Công thức tính chi phí biến đổi bình quân

Nguyên tắc định giá chi phí bình quân là gì? Tìm hiểu về nguyên tắc định giá? Công thức tính chi phí bình quân?

Nguyên tắc định giá chi phí bình quân là cụm từ rất quen thuộc đối với một số doanh nghiệp bởi hiện nay các nhà quản lý áp đặt cho các doanh nghiệp cụ thể nào đó phải thực hiện theo nguyên tắc định giá chi phí bình quân.

Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568

1. Nguyên tắc định giá chi phí bình quân là gì?

Đầu tiên muốn hiểu được nguyên tắc định giá chi phí bình quân chúng ta cần hiểu rõ chi phí bình quân là gì, Chi phí bình quân trong tiếng Anh gọi là Average Total Cost, chi phí bình quân hiểu dơn giản thì đây là biểu thị mức chi phí tính trung bình cho mỗi đơn vị sản lượng. Nó bằng tổng chi phí chia cho mức sản lượng, có thể thấy chi phí bình quân cũng là một hàm số của sản lượng. Tùy theo mức sản lượng q, ta có các mức chi phí bình quân khác nhau.  Xét trên mặt toán học, nếu ta đã giả định đường tổng chi phí điển hình có hình dạng của một đường cong bậc ba, thì đường chi phí bình quân ATC điển hình sẽ có hình dạng một đường cong bậc hai.

Trên thực tế có thể thấy chi phí bình quân là một đường hình chữ U. Thật ra, với cách nói này, người ta chỉ muốn nhấn mạnh rằng, nói chung, một đường chi phí trung bình thường có hai phần: thoạt đầu, ứng với qui mô sản lượng còn tương đối nhỏ, càng tăng sản lượng q lên thì chi phí bình quân chi phí bình quân càng giảm xuống.  Nói cách khác, lúc này, chi phí bình quân có khuynh hướng đi xuống. Tuy nhiên, khi đã đạt đến một ngưỡng sản lượng nào đó, việc tiếp tục tăng sản lượng q sẽ làm cho chi phí bình quân chi phí bình quân tăng lên. Khi đó, đường chi phí bình quân sẽ có khuynh hướng đi lên.

Với q < q*, tăng q sẽ làm chi phí bình quân giảm xuống. Ngược lại, với q > q*, tăng q lại làm chi phí bình quân tăng lên. Hình dạng chữ U của đường chi phí bình quân ATC có quan hệ chặt chẽ với hình dạng đường tổng chi phí TC. Khi mà tổng chi phí tăng chậm hơn tốc độ tăng của sản lượng khi doanh nghiệp muốn sản xuất nhiều đầu ra hơn, tỉ số TC(q)/q hay ATC(q) sẽ có xu hướng giảm dần. Đường chi phí bình quân sẽ đi xuống.  Ngược lại, khi tăng sản lượng cũng đồng thời làm cho tổng chi phí gia tăng nhanh hơn, chi phí bình quân sẽ tăng dần. Đường chi phí bình quân sẽ đi lên.

Như vậy từ các phân tích như trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về nguyên tắc định giá chi phí bình quân trong tiếng Anh là Average Cost Pricing Rule. Theo đó nguyên tắc định giá chi phí bình quân là một chiến lược định giá mà các cơ quan quản lí áp đặt cho một số doanh nghiệp nhất định nhằm mục đích để có thể hạn chế việc các doanh nghiệp này tính phí sản phẩm hoặc dịch vụ của mình cho các khách hàng với mức giá bằng với chi phí cần thiết để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Nguyên tắc định giá này ngụ ý rằng các doanh nghiệp sẽ đặt đơn giá của một sản phẩm gần bằng với chi phí trung bình cần thiết để sản xuất ra sản phẩm đó.

