khác có thể nói lời độc ác ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           lời độc ác’...

          [8] ‘ Người khác có thể nói lời phù phiếm ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           nói lời phù phiếm…

          [9] ‘ Người khác có thể tham dục; ở đây chúng tôi nguyện không tham           dục’ ...

          [10] ‘ Người khác có thể sân hận; ở đây chúng tôi nguyện bao dung’ ...

          [11] ‘ Người khác có thể có tà kiến; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           kiến’ ...

          [12] ‘ Người khác có thể có tà tư duy; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tư duy’ ...

          [13] ‘ Người khác có thể có tà ngữ; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           ngữ’ ...

          [14] ‘ Người khác có thể có tà nghiệp; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           nghiệp’ ...

          [15]  ‘ Người khác có thể có tà mạng; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           mạng’ ...

          [16]  ‘ Người khác có thể có tà tinh tấn; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tinh tấn’ ...

          [17]  ‘ Người khác có thể có tà niệm; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           niệm’ ...

          [18] ‘ Người khác có thể có tà định; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           định’ ...

          [19] ‘ Người khác có thể có tà trí; ở đây chúng tôi nguyện có chánh trí’ ...

          [20] ‘ Người khác có thể có tà giải thoát; ở đây chúng tôi nguyện có           chánh giải thoát’ ...

          [21] ‘ Người khác có thể bị dật dờ buồn ngủ chi phối; ở đây chúng tôi           nguyện thoát khỏi dật dờ buồn ngủ’ ...

          [22] ‘ Người khác có thể bị bất an; ở đây chúng tôi nguyện thoát khỏi bất           an’…

          [23] Người khác có thể nghi ngờ; ở đây chúng tôi nguyện không còn nghi   ngờ ’…

          [24] Người khác có thể tức giận; ở đây chúng tôi nguyện không tức           giận’…

          [25] Người khác có thể hung bạo; ở đây chúng tôi nguyện không hung           bạo’…

          [26] ] Người khác có thể khinh thường; ở đây chúng tôi nguyện không           khinh thường’…

          [27] ] Người khác có thể hỗn láo; ở đây chúng tôi nguyện không hỗn           láo’…

          [28] ] Người khác có thể đố kỵ ; ở đây chúng tôi nguyện không đố kỵ ’…

          [29] Người khác có thể keo kiệt; ở đây chúng tôi nguyện không keo kiệt ’         …

          [30] Người khác có thể lường gạt; ở đây chúng tôi nguyện không lường           gạt ’ …

          [31] Người khác có thể dối trá ; ở đây chúng tôi nguyện không dối trá ’           …

          [32] Người khác có thể bướng bỉnh; ở đây chúng tôi nguyện không bướng          bỉnh ’ …

          [33] Người khác có thể kiêu ngạo; ở đây chúng tôi nguyện không kiêu           ngạo ’ …

          [34] Người khác có thể khó khuyên răn dạy bảo; ở đây chúng tôi sẽ dễ           khuyên răn dạy bảo ’ …

          [35] Người khác có thể có bạn xấu; ở đây chúng tôi có bạn tốt ’ …

          [36] Người khác có thể phóng dật; ở đây chúng tôi không phóng dật ’…

          [37] Người khác có thể không trung thành; ở đây chúng tôi trung thành ’…

          [38] Người khác có thể không biết hổ thẹn; ở đây chúng tôi biết hổ thẹn           ’…

          [39] Người khác có thể không biết sợ hãi khi làm điều ác; ở đây chúng tôi      biết sợ hãi khi làm điều ác ’…

          [40] Người khác có thể ít học hỏi; ở đây chúng tôi học hỏi rất nhiều ’…

          [41] Người khác có thể lười biếng; ở đây chúng tôi siêng năng ’…

          [42] Người khác có thể khôngchánh niệm; ở đây chúng tôi có chánh           niệm ’…

          [43] Người khác có thể ngu si; ở đây chúng tôitrí tuệ ’…

          [44] Người khác có thế dính mắc quan điểm của họ, chấp chặt quan điểm           ấy và khó xả bỏ chúng; ở đây chúng tôi không dính mắc quan điểm của           mình, không chấp chặt quan điểm ấy và dễ dàng xả bỏ chúng.’: đoạn trừ           phiền não cần phải được thực hành như thế.

