Con yêu giờ đây con đang ở năm cuối trung học

Giới thiệu về cuốn sách này

Page 2

Giới thiệu về cuốn sách này

Sáng 7/7, thí sinh làm bài thi môn Ngữ văn. Đề thi yêu cầu thí sinh phân tích vẻ đẹp trữ tình của người con gái trong bài thơ "Sóng" của Xuân Quỳnh.

Thí sinh bay bổng với đề thi 'Sóng' của Xuân Quỳnh Thạc sĩ Phạm Thị Thanh Nga [giáo viên THCS&THPT Lương Thế Vinh] cho rằng đề thi không gây bất ngờ, có tính thực tiễn và phát huy được tính sáng tạo của thí sinh.

Bài giải môn Ngữ văn do thạc sĩ Phạm Thị Thanh Nga và thạc sĩ Nguyễn Phú Hải, giáo viên THCS&THPT Lương Thế Vinh, Hà Nội, thực hiện.

Giáo viên gợi ý đáp án đề thi tốt nghiệp THPT. Ảnh: Hoàng Hiệp.

Phần I: Đọc hiểu

Câu 1: Sự ra đời của dòng sông diễn ra như sau: “Từ những kẽ hở trên mặt đất, nước trào lên mát lạnh và trong lành. Từ một dòng nước nhỏ, nước hòa với nước tươi mát rơi từ trên trời và nước thấm vào đất để tạo nên một dòng suối nhỏ cứ chảy mãi xuống cho tới khi một dòng sông ra đời”.

Câu 2. "Món quà cuối cùng" nước dành tặng cho loài người trước khi hòa vào biển cả: "Những vùng nông nghiệp vĩ đại nhất trên thế giới".

Câu 3: Dòng chảy của nước và cuộc sống con người có mối quan hệ mật thiết với nhau:

- Dòng chảy của nước có nhiều thay đổi cũng giống như cuộc đời con người có nhiều thăng trầm, biến động.

- Dòng chảy của nước gắn bó mật thiết với đời cuộc sống con người: Chứng kiến lũ trẻ chơi đùa trong công viên, chứng kiến người cha cùng cậu con trai nhỏ chơi bắt bóng.

- Gợi suy nghĩ về mối quan hệ giữa cái biến đổi và cái không thay đổi, giữa cái vĩnh hằng và cái tạm thời.

Câu 4: Hành trình từ sông ra biển của nước là hành trình dài, đầy gian khổ, từ đó gợi những bài học sau về lẽ sống:

- Sống phải biết cống hiến

- Sống phải có khát vọng, ước mơ, hoài bão, lý tưởng cao đẹp

- Cuộc sống cần có trải nghiệm, vì thế con người cần dũng cảm đối diện với khó khăn, thử thách để trưởng thành.

Phần II: Làm văn

Câu 1: Đề nghị luận xã hội bàn về sự cống hiến

- Cống hiến là đóng góp những phần cao quý của cá nhân/ cá thể cho sự nghiệp chung của tập thể, của cộng đồng xã hội. Cống hiến có thể biểu hiện qua những đóng góp về mặt vật chất và tinh thần. Sự cống hiến không chỉ biểu hiện ở những điều lớn lao mà còn ở những điều bé nhỏ, giản đơn trong cuộc sống

- Sống cống hiến là điều cần thiết, bởi vì:

+ Giúp cho mỗi người trở nên vị tha, bao dung, dễ đồng cảm, sẻ chia với người khác. Người cống hiến cho xã hội sẽ được những người xung quanh nể trọng, đánh giá cao. Chính sự cống hiến là động lực, điểm tựa để thôi thúc con người vượt qua khó khăn trở ngại, những thử thách thăng trầm trong cuộc sống để đóng góp nhiều hơn cho cộng đồng, xã hội

+ Sống cống hiến góp phần hàn gắn, gắn kết các mối quan hệ trong gia đình, xã hội, giúp cho gia đình, xã hội thêm bền vững, tiến bộ, phát triển hơn

- Phê phán những lối sống ích kỷ, tầm thường, đề cao lợi ích cá nhân mà bỏ qua lợi ích tập thể, cộng đồng, cũng như những người "cống hiến" vì sự háo danh, vụ lợi và toan tính cá nhân