2. Tìm hiểu về nguyên tắc định giá:

Nguyên tắc định giá này thường được áp dụng đối với các độc quyền tự nhiên hoặc độc quyền pháp định. Một số ngành công nghiệp (như nhà máy điện) được hưởng lợi từ sự độc quyền vì có thể đạt được lợi thế kinh tế nhờ qui mô. Tuy nhiên, việc cho phép các công ty độc quyền trở nên không được kiểm soát có thể gây ra những tác động có hại cho nền kinh tế, chẳng hạn như việc ấn định giá. Vì các nhà quản lí thường cho phép các độc quyền tính một khoản giá tăng lớn hơn chi phí, nên giá trung bình phải trả cho phép độc quyền hoạt động và thu được lợi nhuận bình thường.

Thực tiễn định giá chi phí trung bình đã được kiểm nghiệm rộng rãi bởi các nghiên cứu thực nghiệm và thực tiễn định giá được một số lượng lớn các công ty lớn và nhỏ áp dụng trong hầu hết các ngành công nghiệp. Sử dụng chiến lược định giá chi phí bình quân, chi phí sản xuất, cho mỗi đơn vị sản phẩm hoặc dịch vụ được bán, chỉ bổ sung vào tổng chi phí do nguyên liệu và lao động trực tiếp. Các doanh nghiệp thường sẽ áp giá gần bằng chi phí cận biên nếu doanh số bị ảnh hưởng.

Ví dụ, nếu một mặt hàng có chi phí cận biên là 1 đô la và giá bán bình thường là 2 đô la, công ty bán mặt hàng đó có thể muốn hạ giá xuống còn 1,10 đô la nếu nhu cầu về mặt hàng này suy giảm. Doanh nghiệp sẽ lựa chọn cách tiếp cận này vì lợi nhuận tăng thêm là 10 xu hơn là việc không bán hàng.

Việc định giá chi phí bình quân được sử dụng để làm cơ sở cho chính sách điều tiết đối với các tiện ích công cộng (đặc biệt là các độc quyền tự nhiên) trong đó giá mà một công ty nhận được được áp bằng tổng chi phí sản xuất trung bình. Mặt tốt của việc định giá chi phí bình quân là một tiện ích công cộng theo qui định được đảm bảo lợi nhuận bình thường, thường được gọi là tỉ lệ lợi nhuận hợp lí. Mặt hạn chế của việc định giá chi phí trung bình đó là chi phí cận biên nhỏ hơn tổng chi phí trung bình có nghĩa là giá lớn hơn chi phí cận biên.

Xem thêm: Phân tích nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

3. Công thức tính chi phí bình quân:

công thức tính chi phí bình quân đó là : ATC = TC/Q

Trong đó Q là sản lượng và TC là tổng chi phí của tất cả các loại đầu vào được sử dụng để sản xuất ra sản lượng. Chúng ta cũng có thể tính tổng chi phí bình quân bằng cách lấy chi phí cố định bình quân (AFC) cộng với chi phí biến đổi bình quân (AVC):

ATC = AFC + AVC

Với chi phí bình quan ngắn hạn thì đường tổng chi phí bình quân cụ thể nó ở dạng chữ U có lí do là ở sự giảm dần của chi phí cố định bình quân  khi sản lượng tăng và vì ban đầu mức giảm của nó lớn hơn mức tăng chi phí biến đổi bình quân Chi phí cố định bình quân giảm vì tổng chi phí cố định được phân bổ cho mức sản lượng ngày càng lớn hơn. Như vậy từ đó ta thấy với loại chi phí biến đổi bình quân tăng do tác động của quy luật lợi suất giảm dần và khi sản lượng đạt đến một quy mô nhất định, mức tăng của chi phí biến đổi bình quân lớn hơn mức giảm chi phí cố định bình quân và tổng chi phí bình quân bắt đầu tăng lên, bên cạnh đó trong dài hạn, hình dạng của đường tổng chi phí bình quân còn chịu tác động của kinh tế quy mô.

