Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài của Tòa án Việt Nam

Đánh giá về thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [136.23 KB, 11 trang ]

ĐẶT VẤN ĐỀ
Để điều chỉnh và giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, cách phổ biến là quốc gia
xây dựng các quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật của mình và trong các điều
ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Tức là quốc gia quốc gia đó thừa nhận và
cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài tại quốc gia mình. Vậy với Việt Nam, có hay
không việc thừa nhận và cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam? Và
nếu có thì thực tiễn áp dụng đó như thế nào? Để tìm hiểu về vấn đề này nhóm 3 xin
trình bày đề tài:
“Đánh giá về thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam”

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

Khái quát chung về áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế và sự
cần thiết của việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam
1. Khái quát chung về áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế
a. Mục đích và nguyên tắc áp dụng
Xuất phát từ xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, các quan hệ dân sự
quốc tế đã diễn ra ngày càng phổ biến. Để điều chỉnh và giải quyết các quan hệ này,
đồng thời góp phần dung hòa lợi ích của các quốc gia mình với các quốc gia có liên
quan, đảm bảo sự ổn định, củng cố, tăng cường và thúc đẩy sự phát triển hợp tác về
mọi mặt trong giao lưu dân sự giữa các quốc gia vì sự thịnh vượng chung của cả thế
giới, các quốc gia đã thừa nhận và cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam,việc áp dụng pháp luật nước ngoài tuân thủ
theo hai nguyên tắc:
Thứ nhất, không áp dụng pháp luật nước ngoài có nội dung hoặc hệ quả trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, việc áp dụng phải thống nhất trong mối quan hệ tổng thể của hệ thống
pháp luật nước xây dựng các quy phạm đó.
1



b.

Các trường hợp liên quan đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài
Liên quan đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế bao gồm
ba trường hợp sau:
Thứ nhất, vấn đề bảo lưu trật tự công cộng: Bảo lưu trật tự công cộng có thể được
hiểu là việc mỗi quốc gia bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của quốc gia mình. Theo nội
dung của điều khoản bảo lưu thì khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết các quan hệ
dân sự quốc tế, pháp luật nước ngoài sẽ không được áp dụng để giải quyết nếu việc áp
dụng đó mâu thuẫn với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật trong nước. Vấn đề
bảo lưu trật tự công cộng sẽ dẫn đến hệ quả pháp lí là làm mất hiệu lực của quy phạm
xung đột. Hay nói cách khác, khi áp dụng bảo lưu trật tự công cộng thì luật nước
ngoài sẽ bị gạt bỏ không áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột, nếu việc
áp dụng đó chống lại trật tự công cộng của nước mình.
Thứ hai, vấn đề lẩn tránh pháp luật: Lẩn tránh pháp luật là hiện tượng đương sự
dùng những biện pháp cũng như thủ đoạn để thoát khỏi hệ thống pháp luật đáng nhẽ
phải được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ của họ và nhằm tới một hệ thống pháp
luật khác có lợi hơn cho mình. Lẩn tránh pháp luật sẽ làm mất hiệu lực của quy phạm
xung đột. Và để lẩn tránh pháp luật, đương sự có thể dùng nhiều biện pháp, thủ đoạn
lẩn tránh như: di chuyển trụ sở, thay đổi nơi cư trú, thay đổi quốc tịch, chuyển động
sản thành bất động sản...Ở các nước khác nhau lại có các quan điểm khác nhau về vấn
đề này. Với Việt Nam, mọi hành vi lẩn tránh pháp luật sẽ đều bị coi là hành vi phạm
pháp, hành vi đó ở Việt Nam không có ý nghĩa pháp lí.
Thứ ba, vấn đề dẫn chiếu: khi có sự xung đột giữa các hệ thuộc luật trong các quy
phạm xung đột của các nước hoặc có sự khác biệt trong việc giải thích các hệ thuộc
luật của các nước có thể làm phát sinh dẫn chiếu. Vấn đề này bao gồm hai nội dung là:
Dẫn chiếu ngược, tức là theo quy phạm xung đột mà cơ quan có thẩm quyền áp dụng
thì pháp luật nước ngoài cần được áp dụng để giải quyết một quan hệ tư pháp quốc tế
cụ thể nhưng trong pháp luật nước ngoài đó lại có quy phạm xung đột quy định áp


2


dụng pháp luật của nước có cơ quan có thẩm quyền; Dẫn chiếu đến pháp luật của
nước thứ ba, tức là theo quy phạm xung đột của nước có cơ quan giải quyết tranh chấp
thì pháp luật của nước ngoài phải được áp dụng nhưng trong pháp luật nước ngoài đó
lại có quy phạm xung đột quy định cần phải áp dụng pháp luật của nước thứ ba. Tuy
nhiên, dù là dẫn chiếu ngược hay dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba cũng đều sẽ
làm hạn chế hiệu lực của quy phạm xung đột. Hiện nay trên thế giới có hai luồng quan
điểm về vấn đề dẫn chiếu này, luồng quan điểm thứ nhất là chấp nhận dẫn chiếu [Việt
Nam theo quan điểm này] và luồng quan điểm thứ hai là không chấp nhận dẫn chiếu.
Thứ tư, vấn đề có đi có lại: thực chất, ở đại đa số các nước trên thế giới, vấn đề áp
dụng pháp luật nước ngoài không phụ thuộc vào nguyên tắc có đi có lại, đồng nghĩa
rằng khi cơ quan tư pháp hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào đó vận dụng
pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc sẽ không cần thiết phải xem xét là ở nước
ngoài đó có áp dụng pháp luật của nước mình chưa. Vấn đề có đi có lại trong áp dụng
pháp luật nước ngoài cũng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của quy phạm xung
đột. Tuy nhiên, ngoại lệ ở một vài nước trên thế giới, vấn đề áp dụng pháp luật nước
ngoài vẫn đòi hỏi phải trên nguyên tắc có đi có lại. Chẳng hạn, quy định tại Điều 25
Bộ luật dân sự của Đức năm 1986.
2.