                              [ Trung BK I, Kinh số 8: Kinh Đoạn Giảm, tr. 100-104]

Page 9

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI

HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI

The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 

An Anthology of Discourses from the Pāli Canon

Chương II. RÈN LUYỆN CÁ NHÂN


3. LOẠI TRỪ NHỮNG CẤU UẾ CỦA TÂM / THANH LỌC TÂM 

[1] Mười sáu loại  cấu uế của tâm.

“ Này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế phiền não của tâm ? Tham dụctham lam bất chánh là một loại phiền não làm cấu uế tâm. Sân hận …giận dữ…thù nghịch…khinh thường… hỗn láo…đố kỵ…keo kiệt…dối trá… lừa gạt…bướng bỉnh…ganh đua… ngã mạn… kiêu căng…hợm hĩnh…phóng dật…là cấu uế của tâm. Biết rằng tham dụctham lam bất chánhcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó. Biết rằng sân hận… phóng dậtcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó.”

                              [ Trung BK I, Kinh số 7: Kinh Ví Dụ Tấm Vải; tr 88]

[2] Hai loại ý niệm

“ Này các Tỷ-kheo, trước khi ta giác ngộ, khi ta còn là Bồ-tát chưa chứng đắc Chánh Giác, ta suy nghĩ như sau: ‘ Ta hãy chia những ý niệm của ta thành hai loại.’ Rồi ta xếp các ý niệm về tham dục, sân hậnđộc hại [dục tầm, sân tầm và hại tầm] vào loại thứ nhất, và ta xếp các ý niệm về ly dục, bao dungvô hại [ ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm] vào loại thứ hai.

“ Rồi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết. Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên, ta hiểu rằng:  ‘Ý niệm bất thiện này đã khởi lên trong ta. Nó sẽ đưa đến tự hại mình, hại người, hại cả hai; nó ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn.’ Khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến tự hại mình’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại người’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại cả  hai’, ý niệm ấy liền tan biến. Khi ta suy xét : ‘Ý niệm này ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn’ ; ý niệm ấy liền tan biến.  Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên trong ta, ta từ bỏ nó, ta đoạn trừ nó, ta xả ly nó.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thưởng xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về tham dục, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  ly dục để nuôi dưỡng ý niệm về tham dục, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về tham dục…  Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về sân hận… ý niệm độc hại, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  vô hại để nuôi dưỡng ý niệm về độc hại, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về độc hại.

“ Cũng giống như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò bằng cách dùng roi đánh và thúc đẩy liên tục vào bên này và bên kia đàn bò để kiểm soát và điều khiển chúng. Vì sao vậy? Bởi vì người mục đồng thấy rằng nếu để cho đàn bò đi lạc vào đồng lúa, anh ta sẽ bị đánh đập, tù tội, phạt vạ hay bị chưởi mắng. Cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, sự thấp kém, sự cấu uế trong các tâm hành bất thiện, và ta đã thấy phước lành của xả ly trong các tâm hành thiện, là một hình thái làm tâm thanh tịnh,

“ Khi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết, một  ý niệm về ly dục, bao dungvô hại khởi lên trong ta. Ta hiểu như như thế này:’ Ý niệm thiện này đã khởi lên trong ta. Ý niệm này không đưa đến hại mình, hại người hoặc hại cả hai; nó giúp tăng trưởng trí tuệ, không gây khó khăn trở ngại, và đưa đến Niết-bàn. Nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ về ý niệm này chỉ một đêm, thậm chí một ngày, thậm chí một đêm và một ngày, ta không có gì phải sợ hãi nó. Nhưng nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ quá nhiều, ta có thể làm cho thân mệt mỏi, và khi thân ta mệt mỏi, tâm có thể bị xáo trộn, và khi tâm bị xáo trộn thì  rất khó định tâm.’ Vì thế ta làm cho nội tâm vững chãi, làm tâm lắng dịu,  làm tâm hợp nhất và định tĩnh. Vì sao vậy ? Để cho tâm khỏi bị xáo trộn.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về xả ly, vị ấy từ bỏ ý niệm về tham dục để phát triển ý niệm về xả ly, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về xả ly. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bao dung..., nghĩ tưởng về vô hại, vị ấy từ bỏ ý niệm độc hại để phát triển ý niệm về vô hại, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về vô hại.