Tóm lại ta thấy rằng, tổng chi phí bình quân giảm trong trường hợp sản xuất thêm với số lượng đầu ra tương đối nhỏ và sau đó sẽ tăng đối với các trường hợp có số lượng đầu ra tương đối lớn. Theo đó nó được biểu thị như đường cong tổng chi phí bình quân hình chữ U vơi tổng chi phí bình quân khi được kết hợp với giá và theo đó ta có thể xác định lợi nhuận hoặc lỗ trên mỗi đơn vị mà một công ty tối đa hóa lợi nhuận nhận được từ sản xuất ngắn hạn.

Như vậy chúng ta có thể thấy không phải mọi đầu vào đều dễ dàng điều chỉnh như nhau. Theo đó khi cần điều chinh để tăng sản lượng, điều tất nhiên các doanh nghiệp phải sử dụng thêm các yếu tố đầu vào. Theo đó doanh nghiệp phải sử dụng thêm nguyên, nhiên, vật liệu, tăng mức sử dụng lao động, hay sử dụng nhiều máy móc, thiết bị hơn. Bên cạnh đó, việc gia tăng thêm nguyên, nhiên, vật liệu tương đối dễ dàng, trong khi đó, việc lắp đặt thêm hệ thống máy móc mới, hay xây dựng thêm nhà xưởng lại đòi hỏi nhiều thời gian hơn, hiện nay chúng ta thấy trong các ngành công nghiệp nặng như luyện kim, sản xuất điện năng, chế tạo máy v.v¼ hơn nữa nếu doanh nghiệp cho rằng, xu hướng gia tăng sản lượng chỉ là tạm thời, nó không muốn mở rộng sản xuất bằng cách đầu tư thêm vào nhà xưởng hay máy móc, thiết bị. Cách đơn giản và kinh tế hơn đó là tiến hành mua thêm nguyên, vật liệu, sử dụng thêm lao động mà trước hết là động viên công nhân làm thêm giờ trên cơ sở những nhà xưởng và thiết bị, máy móc hiện có. Hay cũng có thể hiểu, trong tính chi phí bình quân để định giá thì khi cần thay đổi sản lượng, doanh nghiệp chỉ có thể điều chỉnh một số yếu tố đầu vào, Bên cạnh đó sẽ bị ràng buộc bởi một số yếu tố đầu vào cố định khác. Quy mô kỹ thuật của doanh nghiệp thể hiện ở số lượng nhà xưởng, máy móc, thiết bị thường được xem là những yếu tố cố định này.

Chi phí biến đổi là những khoản chi phí thay đổi tương ứng phụ thuộc vào thị trường hoặc bị ảnh hưởng bởi  khối lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà một doanh nghiệp sản xuất. Khoản chi phí này sẽ tăng hoặc giảm tùy thuộc vào sản lượng của công ty – chúng tăng khi sản lượng tăng và giảm khi sản lượng giảm.

Một số khoản chi phí biến đổi phổ biến trong doanh nghiệp là chi phí nguyên vật liệu và bao bì của công ty sản xuất hoặc phí giao dịch thẻ tín dụng của công ty bán lẻ hoặc chi phí vận chuyển, tăng hoặc giảm theo doanh số bán hàng. 

    • Vật liệu trực tiếp
    • Chi phí trả cho lao động trực tiếp
    • Phí giao dịch
    • Phần trăm hoa hồng sản phẩm
    • Chi phí tiện ích

2. Chi phí cố định là gì? 

Chi phí cố định là những khoản chi phí giữ nguyên và nó không phụ thuộc vào sản lượng sản xuất. Những chi phí được xét vào mục Chi phí cố định sẽ không bị ảnh hưởng bởi quy mô hoạt động của tổ chức nếu chúng ta xét chúng trong một khuôn khổ nhất định không đề cập tới việc phát triển thị trường quy mô hoạt động. Cho dù một công ty có bán hàng hay không, thì công ty đó phải trả các chi phí cố định, vì các chi phí này không phụ thuộc vào sản lượng.