- Học sinh liên hệ bản thân, rút ra bài học về nhận thức và hành động: Để có thể cống hiến, mỗi người cần xác lập cho mình lý tưởng, mục tiêu, lối sống lành mạnh, cao đẹp, đúng đắn, văn minh, cần bồi dưỡng đời sống tâm hồn, tình cảm trong sáng, vô tư, chân thành, và cũng cần có kỹ năng sống để sự cống hiến thực sự có ý nghĩa, trở thành nghĩa cử cao đẹp. Tuy nhiên, con người cần biết xử lý hài hòa mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung, giữa quyền lợi cá nhân và lợi ích tập thể...

Câu 2: Đảm bảo xác định đúng vấn đề cần nghị luận:

- Cảm nhận về đoạn thơ

- Từ đó, nhận xét về vẻ đẹp nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh

Triển khai vấn đề nghị luận:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích:

+ Tác giả Xuân Quỳnh: Là nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ bà là tiếng lòng của tâm hồn phụ nữ giàu lòng trắc ẩn, luôn da diết trong khát vọng về tình yêu và hạnh phúc đời thường.

+ Tác phẩm: Hoàn cảnh ra đời: "Sóng" được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế về vùng biển Diêm Điền, Thái Bình, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra gian khổ, ác liệt. Bài thơ được in trong tập thơ "Hoa dọc chiến hào".

+ Đoạn trích nằm ở phần giữa của bài thơ, cho thấy những băn khoăn, trăn trở về cội nguồn của tình yêu cũng như nỗi nhớ mong da diết khắc khoải của người phụ nữ khi yêu. Đây là một đoạn thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh

Phân tích nội dung:

- Khổ đầu đoạn trích: "Trước muôn trùng sóng bể/ Em nghĩ về anh, em/ Em nghĩ về biển lớn/ Từ khi nào sóng lên". Nhân vật trữ tình "em" suy ngẫm về nguồn gốc của "Sóng" cũng là đi tìm nguồn gốc về tình yêu.

- Khổ giữa đoạn trích: "Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu? Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau". Nhân vật trữ tình "em" cắt nghĩa, lý giải cội nguồn của "sóng" cũng như của tình yêu, qua đó cho thấy cội nguồn của tình yêu cũng như sóng mơ hồ, bí ẩn, không thể lý giải bằng lý trí thông thường

- Khổ cuối đoạn trích: "Con sóng dưới lòng sâu/ Con sóng trên mặt nước/ Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức". Nhân vật trữ tình "em" bộc lộ nỗi nhớ của mình qua hình thức trực tiếp và gián tiếp

+ Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: “lòng sâu - mặt nước, ngày – đêm”.

+ Nỗi nhớ thường trực, không chỉ tồn tại khi thức mà cả khi ngủ, len lỏi cả vào trong mơ, trong vô thức, tiềm thức [“cả trong mơ còn thức”]. Lời thơ còn phảng phất nỗi âu lo, phấp phỏng của người phụ nữ về sự mong manh, dễ đổi thay của tình yêu.

+ Cách nói cường điệu nhưng đúng và chân thành biểu hiện nỗi nhớ một tình yêu mãnh liệt [“Ngày đêm không ngủ được”].

+ Mượn hình tượng sóng để nói lên nỗi nhớ vẫn chưa đủ, chưa thỏa, nhà thơ trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ của mình [“Lòng em nhớ đến anh”]

Như vậy, qua hình tượng sóng, nhân vật trữ tình bộc lộ nỗi nhớ: da diết, khắc khoải; bao trùm lên không gian, thời gian; hiện hữu trong ý thức lẫn tiềm thức.

