Đánh giá khả năng có sóng cổ phiểu pvx

Lô B – Ô Môn là chuỗi dự án phát triển, khai thác và vận chuyển khí từ các mỏ khí thượng nguồn tại Lô B&48/95 và Lô 52/97 đến các nhà máy nhiệt điện khí ở hạ nguồn. Quyết định đầu tư cuối cùng (FID) cho dự án dự kiến sẽ được phê duyệt vào tháng 6/2023 và dòng khí đầu tiên dự kiến được khai thác vào năm 2026.

Lô B&48/95 và Lô 52/97 gồm các mỏ khí Kim Long, Ác Quỷ, Cá Voi, Thiên Hà và Vàng Đen với tổng diện tích 3.200 km2. Các mỏ này thuộc bể Malay-Thổ Chu của Việt Nam, cách Cà Mau khoảng 250 km về phía Tây Nam và cách Trung tâm Điện lực Ô Môn khoảng 400 km. Đơn vị điều hành dự án là Công ty Điều hành Dầu khí Phú Quốc (PQPOC) - chi nhánh của PVN.

Dự án dự kiến sẽ cung cấp tổng cộng 3,95 nghìn tỷ bộ khối, tương đương với khoảng 102 tỷ m3, và 12,65 triệu tấn thùng condensate, trong vòng đời 23 năm. Tổng giá trị đầu tư cho hợp phần thượng nguồn (bao gồm Chi phí xây dựng cơ bản, chi phí vận hành và chi phí hủy mỏ) ước tính khoảng 17 tỷ USD. Sau khi hoàn thành, dòng khí từ các mỏ Lô B sẽ được vận chuyển qua đường ống dẫn khí Lô B – Ô Môn đến các doanh nghiệp tiêu thụ hạ nguồn, trong đó có 4 nhà máy điện Ô Môn tại TP. Cần Thơ, với tổng nhu cầu khí cho tổ hợp khoảng 5 tỷ m3/năm, chia cho 4 nhà máy (Ô Môn 1, 2, 3, 4).

Công suất điện của 4 nhà máy điện Ô Môn là 3,8 GW, cung cấp khoảng 10,2% công suất của các nhà máy điện khí trong nước vào năm 2030.

Đã đến lúc tích sản cổ phiếu dầu khí

Theo SSI Research, các công ty dầu khí là những doanh nghiệp được hưởng lợi nhiều nhất từ dự án Lô B bao gồm Tổng Công ty khí Việt Nam (GAS), Tổng CTCP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PVS), Tổng CTCP Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí (PVD), Tổng Công ty Hóa chất và Dịch vụ Dầu khí (PVC), CTCP Bọc ống dầu khí Việt Nam (PVB) và Công ty Cổ phần Kết cấu Kim loại và Lắp máy Dầu khí (PXS).

Đánh giá khả năng có sóng cổ phiểu pvx
Diễn biến giá cổ phiếu "họ nhà P" so với VN-Index. Nguồn: Bloomberg, SSI Research

Các công ty này cung cấp các dịch vụ liên quan đến xây dựng và khai thác các dự án thượng nguồn và trung nguồn. Chi phí đầu tư và chi phí khoan của dự án thượng nguồn ước tính rơi vào khoảng 9-9,5 tỷ USD trong suốt vòng đời dự án, có tính đến trượt giá 2%/năm từ năm 2016.

Theo đó, khoản đầu tư trong giai đoạn đầu tiên (từ FID đến thời điểm khởi công) ước tính khoảng 2,4 tỷ USD. Ngoài ra, vốn đầu tư cho các dự án trung nguồn cũng rất lớn ở mức 1,3 tỷ USD. GAS sẽ giám sát việc vận chuyển khí từ các mỏ đến các nhà máy điện sau khi khởi công.

Trong đó, PVS, PVB và PVD là những doanh nghiệp được hưởng lợi đầu tiên của đại dự án này, vì đóng vai trò quan trọng đối với quá trình xây dựng và khoan thượng nguồn để khai thác dòng khí đầu tiên vào năm 2026.