“Cũng giống như vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi tất cả lúa gạo đã được đem cất trong làng, người mục đồng chăn giữ đàn bò trong lúc ngồi dưới gốc cây hay ngồi ngoài trời, vì người ấy chỉ cần chú tâm biết rằng đàn bò đang ở đó; củng vậy, ta cũng chỉ cần chú tâm tỉnh giác biết rằng các tâm hành thiện đang có mặt trong ta.”

                              [ Trung BK, Kinh số 19: Kinh Song Tầm, tr 261-265]

[3] Thực hành “ đoạn trừ phiền não

Thế Tôn dạy: “ Này Cunda, ông cần phải thực hành việc đoạn trừ phiền não [5] như thế này:

          [1] ‘ Người khác có thể gây tổn hại; ở đây chúng tôi nguyện không gây           tổn hại’ : đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [2] ‘ Người khác có thể sát sanh; ở đây chúng tôi nguyện  từ bỏ sát sanh ’:        đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [3] ‘ Người khác có thể lấy của không cho; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           lấy của không cho ’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [4] ‘ Người khác có thể không sống độc thân; ở đây chúng tôi nguyện sẽ           sống độc thân ’…

          [5] ‘ Người khác có thể nói láo; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói láo’....

          [6] ‘ Người khác có thể nói hai lưỡi ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           hai lưỡi’…

          [7] ‘ Người khác có thể nói lời độc ác ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           lời độc ác’...

          [8] ‘ Người khác có thể nói lời phù phiếm ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           nói lời phù phiếm…

          [9] ‘ Người khác có thể tham dục; ở đây chúng tôi nguyện không tham           dục’ ...

          [10] ‘ Người khác có thể sân hận; ở đây chúng tôi nguyện bao dung’ ...

          [11] ‘ Người khác có thể có tà kiến; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           kiến’ ...

          [12] ‘ Người khác có thể có tà tư duy; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tư duy’ ...

          [13] ‘ Người khác có thể có tà ngữ; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           ngữ’ ...

          [14] ‘ Người khác có thể có tà nghiệp; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           nghiệp’ ...

          [15]  ‘ Người khác có thể có tà mạng; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           mạng’ ...

          [16]  ‘ Người khác có thể có tà tinh tấn; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tinh tấn’ ...

          [17]  ‘ Người khác có thể có tà niệm; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           niệm’ ...

          [18] ‘ Người khác có thể có tà định; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           định’ ...

          [19] ‘ Người khác có thể có tà trí; ở đây chúng tôi nguyện có chánh trí’ ...

          [20] ‘ Người khác có thể có tà giải thoát; ở đây chúng tôi nguyện có           chánh giải thoát’ ...

          [21] ‘ Người khác có thể bị dật dờ buồn ngủ chi phối; ở đây chúng tôi           nguyện thoát khỏi dật dờ buồn ngủ’ ...

          [22] ‘ Người khác có thể bị bất an; ở đây chúng tôi nguyện thoát khỏi bất           an’…

          [23] Người khác có thể nghi ngờ; ở đây chúng tôi nguyện không còn nghi   ngờ ’…

          [24] Người khác có thể tức giận; ở đây chúng tôi nguyện không tức           giận’…

          [25] Người khác có thể hung bạo; ở đây chúng tôi nguyện không hung           bạo’…

          [26] ] Người khác có thể khinh thường; ở đây chúng tôi nguyện không           khinh thường’…

          [27] ] Người khác có thể hỗn láo; ở đây chúng tôi nguyện không hỗn           láo’…