Sự cần thiết của việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam
Áp dụng quy phạm xung đột hay áp dụng pháp luật nước ngoài là đòi hỏi tất yếu
khách quan của mỗi quốc gia trong xu thế toàn cầu hóa và là đặc thù của tư pháp quốc
tế. Khi xuất hiện quan hệ tư pháp quốc tế thì hiện tượng xung đột pháp luật sẽ xảy ra
vì khi đó hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh và
vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài được đặt ra khi có quy phạm xung đột dẫn chiếu
tới vì quy phạm này xác định hệ thống pháp luật cụ thể nào có thể được áp dụng để
điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài hoặc có thể do các đương sự thỏa


thuận áp dụng pháp luật nước ngoài. Quy phạm xung đột có thể được xây dựng trong
hệ thống hệ thống pháp luật của quốc gia hoặc trong các điều ước quốc tế mà quốc gia
3


tham gia gồm cả điều ước quốc tế song phương và đa phương. Nói khác đi, việc một
quốc gia cho phép hay không việc áp dụng pháp luật nước ngoài ở quốc gia mình là
hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của quốc gia đó, xuất phát từ yêu cầu của quốc gia
trong quá trình bảo về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như pháp
nhân của nước mình, của chính quốc gia trong giao lưu dân sự quốc tế.
Đáp ứng xu thế tất yếu này của tư pháp quốc tế, cũng như các quốc gia khác trên
thế giới, Việt Nam cũng thừa nhận và cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài để điều
chỉnh và giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế mà quốc gia có liên quan, thể hiện sự
đối xử của quốc gia với luật nước ngoài là ngang tầm quan trọng với luật trong nước,
qua đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự cũng như thúc đẩy
sự phát triển của giao lưu dân sự quốc tế, góp phần thực hiện chính sách hội nhập kinh
tế quốc tế của quốc gia. Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam
cũng phải được xác định trong phạm vi nhất định, đó là phải luôn xuất phát và trên cơ
sở của chủ quyền quốc gia, sự bình đẳng chủ quyền với các quốc gia khác và đồng
thời phải đảm bảo hiệu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái với
những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa và nền tảng pháp luật của nước
mình. Chẳng hạn, Tòa án Việt Nam sẽ phải tính đến việc áp dụng pháp luật nước
ngoài trong chừng mực để bảo vệ quyền lợi của vợ chồng và lợi ích của con cái họ
trong trường hợp hai vợ chồng là hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau ở Pháp. Họ
có 1 con trai, 1 con gái cùng bất động sản và động sản tại Pháp. Sau hơn 20 năm cùng
chung sống ở Pháp, cho đến khi về Việt Nam sinh sống, chỉ sau khoảng 1 năm thì hai
vợ chồng lại xin ly hôn tại tòa án Việt Nam. Như vậy, để giải quyết vụ việc này Tòa
án Việt Nam phải xét tới việc áp dụng pháp luật nước ngoài [Cụ thế là pháp luật
Pháp], xét việc công nhận việc kết hôn của hai công dân Việt Nam ở Pháp là hợp pháp
hay không. Và tài sản của họ ở Pháp là tài sản hợp pháp hay không.


Thực tế các quy định của pháp luật Việt Nam về sự thừa nhận cho phép áp dụng
pháp luật nước ngoài tại Việt Nam được quy định trong các văn bản pháp luật khác
4


nhau của hệ thống pháp luật như: Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật dân sự
2005, Luật hàng không dân dụng 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2014….. Dù không quy
định cụ thể việc các bên tham gia quan hệ được lựa chọn pháp luật áp dụng đối với
một phần hay toàn bộ quan hệ giữa các bên nhưng về cơ bản pháp luật Việt Nam cho
phép các bên tham gia quan hệ dân sự quốc tế có quyền lựa chọn áp dụng pháp luật
nước ngoài. Chẳng hạn quy định tại Khoản 3 Điều 759 Bộ luật dân sự 2005: “3.
Trong trường hợp bộ luật này, các văn bản khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hoặc Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật của nước đó được áp
dụng, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;…….Pháp luật nước
ngoài cũng được áp dụng trong trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng,
nếu sự thỏa thuận đó không trái với các quy định của Bộ luật này và các văn bản
pháp luật khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Có thể nói, việc áp dụng pháp luật nước ngoài là Việt Nam là rất cần thiết và việc
áp dụng đó được thực hiện trên ba cơ sở là: Khi có quy phạm xung đột trong Điều ước
quốc tế quy định; hoặc khi có quy phạm xung đột trong văn bản pháp luật quốc gia
quy định; hoặc cũng có thể là khi có sự thỏa thuận lựa chọn của các bên đương sự.
II.
1.

Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam
Thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam
Trong thời gian qua,Việt Nam đã tham gia kí kết 23 Hiệp định tương trợ tư pháp
về dân sự và các lĩnh vực có liên quan trong đó có một số quy định nhằm quy định cụ


thể hơn việc áp dụng pháp luật nước ngoài.
Việt Nam cũng đã ban hành các văn bản pháp luật trong đó có những quy định rõ
ràng các trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài như Bộ luật dân sự 2005 [Điều
759], Luật thương mại 2005 [Điều 5], Luật hôn nhân và gia đình năm 2014,…......
5


Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các quan
hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam của các Tòa án và trọng
tài Việt Nam là rất hãn hữu và do vậy nên kinh nghiệm của Tòa án, trọng tài Việt
Nam trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các quan hệ dân sự theo
nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài là gần như chưa có. Mặc dù việc áp dụng pháp luật
nước ngoài trên cơ sở dẫn chiếu của quy phạm xung đột có thể bảo vệ tốt hơn quyền
và lợi ích chính đáng của các bên nhưng thực tế, khi có vụ việc dân sự liên quan đến
các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài xảy ra, nếu các bên không có
thỏa thuận gì về pháp luật điều chỉnh thì tòa án Việt Nam có xu hướng chung là áp
dụng pháp luật luôn pháp luật Việt Nam để giải quyết. Thậm chí, có trường hợp tòa án
Việt Nam thụ lý nhưng liên quan đến một vấn đề được điều chỉnh bởi pháp luật nước
ngoài thì lại từ chối thẩm quyền giải quyết. Chẳng hạn, vụ việc tòa án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh từ chối thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp xảy ra giữa Công ty
Kolon [Hàn Quốc] và công ty Vinafood [Việt Nam] về vấn đề bồi thường liên quan
đến hợp đồng mua bán một số lượng phân bón, xuất xứ Hoa Kỳ giữa hai công ty xảy
ra cách đây khá lâu. Đúng như trước đó tác giả Nguyễn Công Khanh trong một bài
đăng của mình trên tạp chí Dân chủ và pháp luật đã nói: “tòa án và các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam khi giải quyết những vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài, thường chỉ áp dụng pháp luật Việt Nam, hầu như rất hãn hữu, nếu không
muốn nói là chưa bao giờ áp dụng pháp luật nước ngoài, mặc dù đã được quy phạm
xung đột dẫn chiếu”[1]. Hay tại hội thảo “Một số vấn đề thực tiễn về quan hệ nhân thân
và quan hệ tài sản trong Tư pháp quốc tế”, thẩm phán Ngô Thị Minh Ngọc đã thừa
nhận “Chúng tôi chưa bao giờ áp dụng pháp luật nước ngoài khi giải quyết tranh chấp


dân sự hay ly hôn”[2].
Có thể thấy, các quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước
ngoài tại Việt Nam mới chỉ dừng lại ở lý thuyết và rất hạn chế trong việc áp dụng,
dường như mới chỉ được khai thác chủ yếu dưới góc độ nghiên cứu, giảng dạy. Tại
6