PVS và PVD được kỳ vọng sẽ tạo ra nguồn doanh thu đáng kể trong vòng đời của Dự án dựa trên quy hoạch phát triển dầu khí, trong khi PVB sẽ ghi nhận backlog liên quan đến dự án đến năm 2025 (đường ống phải sẵn sàng hoạt động trước khi khai thác dòng khí đầu tiên).

Như vậy, nếu FID được phê duyệt vào cuối năm 2023, PVS và PVD có thể đạt tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) lợi nhuận ròng giai đoạn 2023-2026 lần lượt là 15,9% và 26%, trong đó backlog từ dự án Lô B sẽ là mấu chốt cho tốc độ tăng trưởng này. Trong khi đó, trong giai đoạn 2023-2026, GAS có thể vẫn đạt tốc độ CAGR lợi nhuận thấp do không có nguồn khí đáng kể nào mới.

Theo đánh giá của SSI Research, PVS hiện là cổ phiếu ưa thích do có nhiều tiềm năng phát triển, từ việc khởi động dự án Lô B-Ô Môn như dự kiến cho đến phát triển năng lượng tái tạo (điện khí LNG và điện gió ngoài khơi). Dựa trên lợi nhuận ước tính vào cuối năm 2024, SSI Research đưa ra khuyến nghị khả quan đối với PVS (giá mục tiêu là 33.000 đồng/cổ phiếu) và PVD (giá mục tiêu là 26.800 đồng/cổ phiếu).

Các chuyên gia phân tích của SSI cho rằng việc giá các cổ phiếu này điều chỉnh là cơ hội tốt để nhà đầu tư có thể tích lũy thêm cổ phiếu.

Hiện trên sàn chứng khoán, PVX chỉ có giá 1.400 đồng/cổ phiếu. Cổ piếu này giảm tới 6,7% phiên ngày 12/4. vốn hoá PVX cũng chỉ còn hơn 550 tỷ đồng. Đầu năm 2019, có lúc cổ phiếu này giảm chỉ còn 900 đồng/cổ phiếu - thời kỳ thấp nhất trong lịch sử giao dịch của một "đại gia" từng lẫy lừng trong lĩnh vực xây lắp dầu khí.

Thep Ban lãnh đạo PVX, nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch đó là do tổng công ty lập báo cáo hợp nhất trên cơ sở báo cáo tài chính của các công ty con do đó phụ thuộc nhiều vào các đơn vị này.

"Sau khi thực hiện kiểm toán, báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty con có nhiều thay đổi, vì vậy trên báo cáo hợp nhất sau kiểm toán công ty đã đánh giá lại một số khoản trích lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi, lợi nhuận chưa thực hiện, các khoản đầu tư tài chính của một số đơn vị thành viên", báo cáo giải trình của PVX lên Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước.

Trước đó, năm 2017, PVX cũng lỗ sau kiểm toán 416,3 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2018, PVX có lỗ lũy kế hơn 3.686 tỷ đồng, trong khi vốn điều lệ chỉ 4.000 tỷ đồng.

Các kiểm toán viên đưa ra loạt các khoản mục tài chính ngoại trừ. Cụ thể, tổng công ty có số dư phải thu cho Công ty Khách sạn Lam Kinh vay để hỗ trợ vốn sản xuất kinh doanh là 200 tỷ đồng. PVX đã đánh giá khả năng và giá trị có thể thu hồi của các khoản cho vay lại này làm cơ sở cho việc trích lập dự phòng phải thu khó đòi trong các kỳ kế toán trước với số dư trích lập dự phòng thu khó đòi 124,4 tỷ đồng.

Tại ngày lập báo cáo, công ty đã làm việc với các công ty trên để thu hồi các khoản cho vay để có nguồn thanh toán các khoản vay Oceanbank.