          [28] ] Người khác có thể đố kỵ ; ở đây chúng tôi nguyện không đố kỵ ’…

          [29] Người khác có thể keo kiệt; ở đây chúng tôi nguyện không keo kiệt ’         …

          [30] Người khác có thể lường gạt; ở đây chúng tôi nguyện không lường           gạt ’ …

          [31] Người khác có thể dối trá ; ở đây chúng tôi nguyện không dối trá ’           …

          [32] Người khác có thể bướng bỉnh; ở đây chúng tôi nguyện không bướng          bỉnh ’ …

          [33] Người khác có thể kiêu ngạo; ở đây chúng tôi nguyện không kiêu           ngạo ’ …

          [34] Người khác có thể khó khuyên răn dạy bảo; ở đây chúng tôi sẽ dễ           khuyên răn dạy bảo ’ …

          [35] Người khác có thể có bạn xấu; ở đây chúng tôi có bạn tốt ’ …

          [36] Người khác có thể phóng dật; ở đây chúng tôi không phóng dật ’…

          [37] Người khác có thể không trung thành; ở đây chúng tôi trung thành ’…

          [38] Người khác có thể không biết hổ thẹn; ở đây chúng tôi biết hổ thẹn           ’…

          [39] Người khác có thể không biết sợ hãi khi làm điều ác; ở đây chúng tôi      biết sợ hãi khi làm điều ác ’…

          [40] Người khác có thể ít học hỏi; ở đây chúng tôi học hỏi rất nhiều ’…

          [41] Người khác có thể lười biếng; ở đây chúng tôi siêng năng ’…

          [42] Người khác có thể khôngchánh niệm; ở đây chúng tôi có chánh           niệm ’…

          [43] Người khác có thể ngu si; ở đây chúng tôitrí tuệ ’…

          [44] Người khác có thế dính mắc quan điểm của họ, chấp chặt quan điểm           ấy và khó xả bỏ chúng; ở đây chúng tôi không dính mắc quan điểm của           mình, không chấp chặt quan điểm ấy và dễ dàng xả bỏ chúng.’: đoạn trừ           phiền não cần phải được thực hành như thế.

                              [ Trung BK I, Kinh số 8: Kinh Đoạn Giảm, tr. 100-104]

Page 10

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI

HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI

The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 

An Anthology of Discourses from the Pāli Canon

Chương II. RÈN LUYỆN CÁ NHÂN


3. LOẠI TRỪ NHỮNG CẤU UẾ CỦA TÂM / THANH LỌC TÂM 

[1] Mười sáu loại  cấu uế của tâm.

“ Này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế phiền não của tâm ? Tham dụctham lam bất chánh là một loại phiền não làm cấu uế tâm. Sân hận …giận dữ…thù nghịch…khinh thường… hỗn láo…đố kỵ…keo kiệt…dối trá… lừa gạt…bướng bỉnh…ganh đua… ngã mạn… kiêu căng…hợm hĩnh…phóng dật…là cấu uế của tâm. Biết rằng tham dụctham lam bất chánhcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó. Biết rằng sân hận… phóng dậtcấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó.”

                              [ Trung BK I, Kinh số 7: Kinh Ví Dụ Tấm Vải; tr 88]

[2] Hai loại ý niệm

“ Này các Tỷ-kheo, trước khi ta giác ngộ, khi ta còn là Bồ-tát chưa chứng đắc Chánh Giác, ta suy nghĩ như sau: ‘ Ta hãy chia những ý niệm của ta thành hai loại.’ Rồi ta xếp các ý niệm về tham dục, sân hậnđộc hại [dục tầm, sân tầm và hại tầm] vào loại thứ nhất, và ta xếp các ý niệm về ly dục, bao dungvô hại [ ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm] vào loại thứ hai.