Việt Nam, có chăng việc áp dụng pháp luật nước ngoài mới chỉ xuất hiện ở một số
lĩnh vực về hành chính như đăng ký kết hôn giữa người nước ngoài với công dân Việt
Nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài..........Như vậy, có thể nói việc áp dụng pháp luật nước ngoài trên thực tiễn Việt
Nam là chưa đạt hiệu quả.

[1] Nguyễn Công Khanh, “Mấy ý kiến sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí dân chủ và pháp luật tháng 1/2001.

[2] Kỷ yếu hội thảo quyền nhân thân và tài sản trong tư pháp quốc tế”, Nhà pháp luật Việt Pháp 2005.

2. Nguyên nhân của những tồn tại trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt

Nam và một số kiên nghị hoàn thiện
a. Nguyên nhân

Sở dĩ việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam còn rất hạn chế dù là do:
Pháp luật Việt Nam đã có quy định về vấn đề này nhưng các quy định đó mới chỉ
dừng lại ở mức độ chung, mang tính khái quát, thường dưới dạng:” theo quy định của
Chính phủ”. Và sau khi các quy định trong các luật, bộ luật.. được ban hành lại còn
cần chờ được hướng dẫn thi hành bởi các nghị quyết, thông tư...thì mới có thể được
thi hành trên thực tế. Đồng nghĩa rằng phải mất rất nhiều thời gian để cac quy định về
việc áp dụng pháp luật nước ngoài này được ban hành và hướng dẫn thi hành để áp


dụng được trên thực tế, trong khi các quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng có yếu
tố nước ngoài diễn ra ngày càng phổ biến trên thực tế và đòi hỏi phải được giải quyết
nhanh chóng và kịp thời. Chưa kể đến việc các quy định đã được ban hành còn có thể
có tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, trong cùng một vấn đề nhưng lại có nhiều văn
bản pháp luật khác nhau cùng quy định. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, chủ thể
7


nghiên cứu và áp dụng pháp luật nước ngoài lại chưa có kinh nghiệm xét xử, chưa
thực sự đáp ứng được yêu cầu mới cả về số lượng và chất lượng.
Theo các quy định của pháp luật Việt Nam, nước ta chỉ hạn chế áp dụng pháp luật
nước ngoài khi quy phạm xung đột dẫn chiếu tới trong trường hợp việc áp dụng hoặc
hậu quả của việc áp dụng trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Đoạn 2 Khoản 3 Điều 759 BDLS năm 2005 có quy định: “Pháp luật nước ngoài cũng
được áp dụng trong trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng, nếu sự thỏa
thuận đó không trái với quy định của Bộ luật này và các văn bản pháp luật khác của
Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Câu hỏi đặt ra ở đây là nếu sự thỏa thuận của
các bên trong hợp đồng không trái với pháp luật Việt Nam nhưng trái với điều ước
quốc tế mà Việt nam là thành viên thì sao? Điều này hoàn toàn có thể xảy ra trên thực
tế. Ví dụ: 1 Công ty mang quốc tịch Anh [có trụ sở ở Anh] kí hợp đồng với một công
ty mang quốc tịch Việt nam [trụ sở ở Việt Nam]. Trong hợp đồng thỏa thuận pháp luật
áp dụng cho nội dung hợp đồng là pháp luật Mỹ. Giả định rằng giữa Việt Nam và Anh
có một điều ước quốc tế về vấn đề này trong đó quy định đối với hợp đồng giữa
thương nhân hai nước thì luật áp dụng để giải quyết cho nội dung hợp đồng là pháp
luật nước ký kết có tòa án thụ lý vụ việc. Vậy thì trong trường hợp này, việc thỏa
thuận giữa hai bên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam nhưng
nó lại trái với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên [với quy định của điều ước
thì rõ ràng không cho phép các bên thỏa thuận về lựa chọn pháp luật].
b. Một số kiến nghị hoàn thiện


Để khắc phục những hạn chế còn tồn tại và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng
pháp luật nước ngoài tại Việt Nam, nhóm 3 xin trình bày một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, cần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại
Việt Nam: Các quy định trong các văn bản pháp luật cần được quy định một cách cụ
8


thể, rõ ràng, nên quy định việc giải quyết một vấn đề trong cùng một văn bản, giảm
dần việc phải ban hành thêm các văn bản pháp luật khác để hướng dẫn thi hành các
quy định đã có. Các hiệp định tương trợ tư pháp cần phải quy định một cách rõ ràng
và cụ thể về các trường hợp áp dụng pháp luật nước kia để vừa thuận tiện và hiệu quả
trong quá trình giải quyết, vừa tránh xung đột pháp luật.
Thứ hai, nâng cao trình độ, năng lực của các cán bộ trong các cơ quan áp dụng
pháp luật, đáp ứng xu thế mới cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ. Đồng
thời các cơ quan có thẩm quyền cần áp dụng pháp luật nước ngoài một cách thiện chí,
trung thực, đầy đủ. Không thể chỉ áp dụng những quy phạm hay nội dung mang tính
chất có lợi cho các chủ thể mang quốc tịch của quốc gia mình hoặc cố tình hiểu sai
lệch ý nghĩa của các quy phạm pháp luật nước ngoài.
Thứ ba, trong xu thế toàn cầu hóa và tăng cường hợp tác, các quốc gia phải thực
hiện các cam kết của mình một cách tận tâm, thiện chí. Nếu quốc gia nào thiếu thân
thiện trong việc thực hiện các cam kết thì chính họ sẽ bị giảm sút uy tín.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế nói chung và trong tư
pháp quốc tế Việt Nam nói riêng là vấn đề khá phức tạp và trong xu thế toàn cầu hóa
thì đây là nhu cầu và đòi hỏi tất yếu của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trên
đây là phần trình bày của nhóm 3 về một số vấn đề liên quan đến vấn đề này nước tại
Việt Nam. Rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài làm được hoàn
thiện hơn.