Nhận xét về vẻ đẹp nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh:

+ Đó là vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ có sự kết hợp giữa chất truyền thống và tính hiện đại. Người phụ nữ trong thơ vừa đằm thắm, dịu dàng, hồn hậu, thủy chung, vừa táo bạo, mãnh liệt, cháy bỏng, luôn vững tin vào sức mạnh của tình yêu. Điều này góp phần tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ của thơ Xuân Quỳnh khi viết về một đề tài tình yêu phổ biến, quen thuộc

+ Từ những cung bậc cảm xúc của tình yêu, và cách nhà thơ lý giải về tình yêu, người đọc nhận ra vẻ đẹp nữ tính cũng chính là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, hồn hậu, nhạy cảm, luôn da diết trong khát vọng về tình yêu và hạnh phúc đời thường

Đánh giá chung:

+ Đoạn thơ có cặp hình tượng song hành, chuyển hoá lẫn nhau là “sóng” và “em”. “Sóng” vừa là hình tượng vừa là biểu tượng cho tâm hồn và tình yêu của người phụ nữ.

+ Thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp, phối âm tạo nên nhịp điệu khi khoan hoà khi dồn dập; ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên, giàu xúc cảm và được tổ chức theo lối hô ứng, song hành tạo nên liên tưởng về những con sóng trùng điệp miên man; giọng điệu vừa tha thiết vừa sâu lắng, ...

+ Các biện pháp ẩn dụ, nhân hóa, đối lập, câu hỏi tu từ và điệp từ, điệp cú pháp góp phần tạo nên nhịp điệu nồng nàn, say đắm, thích hợp cho việc diễn tả nỗi trăn trở băn khoăn, nỗi nhớ mãnh liệt: “Em nghĩ về biển lớn/ Em nghĩ về anh, em”, “con sóng” [ba lần], “dưới lòng sâu - trên mặt nước”…

+ Ba khổ thơ trên đã thể hiện những băn khoăn, trăn trở của người phụ nữ về cội nguồn của tình yêu cũng như nỗi nhớ thiết tha, mãnh liệt của họ khi yêu, góp phần làm rõ hơn những nét đặc sắc của phong cách thơ Xuân Quỳnh.

Thứ trưởng GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc kiểm tra công tác thi tại TP.HCM Sáng 7/7, Thứ trưởng GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc và Phó giám đốc Sở GD&ĐT TP.HCM kiểm tra công tác tổ chức thi tại điểm trường THPT Trưng Vương [quận 1, TP.HCM].

Vừa qua Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố đề tham khảo các môn thi/bài thi có trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2022.

Đề tham khảo giúp học sinh và giáo viên nắm được cấu trúc đề thi theo ma trận đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định theo các mức độ như nhận biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng cao.

Về hình thức, khác với những môn như Toán, Ngoại ngữ [chọn một trong số 7 ngoại ngữ], tổ hợp Khoa học tự nhiên, tổ hợp Khoa học xã hội thi dưới dạng trắc nghiệm khách quan thì môn Ngữ văn thi dưới dạng tự luận.

Đề thi tham khảo môn Ngữ văn

Dưới đây là gợi ý đáp án đề tham khảo môn Ngữ văn do các giáo viên tại Hệ thống giáo dục HOCMAI thực hiện, thí sinh có thể tham khảo.

PHẦN I. ĐỌC HIỂU

Câu 1. Đoạn trích được viết theo: Thể thơ tự do.

Câu 2. Theo đoạn trích, sông Hồng đã để lại “bãi mới của sông xanh ngát”, “đất đai lấn dần ra biển”, “tâm hồn đằm thắm phù sa”, “dâng yêu thương đỏ rực đôi bờ” trước khi về với biển.

Câu 3. Những dòng thơ giúp chúng ta hiểu thêm về vai trò của sông Hồng đối với đời sống con người Việt Nam:

Con sông Hồng là hình ảnh quen thuộc đối với đời sống của mỗi người dân Việt Nam trên cả khía cạnh vật chất và tinh thần: “con sông rì rầm sóng vỗ”.

Con sông Hồng là cảm hứng, chất liệu và dần trở thành biểu tượng trong văn học: “trong muôn vàn trang thơ”.

Con sông tạo nên bến bờ, góp phần hình thành nên cộng đồng người Việt: “làm nên xóm thôn”, “những ngôi nhà”.

Sông Hồng nuôi lớn con người: làm nên “hoa trái”, “sắc áo”, “màu cây”…

Con sông như một điểm tựa trong tâm hồn con người, nuôi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước: “ngôi nhà”, “sắc áo”, “tiếng Việt”.