“ Rồi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết. Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên, ta hiểu rằng:  ‘Ý niệm bất thiện này đã khởi lên trong ta. Nó sẽ đưa đến tự hại mình, hại người, hại cả hai; nó ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn.’ Khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến tự hại mình’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại người’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại cả  hai’, ý niệm ấy liền tan biến. Khi ta suy xét : ‘Ý niệm này ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn’ ; ý niệm ấy liền tan biến.  Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên trong ta, ta từ bỏ nó, ta đoạn trừ nó, ta xả ly nó.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thưởng xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về tham dục, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  ly dục để nuôi dưỡng ý niệm về tham dục, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về tham dục…  Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về sân hận… ý niệm độc hại, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  vô hại để nuôi dưỡng ý niệm về độc hại, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về độc hại.

“ Cũng giống như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò bằng cách dùng roi đánh và thúc đẩy liên tục vào bên này và bên kia đàn bò để kiểm soát và điều khiển chúng. Vì sao vậy? Bởi vì người mục đồng thấy rằng nếu để cho đàn bò đi lạc vào đồng lúa, anh ta sẽ bị đánh đập, tù tội, phạt vạ hay bị chưởi mắng. Cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, sự thấp kém, sự cấu uế trong các tâm hành bất thiện, và ta đã thấy phước lành của xả ly trong các tâm hành thiện, là một hình thái làm tâm thanh tịnh,

“ Khi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết, một  ý niệm về ly dục, bao dungvô hại khởi lên trong ta. Ta hiểu như như thế này:’ Ý niệm thiện này đã khởi lên trong ta. Ý niệm này không đưa đến hại mình, hại người hoặc hại cả hai; nó giúp tăng trưởng trí tuệ, không gây khó khăn trở ngại, và đưa đến Niết-bàn. Nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ về ý niệm này chỉ một đêm, thậm chí một ngày, thậm chí một đêm và một ngày, ta không có gì phải sợ hãi nó. Nhưng nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ quá nhiều, ta có thể làm cho thân mệt mỏi, và khi thân ta mệt mỏi, tâm có thể bị xáo trộn, và khi tâm bị xáo trộn thì  rất khó định tâm.’ Vì thế ta làm cho nội tâm vững chãi, làm tâm lắng dịu,  làm tâm hợp nhất và định tĩnh. Vì sao vậy ? Để cho tâm khỏi bị xáo trộn.

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về xả ly, vị ấy từ bỏ ý niệm về tham dục để phát triển ý niệm về xả ly, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về xả ly. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bao dung..., nghĩ tưởng về vô hại, vị ấy từ bỏ ý niệm độc hại để phát triển ý niệm về vô hại, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về vô hại.

“Cũng giống như vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi tất cả lúa gạo đã được đem cất trong làng, người mục đồng chăn giữ đàn bò trong lúc ngồi dưới gốc cây hay ngồi ngoài trời, vì người ấy chỉ cần chú tâm biết rằng đàn bò đang ở đó; củng vậy, ta cũng chỉ cần chú tâm tỉnh giác biết rằng các tâm hành thiện đang có mặt trong ta.”

                              [ Trung BK, Kinh số 19: Kinh Song Tầm, tr 261-265]

[3] Thực hành “ đoạn trừ phiền não

Thế Tôn dạy: “ Này Cunda, ông cần phải thực hành việc đoạn trừ phiền não [5] như thế này:

          [1] ‘ Người khác có thể gây tổn hại; ở đây chúng tôi nguyện không gây           tổn hại’ : đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [2] ‘ Người khác có thể sát sanh; ở đây chúng tôi nguyện  từ bỏ sát sanh ’:        đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [3] ‘ Người khác có thể lấy của không cho; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           lấy của không cho ’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          [4] ‘ Người khác có thể không sống độc thân; ở đây chúng tôi nguyện sẽ           sống độc thân ’…

          [5] ‘ Người khác có thể nói láo; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói láo’....

          [6] ‘ Người khác có thể nói hai lưỡi ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           hai lưỡi’…

          [7] ‘ Người khác có thể nói lời độc ác ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           lời độc ác’...

          [8] ‘ Người khác có thể nói lời phù phiếm ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           nói lời phù phiếm…

          [9] ‘ Người khác có thể tham dục; ở đây chúng tôi nguyện không tham           dục’ ...

          [10] ‘ Người khác có thể sân hận; ở đây chúng tôi nguyện bao dung’ ...