9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.

Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB. ...
Ths. Bùi Thị Thu [Chủ biên], giáo trình Luật tư pháp quốc tế, Nxb. Giáo dục Việt

Nam, Hà Nội, 2010.
3. TS. Nguyễn Hồng Bắc, Hướng dẫn học môn tư pháp quốc tế, Nxb........
4. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà Nội, 2009: Áp dụng pháp luật ở Việt Nam
hiện nay. Bài viết: “Áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam” của TS. Nguyễn
Hồng Bắc.
5. Nguyễn Bá Diến [chủ biên], giáo trình Tư pháp quốc tế, Khoa luật – Đại học quốc gia
Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2003.
6. Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011.
7. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
8. Nguyễn Công Khanh, “Mấy ý kiến sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí dân chủ và pháp luật tháng
1/2001.
9. Kỷ yếu hội thảo quyền nhân thân và tài sản trong tư pháp quốc tế”, Nhà pháp luật Việt
Pháp 2005.
10. TS. Đỗ Văn Đại và PGS. TS. Mai Hòng Qùy, “Tư pháp quốc tế Việt Nam”, Nxb.
Chính trị quốc gia, 2001.

10



MỤC LỤC

11



Áp dụng PLDS nước ngoài tại VN, so sánh với PL một số QG

20 Th8 2019

Kiều Hoa Nguyễn

Bài chuyên đề, Tin tức

1

Áp dụng pháp luật dân sự nước ngoài tại Việt Nam, so sánh với pháp luật của một số quốc gia

Ths. PHÙNG HỒNG THANH [Giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh]

Bài viết này tập trung phân tích, đánh giá nội dung các quy định của BLDS 2015 về vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài, đồng thời trên cơ sở so sánh với pháp luật của một số quốc gia nhằm đưa ra định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam.

Đặt vấn đề

Khác với những quan hệ dân sự không có yếu tố nước ngoài, chỉ cần áp dụng hệ thống pháp luật Việt Nam để điều chỉnh; khi giải quyết những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, Toà án Việt Nam trong nhiều trường hợp cần phải áp dụng pháp luật nước ngoài. Đây là vấn đề có đầy đủ cơ sở lý luận và đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của quốc gia. Tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau, vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài vẫn là một thách thức đối với Toà án Việt Nam và những quy định của pháp luật về vấn đề này vẫn chưa phát huy hiệu quả trong thực tiễn xét xử. Trong tiến trình hội nhập nền kinh tế quốc tế ở mức độ cao hơn và sâu sắc hơn, nếu những bất cập trong vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài khi Toà án xét xử những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài vẫn còn tồn tại thì sẽ gây những trở ngại không nhỏ cho các chủ thể có liên quan. Vô hình trung sẽ ảnh hưởng đến môi trường pháp lý thuận lợi mà Việt Nam đang xây dựng nhằm thu hút nhiều hơn nữa những chủ thể nước ngoài tham gia.

Bộ luật dân sự [BLDS] Việt Nam 2015 chính thức có hiệu lực vào ngày 01 /01 / 2017, với những thay đổi đáng kể trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, chẳng hạn như: bổ sung các quy định về cách thức áp dụng pháp luật nước ngoài, các trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài, phạm vi dẫn chiếu của quy phạm xung đột,… Tuy nhiên, dưới góc độ so sánh với pháp luật các nước thì các quy định của BLDS 2015 vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập cần phải hoàn thiện.

Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài – dưới góc độ so sánh với pháp luật của một số nước

1.1.Điều kiện áp dụng pháp luật nước ngoài

Điều kiện để pháp luật nước ngoài được áp dụng tại Việt Nam được ghi nhận tại Điều 664, 668, 670 BLDS 2015. Với các quy định này, nhìn chung pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng tại Việt Nam nếu thoã mãn hai điều kiện sau đây:

Thứ nhất, pháp luật nước ngoài chỉ được áp dụng trong những trường hợp được pháp luật quy định. Cụ thể là pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng khi Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam có quy định; hoặc pháp luật nước ngoài được áp dụng nếu Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam có quy định các bên có quyền lựa chọn pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Đây được xem là điều kiện tiên quyết để Toà án xem xét việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong một vụ việc cụ thể. Mặc dù việc chấp nhận áp dụng pháp luật nước ngoài hay không, chấp nhận áp dụng đối với những quan hệ nào, hoàn toàn thuộc chủ quyền của quốc gia. Tuy nhiên, cơ quan có thẩm quyền của quốc gia, cụ thể ở đây là Toà án, không thể áp dụng một cách tuỳ tiện cũng như từ chối áp dụng một cách tuỳ tiện.

Như vậy, với quy định trên có thể khẳng định rằng pháp luật nước ngoài chỉ có thể được áp dụng tại Việt Nam nếu thuộc 1 trong 3 trường hợp: [i] quy phạm xung đột trong Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định áp dụng pháp luật nước ngoài [ii] quy phạm xung đột trong pháp luật Việt Nam quy định áp dụng pháp luật nước ngoài [iii] các bên thoả thuận lựa chọn pháp luật nước ngoài.

Góc so sánh:

Hiện nay, vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đều được thừa nhận rộng rãi trong tư pháp quốc tế của các quốc gia trên thế giới. Cũng giống như quy định của pháp luật Việt Nam, các quốc gia cũng ban hành những điều kiện để pháp luật nước ngoài được áp dụng tại quốc gia họ. Lấy ví dụ điển hình như Điều 14 Luật Tư pháp quốc tế của Thuỵ Sỹ năm 1987 [sửa đổi năm 2014][2] quy định trong trường hợp luật áp dụng cho quan hệ dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài khác thì pháp luật nước ngoài đó sẽ được áp dụng phù hợp với những quy định của luật Tư pháp quốc tế Thuỵ Sỹ.