Con sông Hồng như một cá thể sống, đi từ thiên nhiên vào đời sống con người, tâm thức, tâm hồn người Việt. Con sông là biểu tượng cho những giá trị về con người và mảnh đất Việt Nam.

Câu 4. Đây là một câu hỏi mở. Học sinh nêu cách hiểu của cá nhân. Cần lý giải thuyết phục, hợp lý. Sau đây là gợi ý:

Câu thơ “máu ta mang sắc đỏ sông Hồng” khiến độc giả đồng thời liên tưởng tới lời khẳng định người Việt “máu đỏ da vàng” và màu sắc của con sông liên quan tới yếu tố địa lý: sông Hồng tạo nên vùng đồng bằng màu mỡ, bồi đắp phù sa từ hàng ngàn năm.

Câu thơ khẳng định vai trò của sông Hồng đối với con người: vừa tạo nên đời sống vật chất, nuôi sống thể xác của con người, vừa nuôi dưỡng đời sống tinh thần, chứa đựng toàn bộ “phần hồn” của người Việt.

Con người sinh ra, lớn lên rồi lại hóa mình vào sông núi, bao thế hệ người Việt đều đã nhìn con sông từ đôi mắt trẻ thơ háo hức, tới những chiêm nghiệm trưởng thành…

Con sông như một chứng nhân lịch sử, chứng kiến những biến động của mỗi con người, của mỗi thôn xóm rồi của cả đất nước. Dòng sông chứng kiến những nỗi đau của con người khi đi qua bao cuộc chiến, niềm vui thường nhật tới ngày vui toàn dân tộc…

Con sông lưu giữ mọi kí ức của con người, mảnh đất… và dần dần, nó trở thành một phần không thể thiếu trong con người, từ một con sông tự nhiên đã trở thành một người bạn, một người tri kỷ với con người.

Dòng chảy của sông Hồng bất tận như những giá trị tốt đẹp của người Việt sẽ được làm dày lên mãi, mỗi thế hệ lại vun đắp nó, tiếp nối truyền thống và tạo nên những giá trị mới như con sông mãi đỏ nặng phù sa.

Hình ảnh sông Hồng vừa quen thuộc, gần gũi vừa có gì đó khó hiểu, khó nắm bắt như những giá trị văn hóa của người Việt: thân quen tới từng hơi thở nhưng không bao giờ có thể hiểu được hết các tầng ý nghĩa.

Con sông gắn bó trên mọi khía cạnh của đời sống, con người Việt Nam.

PHẦN II. LÀM VĂN

Câu 1: [2,0 điểm]

Đề bài: Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn [khoảng 200 chữ] trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết phải trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

1. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn [0,25 điểm]

-Đảm bảo hình thức của một đoạn văn [khoảng 200 chữ].

-Có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng-phân-hợp, móc xích hoặc song hành.

2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận [0,25 điểm]

Sự cần thiết phải trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

3. Triển khai vấn đề nghị luận [1,0 điểm]

Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ sự cần thiết phải trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Có thể theo hướng sau:

* Giải thích

Văn hóa là tất cả những yếu tố vật chất và tinh thần mà con người tạo ra, thể hiện những giá trị đặc trưng cho một nhóm người, cộng đồng, xã hội, được cộng đồng đó chấp nhận, sử dụng và gìn giữ nó theo thời gian.

Văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành trong đời sống và phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, là một chỉnh thể đồ sộ, phong phú bao gồm tri thức, tư tưởng, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, tập quán,…

Trân trọng những giá trị văn hóa dân tộc là trân trọng những giá trị tinh thần tốt đẹp đã được hình thành và lưu truyền từ xa xưa đến ngày nay.

Khẳng định vai trò, sự cần thiết của việc phải trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

* Bình luận

Văn hóa truyền thống của dân tộc gần gũi với mọi hoạt động đời sống: tồn tại trong cuộc sống thường ngày, thể hiện trong quan điểm về định hình tính cách của con người, hình thành nên tư duy nhìn nhận, đánh giá về những vấn đề trong đời sống…

Giữ gìn văn hóa truyền thống việc làm cần thiết của mỗi cá nhân vì:

+ Góp phần tạo nên một thước đo giá trị, phát triển của mỗi cá nhân.