          [11] ‘ Người khác có thể có tà kiến; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           kiến’ ...

          [12] ‘ Người khác có thể có tà tư duy; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tư duy’ ...

          [13] ‘ Người khác có thể có tà ngữ; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           ngữ’ ...

          [14] ‘ Người khác có thể có tà nghiệp; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           nghiệp’ ...

          [15]  ‘ Người khác có thể có tà mạng; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           mạng’ ...

          [16]  ‘ Người khác có thể có tà tinh tấn; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tinh tấn’ ...

          [17]  ‘ Người khác có thể có tà niệm; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           niệm’ ...

          [18] ‘ Người khác có thể có tà định; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           định’ ...

          [19] ‘ Người khác có thể có tà trí; ở đây chúng tôi nguyện có chánh trí’ ...

          [20] ‘ Người khác có thể có tà giải thoát; ở đây chúng tôi nguyện có           chánh giải thoát’ ...

          [21] ‘ Người khác có thể bị dật dờ buồn ngủ chi phối; ở đây chúng tôi           nguyện thoát khỏi dật dờ buồn ngủ’ ...

          [22] ‘ Người khác có thể bị bất an; ở đây chúng tôi nguyện thoát khỏi bất           an’…

          [23] Người khác có thể nghi ngờ; ở đây chúng tôi nguyện không còn nghi   ngờ ’…

          [24] Người khác có thể tức giận; ở đây chúng tôi nguyện không tức           giận’…

          [25] Người khác có thể hung bạo; ở đây chúng tôi nguyện không hung           bạo’…

          [26] ] Người khác có thể khinh thường; ở đây chúng tôi nguyện không           khinh thường’…

          [27] ] Người khác có thể hỗn láo; ở đây chúng tôi nguyện không hỗn           láo’…

          [28] ] Người khác có thể đố kỵ ; ở đây chúng tôi nguyện không đố kỵ ’…

          [29] Người khác có thể keo kiệt; ở đây chúng tôi nguyện không keo kiệt ’         …

          [30] Người khác có thể lường gạt; ở đây chúng tôi nguyện không lường           gạt ’ …

          [31] Người khác có thể dối trá ; ở đây chúng tôi nguyện không dối trá ’           …

          [32] Người khác có thể bướng bỉnh; ở đây chúng tôi nguyện không bướng          bỉnh ’ …

          [33] Người khác có thể kiêu ngạo; ở đây chúng tôi nguyện không kiêu           ngạo ’ …

          [34] Người khác có thể khó khuyên răn dạy bảo; ở đây chúng tôi sẽ dễ           khuyên răn dạy bảo ’ …

          [35] Người khác có thể có bạn xấu; ở đây chúng tôi có bạn tốt ’ …

          [36] Người khác có thể phóng dật; ở đây chúng tôi không phóng dật ’…

          [37] Người khác có thể không trung thành; ở đây chúng tôi trung thành ’…

          [38] Người khác có thể không biết hổ thẹn; ở đây chúng tôi biết hổ thẹn           ’…

          [39] Người khác có thể không biết sợ hãi khi làm điều ác; ở đây chúng tôi      biết sợ hãi khi làm điều ác ’…

          [40] Người khác có thể ít học hỏi; ở đây chúng tôi học hỏi rất nhiều ’…

          [41] Người khác có thể lười biếng; ở đây chúng tôi siêng năng ’…

          [42] Người khác có thể khôngchánh niệm; ở đây chúng tôi có chánh           niệm ’…

          [43] Người khác có thể ngu si; ở đây chúng tôitrí tuệ ’…

          [44] Người khác có thế dính mắc quan điểm của họ, chấp chặt quan điểm           ấy và khó xả bỏ chúng; ở đây chúng tôi không dính mắc quan điểm của           mình, không chấp chặt quan điểm ấy và dễ dàng xả bỏ chúng.’: đoạn trừ           phiền não cần phải được thực hành như thế.

                              [ Trung BK I, Kinh số 8: Kinh Đoạn Giảm, tr. 100-104]

Video liên quan

Chủ Đề