Hay Điều 116 của bộ luật này cũng quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng là luật do các bên trong hợp đồng lựa chọn [bao gồm cả pháp luật nước ngoài]; Điều 3 và Điều 41 luật Tư pháp quốc tế của Trung Quốc năm 2010 [3] cũng ghi nhận việc cho phép các bên trong quan hệ hợp đồng lựa chọn luật áp dụng cho quan hệ của mình, phù hợp với quy định của pháp luật Trung Quốc; Điều 4 Quy định Rome I [4] về luật áp dụng đối các nghĩa vụ theo hợp đồng quy định trong trường hợp các bên không lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá thì hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật của nước nơi người bán cư trú thường xuyên. Đây là quy phạm xung đột trong Điều ước quốc tế ghi nhận trường hợp Toà án quốc gia áp dụng luật nước ngoài để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng nếu hợp đồng đó có mối liên hệ gắn bó một cách rõ ràng với một quốc gia nước ngoài.

Tuy nhiên trường hợp các bên trong hợp đồng lựa chọn pháp luật nước ngoài để áp dụng cho

hợp đồng thì việc lựa chọn này cần phải tuân thủ theo các điều kiện nhất định hay còn được gọi là điều kiện chọn luật. Có thể khái quát các điều kiện chọn luật được hầu hết các nước ghi nhận như sau: việc lựa chọn pháp luật không được trái với quy định của pháp luật nước có Toà án xét xử vụ việc [5]; luật được chọn phải là luật thực chất [6]; việc chọn luật không nhằm lẩn tránh pháp luật…

Thứ hai, pháp luật nước ngoài chỉ được áp dụng nếu thỏa mãn điều kiện nếu hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam [7] . Về bản chất, điều kiện này đã kế thừa tinh thần của Điều 759 BLDS 2005, tuy nhiên cũng có sự thay đổi nhỏ. Thay vì quy định “việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam” thì điều luật mới chỉ quy định về “hậu quả của việc áp dụng…”. Sự thay đổi này khiến cho điều luật trở nên mạch lạc và dễ hiểu, dễ áp dụng hơn so với cách quy định cũ.

Đây là điều kiện quan trọng nhằm bảo vệ nguyên tắc cơ bản của quốc gia có Toà án không bị ảnh hưởng bởi pháp luật nước ngoài.

Bên cạnh điểm tiến bộ của BLDS 2015 trong cách quy định về điều kiện này, vẫn tồn tại những điểm chưa đồng nhất trong cách quy định của các văn bản pháp luật Việt Nam. Cụ thể, khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại 2005 quy định: “Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.”; hay khoản 3 Điều 5 Bộ luật Hàng hải 2015 quy định: “luật nước ngoài có thể được áp dụng tại Việt Nam đối với quan hệ hợp đồng liên quan đến hoạt động hàng hải, nếu luật đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Thông qua những điều luật trên có thể thấy điều kiện áp dụng pháp luật nước ngoài thứ hai này được thể hiện dưới nhiều hình thức và cách quy định khác nhau ở mỗi văn bản pháp luật. Ở BLDS 2015, điều kiện được ghi nhận là hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, thế nhưng một số văn bản pháp luật chuyên ngành khác lại khẳng định luật nước ngoài chỉ được áp dụng nếu bản thân nội dung pháp luật nước ngoài đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Việc quy định không đồng nhất như hiện nay sẽ dẫn đến những cách hiểu và những cách vận dụng khác nhau trên thực tế khi Toà án cần áp dụng pháp luật nước ngoài. Vì vậy có thể xem đây là điểm chưa hợp lý trong cách xây dựng các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này.

Bên cạnh đó, khái niệm “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” vẫn được ghi nhận theo những quy định trước đây. Hiện nay chưa có một văn bản cụ thể nào giải thích một cách chính thức như thế nào là nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Theo ý kiến chủ quan của tác giả, cần có văn bản giải thích khái niệm này để Toà án có thể dễ dàng áp dụng trên thực tế cũng như tránh sự tuỳ tiện khi giải quyết vụ việc.

Bên cạnh những quy định về điều kiện áp dụng pháp luật nước ngoài thì BLDS 2015 còn quy định riêng về các trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài tại Điều 670. Ngoài trường hợp không thoả mãn điều kiện áp dụng pháp luật nước ngoài đã được phân tích ở trên, trường hợp Toà án không thể xác định được nội dung pháp luật nước ngoài mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng thì pháp luật nước ngoài cũng sẽ không được Toà án Việt Nam áp dụng. Điểm tiến bộ của quy định này là nhà làm luật đã dự liệu và ngăn chặn được tình huống người làm công tác áp dụng pháp luật không thể từ chối việc áp dụng pháp luật nước ngoài một cách tuỳ tiện, mà trước đó phải áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng về xác định pháp luật nước ngoài [8]. Trong tình huống pháp luật nước ngoài không được áp dụng theo những quy định trên đây thì pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng [9].

Đây là hướng quy định phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng hướng quy định trên không thật sự mới vì từ rất lâu đã có ý kiến cho rằng “nếu cơ quan xét xử tìm kiếm và có yêu cầu sự trợ giúp của các bên đương sự nhưng không đạt được kết quả thì pháp luật Việt Nam được áp dụng” [10].

1.2.Xác định nội dung pháp luật nước ngoài

Bản chất của việc áp dụng pháp luật nước ngoài là quá trình Toà án của quốc gia vận dụng, áp

dụng các quy phạm pháp luật cụ thể trong hệ thống pháp luật của một quốc gia khác hoặc các tiểu bang, vùng lãnh thổ của quốc gia khác để giải quyết một quan hệ hay một vấn đề pháp lý cụ thể trong Tư pháp quốc tế. Như vậy, quá trình này phải được tiến hành theo những nguyên tắc nhất định nhằm thể hiện sự tôn trọng hệ thống pháp luật của quốc gia nước ngoài. Toà án không thể áp dụng pháp luật nước ngoài một cách tuỳ tiện theo cách hiểu hay theo cách giải thích của bản thân mình, điều này sẽ làm sai lệch bản chất và phần nào làm ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của pháp luật nước ngoài.

Những văn bản pháp luật của Việt Nam trước đây đều chưa ghi nhận những nguyên tắc cũng như những quy định cụ thể đối với việc áp dụng pháp luật nước ngoài của Toà án. Đây là một trong những trở ngại lớn khi Toà án giải quyết những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, khuyết điểm này đã được khắc phục bằng những quy định cụ thể của BLDS 2015 và BLTTDS 2015. Về trách nhiệm xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài: Quy định tại Điều 481 BLTTDS 2015 là một quy định hoàn toàn mới trong Tư pháp quốc tế Việt Nam.