    • Tiền thuê mặt bằng
    • Tiền lương của người lao động
    • Tiền bảo hiểm

Doanh nghiệp vẫn phải trả các khoản như tiền thuê mặt bằng, tiền lương cho người lao động,… để phục vụ cho quá trình hoạt động của tổ chức. Có thể thấy, đây là những khoản chi phí bất biến mà nó không ảnh hưởng gì tới khối lượng sản phẩm được sản xuất và bán ra. Vì vậy, cho dù khối lượng sản phẩm mà doanh nghiệp tạo ra tăng hay giảm thì công ty vẫn phải trả đủ ngần đấy khoản phí.

3. Phân biệt chi phí biến đổi và chi phí cố định

Hãy theo dõi bảng dưới đây để nhận ra được sự khác nhau giữa hai loại chi phí này.

Công thức tính chi phí biến đổi bình quân
Phân biệt chi phí biến đổi và chi phí cố định

Trong kinh doanh, Chi phí biến đổi thường được gọi là giá vốn hàng bán, trong khi chi phí cố định lại không được tính vào mục này.Có thể khẳng định rằng khoản chi phí này chỉ ảnh hưởng bởi doanh số và sản lượng khi và chỉ khi các yếu tố như hoa hồng bán hàng được tính vào chi phí sản xuất trên một đơn vị.  Trong khi đó, chi phí cố định vẫn là những khoản phải được thanh toán ngay cả khi sản xuất chậm lại đáng kể.

Thực tế cho thấy: Nhìn chung, các công ty có tỷ trọng chi phí biến đổi cao còn chi phí cố định được coi là ít biến động hơn, vì lợi nhuận của họ phụ thuộc nhiều hơn vào thành công của việc bán hàng của họ.

Sau khi đã có cái nhìn tổng quát về chi phí cố định và chi phí biến đổi. Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu cách tính và phân biệt hai loại chi phí này.

II. Phương pháp High – Low trong chi phí biến đổi

1. Định nghĩa và mục đích sử dụng

Phương pháp High – Low là một phương pháp được xây dựng với mục đích để tách riêng chi phí cố định và chi phí biến đổi khi doanh nghiệp chỉ có một khối lượng dữ liệu hạn chế. Thông thường, chi phí mà doanh nghiệp đưa ra trong một khoảng thời gian nhất định thường là chi phí hỗn hợp khiến Kế toán rất khó  khăn trong việc xác định và báo cáo nội bộ. Vì vậy, phương pháp cao – thấp được xây dựng để giúp doanh nghiệp xác định và phân chia hai loại chi phí này một cách cụ thể, dễ dàng hơn.

Thực tế chỉ ra rằng: 

  • Phương pháp high-low là một cách đơn giản để tách riêng chi phí biến đổi và chi phí cố định với thông tin tối thiểu.
  • Sự đơn giản của phương pháp này giả định chi phí biến đổi và cố định là không đổi, điều này không lặp lại thực tế.

2. Cách thức hoạt động của phương pháp High – Low

Công thức tính chi phí biến đổi bình quân
Công thức tính chi phí biến đổi trên mỗi đơn vị

Chi phí hoạt động cao nhất: Chi phí cao nhất trong một khoảng thời gian nhất định ( Ví dụ: Doanh thu tháng cao nhất)

Chi phí hoạt động thấp nhất: Chi phí thấp nhất trong một khoảng thời gian nhất định ( Ví dụ: Doanh thu tháng thấp nhất)

Đơn vị hoạt động cao nhất: Ví dụ: Số lượng sản phẩm được tạo ra cao nhất trong một tháng

Đơn vị hoạt động thấp nhất: Ví dụ: Số lượng sản phẩm được tạo ra thấp nhất trong một tháng

Công thức tính chi phí biến đổi bình quân
Công thức tính chi phí biến đổi trong doanh nghiệp

Chi phí có định của doanh nghiệp có thể tính theo 1 trong 2 công thức như dưới đây:

Công thức tính chi phí biến đổi bình quân
Công thức tính chi phí cố định

Mô hình chi phí kết quả sau khi sử dụng phương pháp high-low sẽ như sau:

Công thức tính chi phí biến đổi bình quân
Mô hình chi phí theo phương pháp High – Low

Trên đây chúng tôi đã cung cấp cho quý vị các công thức để có thể tính toán, xác định hai loại hình chi phí phổ biến  trong doanh nghiệp. Ở phần tiếp theo, chúng ta sẽ cùng nhau xét tới ví dụ thực tế để có thể hiểu hơn về phương pháp này.