+ Giúp con người gắn bó hơn với cộng đồng, quê hương, đất nước…

+ Hình thành nên những nhận thức, tri thức về lối sống, tư tưởng, quan điểm thẩm mỹ…

+ Thúc đẩy nhu cầu xây dựng một xã hội văn minh, phát triển.

Nếu chúng ta không biết trân trọng giá trị văn hóa truyền thống dân tộc:

+Con người dần rời xa nguồn cội, trở nên lạc lõng, mất định hướng trong việc hình thành các giá trị về mặt đạo đức, lối sống… của bản thân.

+Tâm hồn mỗi người sẽ trở nên khô khan, vốn kiến thức về cuộc sống sẽ bị hạn hẹp, dẫn tới những nhận thức lệch lạc, không đúng đắn.

+Một xã hội không giữ gìn được văn hóa, không giữ gìn được những điều tốt đẹp cha ông để lại sẽ là một xã hội trống rỗng, không thể phát triển lâu bền nếu quên mất đi nguồn cội tốt đẹp của mình.

-Để giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc, cần:

+Ý thức tự giác của mỗi cá nhân. Mỗi người dân, từ người già đến trẻ nhỏ, đều cần ý thức được vai trò to lớn của bản sắc văn hóa dân tộc. Từ đó, biết bảo vệ, giữ gìn chúng không bị mai một đi theo thời gian.

+Cần phải có sự vào cuộc của chính quyền. Nhà nước cần đầu tư thêm vào những sản phẩm văn hóa thuộc về vật chất cũng như bảo vệ những sản phẩm văn hóa thuộc về tinh thần.

+Việc giữ truyền thống văn hóa có thể đến từ những hành động nhỏ bé: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, mặc áo dài trong những ngày lễ lớn của đất nước,…

Hiện nay, nhiều người, nhất là những người trẻ đang dần quên mất những giá trị văn hóa tốt đẹp [ví dụ: không biết cách cư xử có văn hóa, sử dụng những từ ngữ, cách nói, cách viết làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt,...].

Nhiều nền văn hóa khác nhau đã và đang du nhập vào Việt Nam khiến nhiều bạn trẻ bị ảnh hưởng nặng nề, dẫn đến những hành động quá mức, thậm chí là lệch lạc, sai trái [sính ngoại, sống quá “thoáng”, đua đòi,...].

Việc tiếp thu những văn hóa mới lạ là điều cần thiết, tuy nhiên hơn tất cả phải giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc, không được để mất đi những giá trị tốt đẹp của cha ông để lại, nhất là trong bối cảnh hiện nay, có rất nhiều những mối đe dọa đang rình rập xung quanh ta.

* Liên hệ, mở rộng

Liên hệ đến nhận nhận thức và hành động của bản thân về sự cần thiết phải trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Gợi ý:

Phân biệt những giá trị truyền thống cần gìn giữ và những hủ tục, thói quen đã không còn phù hợp để loại bỏ.

Giữ gìn văn hóa là trách nhiệm của cả cộng đồng, bên cạnh bảo tồn còn phải chắt lọc, phát huy và tiếp tục hình thành những giá trị mới.

Nhìn nhận văn hóa như một đối tượng liên tục vận động, gắn với mọi vấn đề của đời sống để tìm hiểu và thực hành.

4. Chính tả, ngữ pháp [0,25 điểm]

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt.

5. Sáng tạo [0,25 điểm] Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Câu 2. [5,0 điểm]

1. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận [0,25 điểm]

Mở bài giới thiệu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.

2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận [0,5 điểm]

Tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích; tư tưởng nhân đạo của nhà văn Kim Lân được thể hiện trong đoạn trích.

3. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

a. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích và nhân vật bà cụ Tứ. [0,5 điểm]

-Đoạn trích nằm trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.