Quy định này đã xác định rõ trách nhiệm của đương sự cũng như các cơ quan Nhà nước trong việc cung cấp và xác định pháp luật nước ngoài. Theo đó, trong trường hợp các đương sự lựa chọn pháp luật nước ngoài để áp dụng thì nghĩa vụ cung cấp pháp luật nước ngoài cho Toà án giải quyết vụ việc dân sự thuộc về các bên. Các đương sự phải chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp pháp của pháp luật nước ngoài đã cung cấp. Trong trường hợp này, các cơ quan Nhà nước như Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài chỉ có trách nhiệm cung cấp pháp luật nước ngoài khi được Tòa án Việt Nam yêu cầu.

Ngược lại, trong trường hợp pháp luật nước ngoài cần được áp dụng theo sự chỉ dẫn của quy phạm xung đột trong pháp luật Việt Nam hoặc trong Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì việc cung cấp pháp luật nước ngoài là quyền chứ không phải nghĩa vụ của các đương sự. Trong trường hợp này, Toà án có quyền yêu cầu các cơ quan chức năng của Việt Nam cung cấp pháp luật nước ngoài. Toà án cũng có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn về pháp luật nước ngoài cung cấp thông tin về pháp luật nước ngoài. Tuy nhiên, thông qua điều luật này có thể thấy pháp luật Việt Nam không trực tiếp quy định về trách nhiệm của Toà án Việt Nam trong việc tìm kiếm và xác định nội dung pháp luật nước ngoài. Điều này có thể sẽ là một kẽ hở dẫn đến việc Toà án bỏ qua việc áp dụng pháp luật nước ngoài khi giải quyết các tranh chấp về hợp đồng thương mại quốc tế.

Về cách thức xác định nội dung pháp luật nước ngoài:

[i] Trường hợp pháp luật nước ngoài được áp dụng nhưng có cách hiểu khác nhau
Liên quan đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài nhưng có nhiều cách hiểu khác nhau, Điều 667 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp pháp luật nước ngoài được áp dụng nhưng có cách hiểu khác nhau thì việc áp dụng phải theo sự giải thích của cơ quan có thẩm quyền tại nước đó”. Đây là quy định hoàn toàn mới so với BLDS 2005 và là một quy định hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài. Việc Toà án áp dụng pháp luật nước ngoài cần phải tuân thủ theo đúng cách thức, tinh thần giải thích, áp dụng những quy định pháp luật đó tại chính quốc gia nơi nó được ban hành. Toà án Việt Nam khi áp dụng pháp luật nước ngoài không được tuỳ tiện giải thích những quy định của pháp luật nước ngoài theo nguyên tắc pháp luật Việt Nam.

Điều đó có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền không thể dùng tư duy pháp lý, cách thức giải thích, cách thức áp dụng của luật quốc gia mình để giải thích và áp dụng pháp luật nước ngoài. Đây là nguyên tắc chung được thừa nhận rộng rãi ở các nước. Khi Toà án của mỗi nước áp dụng pháp luật nước ngoài mà áp dụng theo cách hiểu riêng của mình thì sẽ dẫn đến hệ quả là pháp luật nước ngoài không được áp dụng một cách thống nhất, không bảo đảm giá trị của pháp luật. Vì vậy nguyên tắc này ràng buộc Toà án của các nước dù trong hoàn cảnh, điều kiện nào, ở quốc gia nào thì việc áp dụng một hệ thống pháp luật nào đó phải luôn cho ra một kết quả giống như pháp luật đó được áp dụng tại quốc gia đã ban hành. Nhằm khẳng định nguyên tắc này, W. Goldschmidt, học giả người Đức đã nhận xét “Nếu đối với pháp luật quốc gia, thẩm phán tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật với tư cách là một kiến trúc sư, thì đối với pháp luật nước ngoài, thẩm phán chỉ là một nhiếp ảnh gia. Thẩm phán áp dụng pháp luật quốc gia và dập khuôn pháp luật nước ngoài.” [11]

[ii]Trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài có nhiều hệ thống pháp luật

Trong quá trình áp dụng pháp luật nước ngoài, Toà án có thể gặp tình trạng quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài nhưng tại quốc gia có hệ thống pháp luật nước ngoài đó tồn tại các hệ thống pháp luật khác nhau. Ví dụ, trong Nhà nước liên bang, bên cạnh pháp luật của liên bang, mỗi một bang đều có pháp luật của mình. Vì vậy đối với những Nhà nước liên bang, ví dụ như Hoa Kỳ, cần xác định quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật của liên bang hay pháp luật của tiểu bang? Về nguyên tắc, xung đột pháp luật được nghiên cứu trong Tư pháp quốc tế dưới góc độ chọn luật áp dụng giữa các hệ thống pháp luật của các quốc gia có chủ quyền. Do đó, cần tôn trọng các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong nội bộ của các quốc gia đối với các nhà nước liên bang và đối với các quốc gia cho phép tồn tại nhiều hơn một hệ thống pháp luật. Trong trường hợp này, việc xác định hệ thống pháp luật nào được áp dụng cần tuân theo nguyên tắc xác định pháp luật do chính quốc gia nước ngoài đó quy định. Vấn đề này được ghi nhận tại Điều 669 BLDS 2015 “Trường hợp pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật được dẫn chiếu đến thì pháp luật áp dụng được xác định theo nguyên tắc do pháp luật nước đó quy định.” Đây là một quy định mới được đưa vào BLDS 2015 và là quy định phù hợp với Tư pháp quốc tế của nhiều nước [12].

Góc so sánh:

*Pháp luật Liên minh Châu Âu

Liên quan đến việc xác định nội dung pháp luật nước ngoài, Quy định Rome I đã đề cập tại Điều 22, cụ thể là trường hợp pháp luật nước ngoài được xác định để áp dụng điều chỉnh hợp đồng bao gồm nhiều hệ thống pháp luật của các khu vực lãnh thổ trong cùng Nhà nước đó. Trong trường hợp này, mỗi đơn vị lãnh thổ có những quy định pháp luật riêng thì pháp luật của lãnh thổ đó được xem là pháp luật của một quốc gia trong việc xác định pháp luật áp dụng cho hợp đồng. Với cách quy định này, Quy định đã để cho chính các quốc gia thành viên của Liên minh Châu Âu được tự xác định nguyên tắc xác định pháp luật giữa các lãnh thổ nội bộ của họ. Theo đó, nếu tranh chấp liên quan đến hai hay nhiều hệ thống pháp luật của Anh, Wales, Scotland và Bắc Ireland thì việc xác định pháp luật áp dụng cho hợp đồng thương mại quốc tế sẽ phụ thuộc vào quy định của pháp luật Vương quốc Anh [UK]. [13]