3. Ví dụ về sử dụng Phương pháp High – Low để tính toán chi phí

Người quản lý khách sạn muốn phát triển một mô hình chi phí để dự đoán chi phí vận hành khách sạn trong tương lai. Thật không may, dữ liệu có sẵn duy nhất là số lượng khách trong một tháng nhất định và tổng chi phí phát sinh trong mỗi tháng. Còn nhiệm vụ của bạn là phải xác định rõ Chi phí cố định và Chi phí biến đổi chỉ dựa trên 2 số liệu như vậy. 

Công thức tính chi phí biến đổi bình quân
Ví dụ về thực tế về cách sử dụng phương pháp High – Low để xác định chi phí

Anh dự đoán lượng khách trong tháng 9 sẽ là 3.000 người. Với tập dữ liệu bên dưới, hãy phát triển mô hình chi phí và dự đoán chi phí sẽ phát sinh trong tháng 9.

Lưu ý: Điều quan trọng là chọn giá trị cao-thấp từ các đơn vị (tức là số lượng khách) chứ không phải tổng chi phí. Số lượng đơn vị dẫn đến tổng chi phí.

 Tổng chi phí cao nhất là $ 454,255, tương ứng với số lượng khách là 4,323. Tuy nhiên, các giá trị cao-thấp chính xác là từ biến độc lập (biến dự đoán chi phí). Trong trường hợp như vậy, mức cao và thấp sẽ là 4.545 số lượng khách trong tháng 5 với tổng chi phí 371.225 đô la và 1.500 số khách trong tháng 1 với tổng chi phí 143.000 đô la.

  • Ta có công thức tính chi phí biến đổi trên mỗi đơn vị khách hàng: 

Công thức tính chi phí biến đổi bình quân

  • Giờ đây chúng ta có thể xác định chi phí cố định của mình:

Sử dụng chi phí hoạt động cao:

Chi phí cố định = $ 371.225 – ($ 74,97 x 4,545) = $ 30.486,35

Sử dụng chi phí hoạt động thấp:

Chi phí cố định = $ 105.450 – ($ 74,97 x 1.000) = $ 30.480

Sai số xảy ra là không đáng kể giữa 2 công thức tính chi phí cố định. 

III. Lợi ích mà doanh nghiệp đạt được khi xác định chi phí biến đổi

1. Đo lường xu hướng của chi phí biến đổi làm ảnh hưởng tới Doanh thu, Lợi nhuận của doanh nghiệp

Trong hầu hết các trường hợp, tăng sản lượng sẽ làm cho chi phí đối với mỗi đơn vị sản phẩm có lợi hơn. Điều này là do chi phí cố định được chia ra nhiều đầu khối lượng đơn vị sản phẩm hơn. 

Ví dụ: Nếu một doanh nghiệp sản xuất 500.000 sản phẩm mỗi năm chi 50.000 đô la mỗi năm cho tiền thuê, thì chi phí thuê được phân bổ cho mỗi đơn vị là 0,10 đô la cho mỗi sản phẩm. Nếu sản lượng tăng gấp đôi, tiền thuê hiện chỉ được phân bổ ở mức 0.05 đô la một đơn vị, để lại nhiều lợi nhuận hơn cho mỗi lần bán.

 Vì vậy, khi doanh thu tăng, giá vốn hàng bán cũng sẽ tăng, nhưng với tốc độ chậm hơn (Do chi phí biến đổi trên mỗi đơn vị không đổi và chi phí cố định trên mỗi đơn vị giảm).

