Đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ 1975 đến hết thế kỉ 20
Khái quát văn học Việt Nam từ Cách Mạng Tháng Tám năm 1915 đến hết thế kỉ XX là bài học mở đầu cho chương trình văn học lớp 12 nên rất quan trọng. Do vậy, các em cần nắm vững những kiến thức cơ bản của bài học, với dung lượng kiến thức của một thời kì văn học hơn nửa thế kỉ được khai sinh và trưởng thành trong chế độ mới, kỉ nguyên mới của đất nước. Từ đó có thể soi sáng cho việc học các tác phẩm cụ thể về thơ, truyện, kí, kịch, nghị luận… trong suốt năm học. Dưới đây là phần soạn bài chi tiết và phần soạn bài ngắn gọn, các em có thể tham khảo thêm. Show Kiến thức cơ bảnKiến thức của bài học khá nhiều nên các em cần đọc kĩ SGK để nắm được những kiến thức cơ bản, sau đó trả lời các câu hỏi trong phần “Hướng dẫn học bài”. Bài học chia làm hai nội dung tương ứng với hai giai đoạn phát triển của văn học, và trong từng giai đoạn lại chia làm từng thời kì nhỏ. Nền văn học Việt Nam trong giai đoạn này nổi bật lên những vấn đề sau: 1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 19751.1. Những nét chính về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóaĐây là giai đoạn cả dân tộc thực hiện hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ. Văn học phản ánh cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc. 1.2. Các thời kỳ phát triển
1.3. Những đặc điểm cơ bản của văn học giai đoạn này
2. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỉ XX2.1. Những nét chính về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa
2.2. Các thời kì phát triển
2.3. Những đặc điểm cơ bản của văn học thời kì này
Kế thừa và phát huy những truyền thống và thành tựu quý báu của văn học kì trước, văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của một nền văn học trong một thời đại mới, thế hiện xuất sắc nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu, giải phóng dân tộc. Từ sau năm 1975, nhất là từ năm 1986, cùng với đất nước, văn học bước vào công cuộc đổi mới. Trong điều kiện thuận lợi đó, sự giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới được mở rộng, với truyền thống văn học của một dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến, chúng ta đã xây dựng thành công nền văn hóa tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Soạn văn ngắn gọn nhấtCâu 1: (Trang 18 SGK Ngữ văn 12 tập 1)Câu hỏi: Những nét chính về tình hình lịch sử, xã hội, văn hóa có ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975.
Câu 2: (Trang 18 SGK Ngữ văn 12 tập 1)Câu hỏi: Văn học Việt Nam từ năm 1945 đến 1975 phát triển qua mấy chăng? Thành tựu cơ bản của từng chặng? Văn học Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến 1975 phát triển qua ba thời kì: a. Thời kì từ năm 1945 đến năm 1954Từ năm 1945 – 1946Văn học ca ngợi Tổ quốc và quần chúng cách mạng sang những ngày giành được độc lập với những tác phẩm tiêu biểu như:
Từ năm 1947 – 1954Văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng thời thể hiện sự gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng chiến, hướng tới quần chúng nhân dân. Văn học thời kì này đạt được những thành tựu mới trên nhiều thể loại như truyện ngắn, kí, tiểu thuyết, thơ kịch, và lí luận, nghiên cứu, phê bình văn học… Một số tác phẩm tiêu biểu như truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao, Làng của Kim Lân, tiểu thuyết Vùng nổ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn Đình Thi, Đất nước đứng lên của Nguyễn Ngọc, tập truyện Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, các bài thơ kháng chiến của Hồ Chí Minh (Cảnh khuya, Nguyên tiêu, Báo tiệp,..), Tây Tiến của Quang Dũng, Đồng chí của Chính Hữu… và đặc biệt là bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam của Trường Chinh …. b. Thời kì từ năm 1955 đến năm 1964