Ý kiến của kiểm toán viên là không thể thu thập được các bằng chứng kiểm toán thích hợp để đánh giá giá trị có thể thu hồi của khoản phải thu này do đó, không thể xác định liệu có cần thiết phải điều chỉnh số liệu hay không.

Liên quan đến số dư chi phí sản xuất kinh doanh dở dang dài hạn của tổng công ty gồm dự án nhà máy điện Vũng Áng 1 và dự án nhiệt điện Quảng Trạch 1 với giá gốc lần lượt là 249,7 tỷ và 25,8 tỷ đồng.

Tổng công ty cho biết đã đánh giá khả năng và giá trị có thể thu hồi của khoản chi phí dở dang trên làm cơ sở cho việc trích lập dự phòng phải thu khó đòi với số tiền trích lập giảm giá hàng tồn kho cho dự án Quảng Trạch là 12,9 tỷ đồng.

Tại ngày lập báo cáo tài chính riêng công ty đã làm việc với các bên liên quan để được phê duyệt giá trị phát sinh chưa lường hết ở Nhà máy điện Vũng Áng 1 và quyết toán dự án Quảng Trạch.

Ý kiến loại trừ của kiểm Deloitte là không thu thập được đầy đủ các bằng chứng liên quan đến giá trị có thể thực hiện được các thủ tục thay thế để đánh giá về giá trị dự phòng giảm giá hàng tồn kho cần phải trích lập. Do đó kiểm toán viên không thể xác định liệu có cần thiết phải điều chỉnh các khoản mục có liên quan hay không.

Ngoài ra, kiểm toán viên còn lưu ý việc PVX chưa thu thập được báo cáo tài chính năm 2018 của Công ty Đầu tư xây lắp Dầu khí Imico, Công ty Xây lắp dầu khí PVX Trường Sơn, Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí 2, Công ty Cổ phần Vật liệu xây lắp dầu khí 4, Công ty Đầu tư Xây lắp Dầu khí Kinh Bắc, Công ty Đầu tư xây dựng Dầu khí 3C do đây là các công ty mà PVX có tỷ lệ giá trị đầu tư nhỏ, không chi phối được và tổng công ty đã dùng báo cáo tài chính gần nhất để đánh giá khoản đầu tư. Các đơn vị này cũng nằm trong diện tái cơ cấu, thoái vốn của PVC trong thời gian tới.

Đặc biệt, công ty con của PVC là PVC Land là chủ đầu tư Dự án cao ốc căn hộ thương mại dịch vụ PetroVietnam Landmark. Với số dư chi phí sản xuất dở dang lên tới 1.011 tỷ đồng, gồm cả chi phí lãi vay được vốn hóa trong giai đoạn bị tạm ngừng thi công. Kiểm toán cũng không thu được bằng chứng thích hợp về giai đoạn dự án tạm dừng thi công nên không có đủ cơ sở xác định số liệu cần thiết phải điều chỉnh cho các khoản mục hàng tồn kho và lỗ lũy kế trên bảng cân đối kế toán ngày 31/12/2018.

Bên cạnh đó PVX có khoản cho vay là bảo lãnh cho một số công ty khác với số tiền lần lượt khoảng 466,5 tỷ đồng và khoảng 237,9 tỷ đồng. Tại ngày lập báo cáo hợp nhất, Tổng công ty đang tiếp tục làm việc với các công ty được cho vay, được bảo lãnh và các tổ chức tín dụng để thu hồi các khoản cho vay và giải tỏa thư bảo lãnh nhằm tăng khả năng thanh toán của PVX.

Kiểm toán cũng đưa ra các vấn đề nhấn mạnh liên quan đến khoản lỗ lũy kế hợp nhất 3.686 tỷ đồng, nợ phải trả ngắn hạn vượt quá tài sản ngắn hạn khoản 248 tỷ đồng và các vấn đề khác có thể ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của Tổng công ty trong 12 tháng tới.