Bên cạnh Quy định Rome I, một văn bản khác có vai trò vô cùng quan trọng quy định về vấn đề xác định nội dung pháp luật nước ngoài là Công ước Liên minh Châu Âu về cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài. [14]

Bất kỳ một yêu cầu cung cấp thông tin nào cũng phải được khởi xướng từ một cơ quan có thẩm quyền mặc dù yêu cầu đó có thể không xuất phát từ nhu cầu của cơ quan này. Và yêu cầu này chỉ có thể được xác lập khi vụ việc có liên quan đã chính thức được tiếp nhận và trong quá trình giải quyết. [15] Điều này được hiểu là trong quá trình giải quyết tranh chấp, bất kỳ chủ thể nào có liên quan cũng có thể phát sinh nhu cầu được cung cấp thông tin về pháp luật nước ngoài nhưng tất cả những nhu cầu đó đều phải được chuyển đến cơ quan có thẩm quyền [cơ quan tiếp nhận] và cơ quan này sẽ thực hiện những công đoạn tiếp theo, các chủ thể khác không có thẩm quyền sẽ không được tự gửi đi những yêu cầu như thế. Yêu cầu này sẽ được chuyển trực tiếp cho cơ quan tiếp nhận của quốc gia nước ngoài. Nội dung của yêu cầu này phải thể hiện rõ những điểm sau: [i] Chủ thể yêu cầu cung cấp thông tin là ai cũng như tình tiết của vụ việc đang được giải quyết; [ii] Thể hiện ở mức chính xác nhất có thể những thông tin cần cung cấp liên quan đến pháp luật nước ngoài; [iii] Nếu quốc gia nước ngoài nhận được yêu cầu có nhiều hệ thống pháp luật thì cần chỉ rõ cần tìm hiểu thông tin của hệ thống pháp luật nào. [16]

Bên cạnh đó, Công ước cũng có những quy định khá rõ ràng cụ thể liên quan đến thời gian, ngôn ngữ và chi phí liên quan đến hoạt động cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài. [17]

Với những quy định trên, Công ước đã xây dựng nên một cơ chế khá chặt chẽ và hiệu quả để giúp các quốc gia thành viên có thể tiến hành hoạt động cung cấp và tiếp nhận thông tin về pháp luật nước ngoài.

* Pháp luật Hoa Kỳ

Liên quan đến việc chứng minh, xác định pháp luật nước ngoài áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung, pháp luật Hoa Kỳ ghi nhận tại Điều 44.1 Bộ luật tố tụng dân sự liên bang. [18] Theo đó, một bên tham gia quan hệ có yêu cầu áp dụng pháp luật nước ngoài thì phải đưa ra thông báo bằng văn bản chính thức hoặc một hình thức khác tương tự như văn bản. Trong việc xác định pháp luật nước ngoài, Toà án có thể xem xét bất kỳ nguồn hay công cụ nào có liên quan, bao gồm bản lời khai – có hoặc không được đệ trình bởi các bên tham gia quan hệ hoặc được chấp nhận theo Luật chứng cứ liên bang. Và quyết định của Toà án sẽ có giá trị cuối cùng trong việc xác định pháp luật áp dụng. Với cách quy định của điều luật này, nếu không có thông báo chính thức của các bên yêu cầu áp dụng pháp luật nước ngoài cho quan hệ của họ thì Toà án sẽ không bị ràng buộc nghĩa vụ phải làm điều này. [19]

Theo chỉ dẫn của Điều 44.1, Toà án được cung cấp một phạm vi rộng lớn trong việc xác định nội dung pháp luật nước ngoài, bằng nhiều cách thức khác nhau, thậm chí khi những bằng chứng có được khác với quy định của Luật về chứng cứ. Điều này nhằm đem đến cho cả Toà án và các chủ thể có liên quan cơ hội thực hiện những biện pháp tốt nhất để có thể chứng minh pháp luật áp dụng. Một phương pháp phổ biến trên thực tiễn được thực hiện bởi những nhân chứng chuyên môn. Ý kiến của những chuyên gia này có thể được trình bày thông qua bản tuyên bố, lời khai gián tiếp hoặc trực tiếp tại Toà án. Lời khai của các chuyên gia này không đòi hỏi phải chứng minh được pháp luật nước ngoài cần áp dụng, và Toà án hoàn toàn có thể từ chối tiếp nhận dù đó là những kết luận khó chối cãi và Toà án sẽ tự đưa ra quyết định của mình dựa trên những thu thập từ các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Tức là ý kiến của các chuyên gia chỉ mang tính chất tham khảo. Thêm vào đó, Toà án cũng có thể xem xét những bản sao của các nguồn luật nước ngoài, từ điển nước ngoài, sách chuyên khảo nước ngoài hoặc các công cụ pháp lý trực tuyến khác để có thể xác định nội dung pháp luật nước ngoài. [20]

2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam

Trên cơ sở phân tích quy định của pháp luật Việt Nam dưới góc độ so sánh với pháp luật một số nước, chúng tôi đưa ra một số định hướng sau đây nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam, tạo điều kiện cho pháp luật Việt Nam được áp dụng trên thực tiễn.

Thứ nhất, tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực về cung cấp pháp luật nước ngoài

Giải pháp này được tác giả đề xuất dựa trên sự tham khảo và phân tích mô hình của các nước Liên minh Châu Âu thông qua Công ước Liên minh Châu Âu về cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài. Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh Việt Nam vừa gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN [gọi tắt là AEC]. Mặc dù AEC thực chất chưa thể được coi là một cộng đồng kinh tế gắn kết như Cộng đồng Châu Âu, bởi AEC không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và những điều lệ, quy định có tính chất ràng buộc cao và rõ ràng như EC, tuy nhiên AEC vẫn mở ra cơ hội cho các nước thành viên trong khu vực có thể thiết lập những thoả thuận hợp tác pháp lý, cụ thể là liên quan đến việc cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài.

Nói đến áp dụng pháp luật nước ngoài cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung, trở ngại lớn nhất cho các cơ quan có thẩm quyền là việc tiếp cận và giải thích nội dung pháp luật nước ngoài. Rào cản về ngôn ngữ, về chính sách pháp luật, tư duy lập pháp… của các nước đã tạo nên rất nhiều khó khăn cho các chủ thể áp dụng pháp luật. Đây là thực trạng không phải chỉ tồn tại trong Tư pháp quốc tế Việt Nam mà còn cả ở các nước phát triển trên thế giới. Vì vậy, nếu có thể xây dựng được một cơ chế cung cấp, trao đổi thông tin pháp luật nước ngoài giữa các nước thành viên AEC sẽ là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục những khó khăn đang tồn tại đối với các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.