c. Thời kì từ năm 1965 đến năm 1975
Câu 3:Câu hỏi: Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975. Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 có ba đặc điểm lớn: a. Văn học vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó mật thiết với vận mệnh chung của đất nước.Nền văn học mới được kiến tạo theo mô hình “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận” (Hồ Chí Minh) cùng với kiểu nhà văn mới: nhà văn – chiến sĩ. Ý thức, trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ được , cao, nhà văn gắn bó với dân tộc, với nhân dân và đất nước, dùng ngồi, để phục vụ kháng chiến, cổ vũ chiến đấu. Văn học tập trung vào đề tài Tổ quốc: bảo vệ đất nước, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tổ quốc trở thành nguồn cảm hứng lớn xuyên suốt thơ ca và truyện kí. Cùng với đề tài “Tổ quốc, chủ nghĩa xã hội cũng là một đề tài lớn và văn học giai đoạn này. Văn học đề cao lao động, ngợi ca những phẩm chức đẹp của người lao động, của con người mới trong công cuộc xây dựng chủ n. xã hội ở miền Bắc sau ngày giải phóng, hàn gắn vết thương chiến tranh. b. Nền văn học gắn liền với quần chúng nhân dânVăn học gắn bó sâu sắc với nhân dân lao động, hướng về đại chú và trước hết là công nông binh. Cách mạng và kháng chiến đã làm th. đổi hẳn cách nhìn về nhân dân của nhiều nhà văn, hình thành ở ho mái quan niệm mới về đất nước: Đất nước của nhân dân. Đó là cảm hứng chủ đạo, là chủ đề của nhiều tác phẩm viết về đất nước và nhân dân. Văn học mang tính nhân dân sâu sắc, thể hiện bằng việc nhà văn quan tâm đến đời sống của nhân dân lao động, nói lên những nỗi bất hạnh của họ trong cuộc sống cũng như niềm vui, tự hào của họ về cuộc đời mới. phát hiện ở họ khả năng cách mạng và phẩm chất anh hùng, tập trung khắc họa hình tượng quần chúng cách mạng, diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân lao động. c. Nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạnKhuynh hướng sử thi là khuynh hướng tất yếu của nền văn học ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt kéo dài suốt 30 năm với vấn đề dân tộc nổi lên hàng đầu; nó không thể là tiếng nói riêng của mỗi cá nhân mà phải đề cập đến số phận chung của cả cộng đồng, của toàn dân tộc. Văn học mang đậm chất sử thi, tập trung phản ánh những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa sống còn của đất nước: Tổ quốc còn hay mất, độc lập tự do hay nô lệ. Nó hướng tới những sự kiện có ý nghĩa lịch sử, hướng tới vẻ đẹp cao cả, lí tưởng của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh chiến thắng của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam bằng lời văn trang trọng và đẹp một cách hào hùng, tráng lệ. Đó là vẻ đẹp của Người mẹ cầm súng, của Người con gái Việt Nam, của Dáng đứng Việt Nam… Khuynh hướng sử thi thường được kết hợp với cảm hứng lãng mạn lào cho văn học giai đoạn này thấm nhuần tinh thần lạc quan, tạo nên nét thẩm mỹ đặc trưng cho nền văn học chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Câu 4:Câu hỏi: Căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử xã hội và văn hóa, hãy giải thích” vì sao văn học Việt Nam từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX phải đổi mới? Ngày 30-4-1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta kết thúc thắng lợi vẻ vang. Lịch sử dân tộc lại mở ra một kỉ nguyên mới – kỉ nguyên độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, từ năm 1975 đến năm 1985, đất nước ta lại gặp những thử thách không nhỏ, nhất là khó khăn về kinh tế do hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài. Tình hình đó đòi hỏi đất nước phải đổi mới, đó là “vấn đề có ý nghĩa sống còn” của toàn dân tộc. Từ 1986, với công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam để xướng và lãnh đạo, kinh tế nước ta từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, văn