2. Đánh giá rủi ro

Bằng cách so sánh tỷ lệ phần trăm của chi phí biến đổi với chi phí cố định cho một đơn vị sản phẩm, bạn có thể xác định tỷ trọng của từng loại chi phí. Là một nhà đầu tư bên ngoài, bạn có thể sử dụng thông tin này để dự đoán rủi ro lợi nhuận tiềm ẩn.

Nếu một công ty chủ yếu trải qua chi phí biến đổi trong sản xuất, họ có thể có chi phí trên mỗi đơn vị ổn định hơn. Điều này sẽ dẫn đến một dòng lợi nhuận ổn định hơn, giả sử doanh số bán hàng ổn định. Điều này đúng với các nhà bán lẻ lớn như Walmart và Costco. Chi phí cố định của họ tương đối thấp so với chi phí biến đổi, chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí liên quan đến mỗi lần bán hàng. 

Trong thời kỳ doanh số bán hàng sụt giảm, một công ty chủ yếu dựa vào chi phí biến đổi sẽ dễ dàng thu hẹp quy mô sản xuất hơn và duy trì lợi nhuận, trong khi một công ty có chi phí cố định chủ yếu sẽ phải tìm cách đối phó với mức chi phí cố định cao hơn nhiều chi phí. 

3. So sánh với đối thủ cạnh tranh trên thị trường

Để có thể so sánh đối thủ cạnh tranh trên thị trường, bạn có thể tính chi phí biến đổi trên một đơn vị sản phẩm và tổng chi phí biến đổi cho một công ty nhất định. Sau đó, tiến hành tìm dữ liệu về mức chi phí  trung bình cho ngành của công ty đó. Việc thực hiện như vậy sẽ cung cấp cho bạn một tiêu chuẩn so sánh để đánh giá công ty đầu tiên. 

  • Chi phí biến đổi trên một đơn vị cao hơn có thể cho thấy rằng một công ty kém hiệu quả hơn những công ty khác.
  • Chi phí biến đổi trên một đơn vị thấp hơn có thể thể hiện một lợi thế cạnh tranh. 
  • Chi phí trên một đơn vị cao hơn bình quân cho thấy rằng một công ty sử dụng một lượng lớn hơn hoặc chi tiêu nhiều hơn vào các nguồn lực (lao động, nguyên vật liệu, tiện ích) để sản xuất hàng hóa so với các đối thủ cạnh tranh của họ. 

IV.  Tối ưu hiệu quả quản trị tài chính trong doanh nghiệp với Phần mềm 1Office

Với phần mềm quản trị tổng thể doanh nghiệp 1Office nói chung và phân hệ CRM nói riêng, bạn sẽ không cần lên báo cáo trên Excel nữa mà có thể thực hiện báo cáo quản trị tài chính trực tiếp trên phần mềm giúp thủ tục đơn giản, quá trình thực hiện trở nên dễ dàng hơn. 

Một số mẫu báo cáo sẽ được tạo tự động trên hệ thống của 1Office như: 

Bên cạnh đó, khi sử dụng phân hệ CRM của 1Office sẽ giúp doanh nghiệp của bạn vận hành một cách đơn giản, nhẹ nhàng hơn bao giờ hết bởi:

  • Chuẩn hóa mọi quy trình trong doanh nghiệp
  • Quá trình giám sát tiến độ thực hiện dễ dàng hơn
  • Chủ động hơn trong công việc
  • Các khoản thu, chi được lưu trữ trên hệ thống giúp dễ dàng tổng hợp
  • Thông tin, dữ liệu khách hàng cung cấp 24/7

Nhận tư vấn miễn phí

Qua bài viết trên,  chúng tôi mong rằng những thông tin mà 1Office mang lại giá trị hữu ích cho quý độc giả. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì cần giải đáp, hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn miễn phí.