-Nội dung đoạn trích là cuộc gặp gỡ của bà cụ Tứ với thị - người phụ nữ theo con trai bà về làm vợ mà không cần cưới hỏi.

b. Triển khai hệ thống luận điểm [3,5 điểm]

* Tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích

Khác với tâm trạng đón nhận người vợ mới của Tràng, trong bà cụ Tứ đan xen nhiều cảm xúc phức tạp, không thể nói nên lời [cúi đầu im lặng chứa đựng nhiều tâm sự].

Phân tích diễn biến tâm trạng:

+Lo lắng: Niềm vui chưa kịp nhen nhóm, người mẹ đã phải đối mặt với những vấn đề đặt ra sau hạnh phúc của con. Đó cũng là nỗi niềm của tất cả những người đang trong nạn đói. Họ có chung một sự băn khoăn: “Biết có nuôi nổi nhau…không?” [“dòng nước mắt” của bà cụ Tứ].

+Tình thương với nàng dâu mới: Cái nhìn của bà lão chuyển sang người con dâu mới, thể hiện sự chia sẻ, đồng cảm với thị: “Người ta…lo cho hết được” biết ơn vì trong hoàn cảnh đặc biệt, con bà lại có vợ, bà lão yên tâm, thanh thản lúc về già; đón nhận con dâu bằng tấm lòng của người mẹ nghèo khổ [hai chữ “mừng lòng”]. Người đọc có thể cảm nhận được niềm vui, sự lo lắng, cay đắng xót xa cho phận mình, con mình trong tương lai.

+Động viên, an ủi các con: Bà cụ Tứ chia sẻ với thị gia cảnh, cùng con tìm động lực sống: Hai lần nhắc “Nhà ta thì nghèo con ạ”. Bà cùng con tìm động lực sống: hướng tới tương lai, bà lão trở thành điểm tựa tinh thần cho các con: “Vợ chồng… về sau.” [“ai giàu ba họ, ai khó ba đời”].

* Tư tưởng nhân đạo của nhà văn Kim Lân được thể hiện trong đoạn trích

Ngòi bút ở giữa ranh giới hiện thực và nhân đạo:

Một mặt tạo niềm tin cho nhân vật trong cảnh khốn cùng, mặt khác nhắc lại hiện thực như để nhắc nhở người trong cuộc phải cố gắng vươn lên.

Sự ảm đạm của cái đói vẫn đeo bám tâm trí bà lão, người mẹ nghèo chưa thể thoát khỏi bóng tối của hiện thực. Nước mắt của người mẹ vẫn chảy trong tình thương con tột độ.

Hình ảnh người mẹ với tình thương con, thương dâu mang vẻ đẹp điển hình cho người mẹ Việt Nam trong mọi thời đại.

Gián tiếp tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và khẳng định tội ác mà chúng đã gây ra cho mảnh đất, con người Việt Nam.

Niềm cảm thương, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn, mất mát mà người nông dân nghèo phải đối mặt.

Ca ngợi sức sống mãnh liệt, khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc với gia đình nhỏ và niềm tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang chờ đợi họ mặc cho cái chết đang đeo đuổi và có thể đến với họ bất cứ lúc nào.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm làm nên niềm tin cho những con người lao động nghèo khổ, khốn khó. Nó chính là bản năng sống, khát khao được hạnh phúc của mỗi con người. Nó thể hiện sự nhân văn, nhân đạo của tác giả Kim Lân khi đồng cảm với người nông dân, nhân vật của mình.

* Tổng kết nội dung và nghệ thuật

Nội dung: Bằng tất cả sự nâng niu trân trọng, Kim Lân đã xây dựng thành công hình tượng bà cụ Tứ – người mẹ nghèo với những phẩm chất tốt đẹp, là hiện thân của tình yêu thương, lòng nhân ái, thương con vô hạn.

Nghệ thuật:

+Cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đầy éo le nhưng nhờ thế mà các nhân vật của Kim Lân xuất hiện và bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình.

+Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, sắp xếp các chi tiết gây được sự hứng thú và tò mò cho người đọc.

+Bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế.

+Ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn đặc trưng trong phong cách sáng tác của Kim Lân.

4. Chính tả, ngữ pháp [0,25 điểm] Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt.

5. Sáng tạo [0,5 điểm] Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Trần Lý

Video liên quan

Chủ Đề