hóa nước ta cũng có điều kiện tiếp xúc rộng rãi với văn hóa nhiều nước trên thế giới. Đất nước đổi mới đã thúc đẩy nền văn học đổi mới. Điều này phù hợp với nguyện vọng của người cầm bút và người đọc, cũng như quy luật phát triển khách quan của nền văn học. Câu 5:Câu hỏi: Hãy nêu những thành tựu ban đầu của văn học Việt Nam từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX. Giai đoạn văn học từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX có thể chia làm hai thời kì nhỏ là từ năm 1975 đến năm 1985 và từ sau năm 1986 trở đi. Từ năm 1975 đến năm 1985 là chặng đường chuyển tiếp, trăn trở; từ năm 1986 trở đi là chặng đường văn học có nhiều đổi mới. Văn học trong giai đoạn này bộc lộ tiếng lòng và những trắc ẩn đối với con người; nó nở rộ những trường ca với mục đích tổng kết, khái quát về chiến tranh, chất nhân bản, nhân văn được đề cao hơn, đi sâu vào những nỗi đau và bất hanh của từng thân phận con người sau chiến tranh. Đổi mới văn học trong giai đoạn này có thể hiểu là đổi mới cách viết về chiến tranh, đổi mới cách nhìn nhận về con người, khám phá ra trong con người những mối quan hệ đa dạng, phức tạp chứ không đơn điệu như trước đây. Các tác giả tiêu biểu của giai đoạn này có thể kể đến là Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Trần Mạnh Hảo, Xuân Quỳnh, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Duy, Ma Văn Kháng, Trần Nhuận Minh với các tác phẩm như Đất trắng, Hai người trở lại trung đoàn, Đứng trước biển, Cù Lao Chàm, Cha và con, và… Gặp gỡ cuối năm, Mùa lá rụng trong vườn, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài ra, Tướng về hưu, Bến không chồng, Nỗi buồn chiến tranh, Cát bụi chân ai, Ai đã đặt tên cho dòng sông… Trên lĩnh vực kịch cũng có nhiều tác phẩm tiêu biểu như Nhân danh công lí của Doãn Hoàng Giang, Tôi và chúng ta, Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ. Phần luyện tậpCâu hỏiBình luận ý kiến của nhà văn Nguyễn Đình Thi: “Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc nên văn nghệ mới của chúng ta” (Nhận đường). Gợi ý làm bàiQua mối quan hệ giữa văn nghệ và kháng chiến, cần thấy rõ vai trò tạo nguồn cảm hứng của cuộc kháng chiến cho văn nghệ trong giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975. Văn nghệ phụng sự kháng chiến, đó là mục đích hướng tới của văn nghệ mới. Nó phải gắn bó mật thiết với vận mệnh chung của đất phải phục vụ cuộc sống của nhân dân mà ở đây chính là cuộc sống giặc để bảo vệ độc lập tự do của đất nước. Kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới, hiện thực cách mạng – kháng chiến của dân tộc đã đem đến cho văn nghệ một chất liệu sống phong phú, những cảm hứng nồng nàn để tạo ra các phẩm tốt. Chính cuộc kháng chiến đã đem đến cho văn nghệ một sức số mới trẻ trung, khỏe khoắn, để văn nghệ có thể phụng sự kháng chiến hơn. Ý này đã được hình tượng hóa và nhấn mạnh thêm bảng câu: “Sắt lửa mặt trận đang đúc nền văn nghệ mới của chúng ta”. . . Như vậy là qua mối quan hệ nói trên giữa văn nghệ và kháng chiến, chúng ta thấy được bản chất và đặc trưng của nền văn nghệ mới, đi là một nền văn nghệ của nhân dân, gắn bó mật thiết với vận mệnh của đất nước, từ cuộc sống cách mạng của nhân dân, của đất nước theo mô hình “văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận” và nhà văn là “chiến sĩ trên mặt trận ấy” (Hồ Chí Minh). Cách diễn đạt hai ý “ngược” nhau nhưng lại thống nhất với nhau khiến luận điểm càng thêm sâu sắc. Tốt nghiệp cử nhân ngôn ngữ Anh năm 2010, với hơn 10 năm kinh nghiệm trong việc giảng dạy về Tiếng Anh. Nguyễn Võ Mạnh Khôi là một trong những biên tập viên về mảng ngoại ngữ tốt nhất tại VerbaLearn. Mong rằng những chia sẽ về kinh nghiệm học tập cũng như kiến thức trong từng bài giảng sẽ giúp độc giả giải đáp được nhiều thắc mắc. |