Theo đó, Việt Nam có thể đề xuất với các nước thành viên AEC xây dựng một Hiệp định về vấn đề cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài, ghi nhận các nội dung cụ thể bao gồm: [i] Thiết lập hoặc chỉ định cơ quan có vai trò tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin pháp luật đến từ các quốc gia nước ngoài và chuyển giao thông tin cần thiết cho các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia nước ngoài; [ii] Quy trình, cách thức cung cấp nội dung pháp luật nước ngoài; [iii] Thời hạn, chi phí của việc cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài… Đây là giải pháp mang tầm vĩ mô nhưng trong tương lai nếu thực hiện được sẽ mang lại lợi ích rất lớn cho các nước thành viên AEC.

Thứ hai, hoàn thiện yếu tố con người trong quá trình thực thi pháp luật

Đây là nhóm giải pháp mang tính bổ trợ, không trực tiếp liên quan đến các quy định của pháp luật tuy nhiên theo tác giả, nếu các giải pháp bổ trợ này được triển khai hiệu quả cũng sẽ giúp cho các quy định pháp luật liên quan đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài đi vào thực tiễn dễ dàng hơn.

[i] Cần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trong ngành Toà án, cụ thể là các thẩm phán. Như tác giả đã đề cập, thực trạng những quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế hầu như không được giải quyết theo đúng những nguyên tắc của Tư pháp quốc tế, xuất phát rất nhiều từ sự hạn chế năng lực của các thẩm phán.

[ii] Bộ Tư pháp phối hợp cùng các cơ quan, tổ chức hoặc các cơ sở giáo dục thường xuyên tổ chức các Hội thảo quốc tế với sự tham gia của các chuyên gia, các học giả nước ngoài uy tín trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế để cập nhật những thông tin về pháp luật nước ngoài, thực tiễn xét xử của Toà án nước ngoài cho các luật gia, các luật sư, cũng như những đối tượng nghiên cứu pháp luật khác. Thực tiễn xét xử của Toà án các nước cho thấy, trong quá trình xác định nội dung pháp luật nước ngoài, Toà án có thể nhận sự hỗ trợ rất hiệu quả từ phía các chuyên gia nghiên cứu pháp luật. Do đó, việc đẩy mạnh công tác trang bị kiến thức pháp luật nước ngoài cho nhóm đối tượng này cũng là một giải pháp cần thiết.

[iii] Các cơ sở đào tạo pháp luật cần chú trọng đầu tư việc giảng dạy Tư pháp quốc tế cho người học ở mọi cấp độ. Mục tiêu này có thể được đẩy mạnh bằng cách cho người học tiếp cận với pháp luật nước ngoài thông qua phương pháp học bằng tình huống, vụ việc [case study]. Những nguyên tắc nền tảng của Tư pháp quốc tế và những kiến thức về pháp luật nước ngoài được củng cố cho sinh viên luật ngay từ trong giảng đường sẽ giúp ích rất nhiều khi họ phải đối mặt với những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trên thực tế.

[2] Federal Act on Private International Law of 18 December 1987 as amended until 1st July 2014.
[3] Law of the People’s Republic of China on the laws applicable to foreign-related civil relations [adopted at the 17th session of the standing committee of the 11th National People’s Congress, 28 october 2010].
[4] Regulation [Ec] No 593/2008 of The European Parliament and of The Council of 17 June 2008 on the law applicable to contractual obligations [Rome I].
[5] Điều 21 Quy định Rome I; Điều 670 Bộ luật dân sự 2015.
[6] Điều 20 Quy định Rome I; Điều 668 Bộ luật dân sự 2015.
[7] Điểm a khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự 2015.
[8] Đỗ Văn Đại [2016], Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr. 582-583.
[9] Khoản 2 Điều 670 Bộ luật dân sự 2015.
[10] Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ, [2010], Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 172.
[11] Trường Đại học Luật TP.HCM [2014], Giáo trình Tư pháp quốc tế, Mai Hồng Quỳ, NXB Đại học quốc gia TP.HCM tr.159-160.
[12] Lê Thị Nam Giang, [2015], Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.HCM ,tr. 191- 194.
[13] Guidance on the law applicable to contractual obligations [Rome I], //webarchive.nationalarchives.gov.uk/ , truy cập ngày 15/12/2016.
[14] European Convention on Information on Foreign Law.
[15] Điều 3 Công ước Liên minh Châu Âu về cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài.
[16] Điều 4 Công ước Liên minh Châu Âu về cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài.
[17] Điều 12; 14; 15 Công ước Liên minh Châu Âu về cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài.
[18] Federal Rules of Civil Procedure.
[19] Robert S. Thompson, Determining foreign law under Federal rule of civil procedure 44.1, //www.hptylaw.com, truy cập ngày 15/12/2016.
[20] Matthew J. Wilson [2014], Demystifying The Determination Of Foreign Law In U.S. Courts: Opening The Door To A Greater Global Understanding, Akron Law Publications.

Áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật nước ngoài, kỹ năng soạn thảo hợp đồng, luật sư kinh nghiệm, thương mại quốc tế, tư pháp quốc tế, tư vấn pháp luật

Áp dụng pháp luật nước ngoài là gì?

Áp dụng pháp luật nước ngoài là hoạt động thi hành pháp luật quốc gia thông qua việc áp dụng quy định của pháp luật nước ngoài nhằm điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Các trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế Việt Nam?

Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, Luật thương mại 2005 , Luật hôn nhận và gia đình …cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam áp dụng pháp luật nước ngoài trong trường hợp các văn bản pháp luật của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài hoặc trong trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng nếu sự thỏa thuận đó không trái với quy định của pháp luật Việt Nam.

Áp dụng luật nước ngoài là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ dân sự quốc tế, đảm bảo sự ổn định,củng cố và phát triển hợp tác về mọi mặt trong giao lưu dân sự giữa các quốc gia vì sự thịnh vượng chung của cá thế giới.

Điều 664 Bộ luật dân sự 2015 quy định vềxác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

“1. Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam.

2. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam có quy định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo lựa chọn của các bên.

3. Trường hợp không xác định được pháp luật áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó.”

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề