Đánh giá tổng quan thị trường trung đông năm 2024

Chiều 28/8, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức hội nghị “Hợp tác doanh nghiệp Việt Nam – Trung Đông”. Hội nghị có sự tham dự của ông Saleh Adibi, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Iran tại Việt Nam, các bộ ngành và hơn 40 doanh nghiệp xuất khẩu nông sản hàng đầu của Việt Nam.

Đánh giá tổng quan thị trường trung đông năm 2024
Hội nghị Hợp tác doanh nghiệp Việt Nam - Trung Đông

Trung Đông là thị trường lớn với dân số hơn 400 triệu dân bao gồm 16 quốc gia. Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu sang Trung Đông các sản phẩm như gạo, chè, cà phê, hạt tiêu, cao su tự nhiên, hạt điều, trái cây (đặc biệt là chuối, dứa, chanh..), thủy sản, các mặt hàng may mặc, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ.

Những sản phẩm Việt Nam nhập khẩu từ Trung Đông bao gồm: phân bón các loại, hóa chất, quặng và khoáng sản, vải…

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường đánh giá, Trung Đông là thị trường rất lớn, đồng thời là cửa ngõ, cầu nối sang thị trường châu Âu.

Các mặt hàng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với Iran nói riêng và Trung Đông nói chung là bổ trợ cho nhau nên tiềm năng thương mại giữa hai bên là rất lớn.

Tuy nhiên, cho tới nay, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai bên còn rất thấp do nhiều nguyên nhân. Hiện hai bên còn gặp khó khăn trong khâu thanh toán cho các hợp đồng thương mại và chuyển tiền đầu tư.

Doanh nghiệp hai bên chủ yếu hợp tác thanh toán qua các ngân hàng trung gian ở Dubai, Trung Quốc, Singapore hoặc một số nước châu Âu với chi phí trung gian và rủi ro tài chính cao.

Nhà nước cần có giải pháp can thiệp, hỗ trợ về thanh toán cũng như xây dựng tiêu chuẩn cho hàng hóa sang Trung Đông.

Ông Lê Thành, Viện trưởng Viện Kinh tế nông nghiệp hữu cơ đánh giá, rau quả là mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao nhất sang thị trường này (24%). Có thể nói, Trung Đông là "thiên đường" hấp dẫn cho các doanh nghiệp Việt.

Tuy nhiên, hàng hóa sang đây vẫn gặp rào cản về logistics và thanh toán. Để tháo gỡ vấn đề logistics, các doanh nghiệp cần hợp tác với nhau.

Đồng tình với quan điểm trên ông Lê Quang Nhuận, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Louis Rice cho rằng, các doanh nghiệp xuất khẩu sang Trung Đông nên cùng hợp tác thuê một công ty vận tải cố định với mức giá có thể chấp nhận được, bởi giá vận chuyển tác động rất lớn đến giá hàng hóa.

Trung Đông cũng được coi là thị trường tiềm năng cho hạt gạo Việt Nam. Theo ông Lê Quang Nhuận, doanh nghiệp bên Trung Đông thường thanh toán sau 7-10 ngày, trong khi hàng hóa sang đây đã mất mấy chục ngày.

Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải mạnh về vốn và doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ, ưu đãi đầu tư trong vay vốn khi đẩy mạnh xuất khẩu vào đây.

Ông Trần Văn Trí, Chủ tịch Hội đồng doanh nghiệp Việt Nam – Iran kiến nghị, Chính phủ thúc đẩy cơ chế hợp tác ngân hàng để đại lý hai bên sớm có liên kết tạo điều kiện thuận lợi cho khâu thanh toán.

Có cơ chế ưu đãi, miễn, giảm thuế các mặt hàng xuất nhập khẩu giữa hai nước và tạo điều kiện để doanh nghiệp đưa các trang thiết bị, máy móc sang Iran phục vụ đầu tư sản xuất. Đề nghị tránh đánh thuế 2 lần với hàng hóa xuất nhập khẩu theo hình thức hàng đổi hàng.

Phát biểu tại hội nghị, ông Saleh Adibi, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Iran tại Việt Nam cũng cho rằng, rào cản về sự hợp tác giữa hai bên là ngân hàng hai bên vẫn còn “giậm chân tại chỗ”.

Kênh hợp tác ngân hàng là rất quan trọng. Hiện nay, Iran có liên kết với nhiều ngân hàng ở các nước trên thế giới. Doanh nghiệp Việt Nam có thể thanh toán qua đây.

Ông Saleh Adibi mong muốn, Việt Nam và Iran sớm đàm phán để ký kết Hiệp định Thương mại ưu đãi giữa hai bên.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường chỉ đạo, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản phối hợp cùng Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp khi mở cửa xuất khẩu sang Trung Đông.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ phối hợp với Bộ Công Thương và Hội đồng doanh nghiệp Việt Nam – Iran chuẩn bị tốt nhất cho chuyến xúc tiến thương mại sang thị trường này vào cuối năm nay.

Theo số liệu thống kê của Bộ Công Thương, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia Trung Đông, những năm qua liên tục gia tăng.

Năm 2016, kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đạt 10,887 tỷ USD, tăng hơn 100% so với năm 2011.

Trong đó, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Đông đạt 8,059 tỷ USD và nhập khẩu từ Trung Đông đạt 2,828 tỷ USD.

Ngày 17/03/2022, tại Showroom Xuất khẩu 92 – 96 Nguyễn Huệ, Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh (ITPC) đã tổ chức Hội thảo “Cơ hội vàng cho xuất khẩu Việt đến các quốc gia Trung Đông sau đại dịch Covid-19” nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thành phố phục hồi sản xuất, tìm kiếm đối tác, mở rộng thị trường xuất khẩu trong bối cảnh mới.

Cơ hội rộng mở, nhiều thuận lợi

Phát biểu khai mạc buổi Hội thảo, ông Nguyễn Tuấn - Phó Giám đốc ITPC cho biết, Trung Đông (bao gồm 16 quốc gia) đang nổi lên như khối thị trường xuất khẩu tiềm năng cho doanh nghiệp Việt Nam với dân số khoảng 400 triệu người, có mức sống cao.

Thương mại khu vực Trung Đông khởi sắc và tăng trưởng mạnh hơn sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2009 do kinh tế thế giới phục hồi, giá dầu tăng trở lại. Đồng thời, dòng vốn FDI đầu tư vào khu vực này cũng gia tăng, năm 2010 là 681,444 tỷ USD, năm 2018 tăng lên 932,404 tỷ USD. Đầu tư ra nước ngoài của các quốc gia Trung Đông cũng tăng từ 234,369 tỷ USD lên 542,455 tỷ USD trong cùng thời kỳ.

Quan hệ thương mại của Việt Nam với khu vực Trung Đông chủ yếu tập trung vào các quốc gia thuộc Hội đồng hợp tác Vùng Vịnh (GCC) với 06 quốc gia thành viên là Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE), Saudi Arabia (Ả Rập Xê Út), Kuwait (Cô-oét) , Bahrain (Ba-ranh), Qatar (Ca-ta) và Oman (Ô-man), có tổng dân số 65 triệu người (năm 2021). Các quốc gia GCC có nền kinh tế mở, phát triển ngoại thương, thu hút đầu tư nước ngoài, du lịch, dịch vụ, đa dạng hóa nền kinh tế, thúc đẩy xuất nhập khẩu. GDP bình quân đầu người ở mức cao, năm 2021 Qatar là 60.000 USD, UAE là 41.000 USD, Kuwait là 25.000 USD và Saudi Arabia là 22.000 USD. Từ tháng 01/2003, 6 nước thành viên đã thực hiện Liên minh thuế quan (CU) và thống nhất áp dụng biểu thuế nhập khẩu chung có mức thuế khoảng 5% áp dụng trong toàn khu vực đối với hầu hết các sản phẩm.

Ông Ngô Toàn Thắng, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Kuwait cho biết, 6 nước GCC đều là thành viên WTO. Rào cản thương mại tại thị trường các nước GCC là việc yêu cầu giấy chứng nhận về tiêu chuẩn, kiểm định chất lượng, nhãn mác... do Tổ chức Tiêu chuẩn và Đo lường Vùng Vịnh (GSMO) cấp, giấy chứng nhận Halal đối với các sản phẩm thực phẩm, thủy sản nhập khẩu.

Trong vài năm gần đây, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước GCC gia tăng nhanh chóng và có mức tăng đột biến từ năm 2012 đến nay. Nếu như năm 2012, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước GCC mới đạt 2,7 tỷ USD, thì tới năm 2021 đã tăng gấp 4,6 lần, đạt 12,5 tỷ USD.

Ông Thắng cho rằng, cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường GCC đang rộng mở với nhiều thuận lợi. Việt Nam có quan hệ ngoại giao, quan hệ hợp tác truyền thống hữu nghị lâu dài với các nước GCC. Bên cạnh đó, hai bên có khuôn khổ pháp lý khá đầy đủ cho việc phát triển và tăng cường quan hệ hợp tác (đã ký các hiệp định hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật với 5/6 nước, ký hiệp định thương mại 2/6 nước; hiệp định tránh đánh thuế hai lần với 5/6 nước GCC; hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 4/6 nước; hiệp định về vận chuyển hàng không với 5/6 nước; thành lập Ủy ban liên Chính phủ/Ủy ban hỗn hợp với 5/6 nước GCC). Mạng lưới cơ quan đại diện ngoại giao làm cầu nối thúc đẩy trao đổi thương mại và hợp tác: đã có 4 Đại sứ quán và 3 Thương vụ tại GCC, có 5 Đại sứ quán các nước GCC tại Việt Nam. Khối GCC có sức mua lớn, khả năng thanh toán cao do có nguồn tài chính dồi dào. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của GCC khá phù hợp với những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh và nhu cầu của Việt Nam, thuế nhập khẩu của khối GCC khá thấp.

Chia sẻ thêm về thị trường Trung Đông, ông Nguyễn Tuấn - Phó Giám đốc ITPC cho biết, các quốc gia này có nhu cầu nhập khẩu rất lớn (dao động từ 2 tỷ USD đến 8 tỷ USD) đối với các mặt hàng như đồ gỗ, sản phẩm nhựa, ngũ cốc, dệt may, giày dép, cao su và sản phẩm cao su, thịt, sữa và sản phẩm sữa, rau quả các loại, v.v... Đây là những mặt hàng thế mạnh của Việt Nam. Tuy nhiên tỷ trọng các mặt hàng này của Việt Nam trong cơ cấu hàng nhập khẩu của các nước Trung Đông vẫn còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng hai bên.

Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp của khu vực Trung Đông còn chưa phát triển do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt; công nghiệp sản xuất khó phát triển, nên khu vực này vẫn phải nhập khẩu nhiều thực phẩm, hàng tiêu dùng. Thống kê cho thấy, các quốc gia này nhập khẩu khoảng 80% các mặt hàng lương thực, thực phẩm, tương đương khoảng 40 tỷ USD/năm. Đến năm 2035, tổng giá trị nhập khẩu lương thực, thực phẩm của các nước vùng Trung Đông dự kiến sẽ tăng lên 70 tỷ USD/năm.

Một thuận lợi nữa khi xuất khẩu sang Trung Đông, là mức thuế nhập khẩu chỉ từ 0-5% đối với hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài khối. Chính vì điều này mà Trung Đông trở thành một thị trường đầy trường tiềm năng của Việt Nam.

Riêng với Thành phố Hồ Chí Minh, Trung Đông là một thị trường đầy tiềm năng và còn nhiều dư địa để khai thác. Trong những năm đây, kim ngạch xuất khẩu của Thành phố Hồ Chí Minh sang các quốc gia Trung Đông tăng đều theo các năm. Chỉ kể riêng UAE, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2021 của Thành phố Hồ Chí Minh sang UAE ước đạt 340 triệu USD trong đó xuất khẩu ước đạt 230 triệu USD tăng 12% so với năm 2020. Xuất khẩu Thành phố Hồ Chí Minh sang Iraq ước đạt trên 130 triệu USD năm 2021 tăng 21%

Các mặt hàng chính Thành phố Hồ Chí Minh xuất khẩu sang thị trường các nước Trung Đông bao gồm: thủy hải sản, rau củ quả, cà phê, hạt tiêu, dệt may, máy tính và linh kiện điện tử, linh kiện điện thoại...

Theo ông Nguyễn Tuấn, hiện nay doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng còn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận thị trường Trung Đông như thiếu thông tin, những rào cản về logistics và thanh toán quốc tế. Vì vậy, doanh nghiệp rất cần nhận được sự hỗ trợ từ các cơ quan tổ chức ngoại giao của Việt Nam tại khu vực, cũng như các cơ quan xúc tiến thương mại và đầu tư như ITPC.

Dự kiến trong thời gian tới, ITPC sẽ tiếp tục triển khai các đoàn khảo sát thị trường, kết nối giao thương và gặp gỡ các hệ thống kênh phân phối hiện đại tại khu vực Trung Đông đặc biệt là hai thị trường xuất khẩu mạnh của Việt Nam hiện nay là Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) và Kuwait (Cô-oét).

Chia sẻ về tiềm năng thị trường Kuwait (Cô-oét), ông Ngô Toàn Thắng cho rằng quốc gia này có khá nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam. Kuwait là thị trường mở, tiêu dùng nội địa chủ yếu phụ thuộc vào nhập khẩu và thuế nhập khẩu thấp (từ 0%-5%) đối với hầu hết các loại hàng hóa. Hiện, Kuwait chưa áp dụng thuế VAT và thuế thu nhập cá nhân. Đây còn là thị trường có sức mua khá với GDP bình quân đầu người trên 25.000 USD/năm; có số lượng người lao động nhập cư chiếm phần lớn dân số nên nhu cầu sản phẩm đa dạng về chủng loại, chất lượng và là cánh cửa để xâm nhập vào các thị trường GCC khác. Nền kinh tế Kuwait có nội lực mạnh, ít chịu tác động của suy thoái kinh tế thế giới và đang tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là các ngành tài chính, xây dựng, bất động sản, dầu khí, điện, hàng không. Mặt khác, hàng Việt Nam đã tạo dựng được chỗ đứng tại thị trường Kuwait như các mặt hàng điện thoại, thủy sản, giày dép, nông sản, thực phẩm, sản phẩm gia dụng..., với sức cạnh tranh ngày càng được nâng cao so với hàng Trung Quốc, Malaysia.

Chứng nhận Halal – Chìa khóa vàng thâm nhập vào thị trường Trung Đông

Trình bày tại buổi hội thảo, bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng, Giám đốc marketing Văn phòng Chứng nhận Halal - HCA Việt Nam cho biết, thị trường các nước Hồi giáo có rất nhiều tiềm năng để doanh nghiệp Việt khai thác. Hiện, thế giới Hồi giáo có tới 57 quốc gia thành viên OIC với 2,2 tỷ người Hồi giáo đang sinh sống tại 112 quốc gia trên thế giới (chiếm 25% dân số thế giới) và có tốc độ phát triển 2,9%/năm. Đây là thị trường có văn hóa kinh doanh đặc biệt và thường yêu cầu phải có chứng nhận Halal.

Sản phẩm Halal là sản phẩm đó người Hồi giáo được phép ăn uống hoặc sử dụng và người Hồi giáo chỉ sử dụng các sản phẩm Halal.

Theo bà Hằng, lợi ích của chứng chỉ Halal là vô cùng lớn. Nó giúp doanh nghiệp có thể đáp ứng được các yêu cầu khi xuất khẩu vào các quốc gia Hồi giáo; được người Hồi giáo tin tưởng mua, sử dụng mà không phải do dự; tạo lòng tin cho người tiêu dùng, được người tiêu dùng (cả người theo đạo Hồi và người ngoại đạo) khắp nơi trên thế giới lựa chọn vì đáp ứng cả các yêu cầu về kiểm soát chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm qua đó tăng đối tượng sử dụng sản phẩm; giúp doanh nghiệp tăng cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng nguyên liệu và sản phẩm Halal toàn cầu.

Về điều kiện chung để sản phẩm được chứng nhận Halal, bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng cho biết, doanh nghiệp cần đáp ứng được đồng thời 02 điều kiện là nguyên liệu Halal và dây chuyền sản xuất Halal. Cụ thể, ngoài việc nguyên liệu , phụ gia, hóa chất... phải là Halal thì trên cùng một dây chuyền không được sản xuất lẫn lộn sản phẩm Halal và Haram. Việc đạt các yêu cầu vệ sinh và quản lý chất lượng sản phẩm HACCP, ISO 22000... là lợi thế.

Quy trình chứng nhận Halal sẽ được trải qua 05 bước: (1) tiếp nhận yêu cầu chứng nhận; (2) báo giá và ký hợp đồng chứng nhận; (3) đánh giá giai đoạn 1 - đánh giá hồ sơ; (4) đánh giá giai đoạn 2 - đánh giá hiện trường và (5) cuối cùng là thẩm xét hồ sơ, cấp chứng chỉ Halal.

Bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng cũng đưa ra một số lưu ý dành cho các doanh nghiệp khi tham gia chương trình chứng nhận Halal. Theo đó, khi chuẩn bị đăng ký, doanh nghiệp cần áp dụng Halal vào sản xuất, lưu ý chọn nguyên liệu Halal. Các công ty nông thủy sản cần đặc biệt lưu ý khi sản xuất các sản phẩm Haram sẽ rất khó trong quá trình đánh giá Halal. Doanh nghiệp cần lựa chọn sản phẩm tham gia chứng nhận, địa điểm nhà máy và chương trình chứng nhận phù hợp với nhu cầu của mình. Trong quá trình đánh giá Halal, cơ quan đánh giá sẽ tiến hành truy xuất nguyên liệu và tất cả thành phần có trong quá trình sản xuất, cho nên lưu ý doanh nghiệp cần phải rất kỹ trong khâu này. Sau khi được cấp chứng nhận, doanh nghiệp cũng cần phải lưu ý khi ra sản phẩm mới, thay đổi nguyên liệu... phải đảm bảo tính toàn vẹn Halal trong quá trình sản xuất.

Ngoài ra, khi chứng nhận cho 01 sản phẩm có tên nhãn hàng cụ thể, thì bắt buộc phải đánh giá hiện trường tất cả các nhà máy sản xuất ra sản phẩm mang cùng tên nhãn hàng đó (bao gồm cả đơn vị gia công bên ngoài); sản phẩm không mô phỏng hình con giống, bao bì sản phẩm không có hình ảnh thịt heo, liên quan đến con heo; tên sản phẩm không được liên quan đến tôn giáo khác, không liên quan đến Haram.

Yêu cầu riêng đối với các công ty yêu cầu sản phẩm Halal nhưng có sản xuất sản phẩm liên quan đến chất cấm (thịt heo, rượu, bia): (1) dây chuyền đã từng sản xuất sản phẩm liên quan đến thịt heo bắt buộc phải tẩy rửa theo nghi thức Hồi giáo trước khi tiến hành sản xuất sản phẩm Halal (chỉ thực hiện 1 lần duy nhất); dây chuyền sản xuất sản phẩm có thịt heo phải tách biệt hoàn toàn về nhà xưởng, thiết bị, con người với dây chuyền sản phẩm Halal; doanh nghiệp phải tiến hành đào tạo, xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn Halal trước khi tiến hành đánh giá (phải có hồ sơ, hệ thống tài liệu quản lý); phải có người Hồi giáo làm giám sát (01 người/01 ca làm việc, hoặc 1 người làm QA); có kết quả kiểm nghiệm ADN heo/lợn đối với các sản phẩm của doanh nghiệp có sản xuất liên quan đến thịt.

Doanh nghiệp nên chọn những tổ chức chứng nhận Halal uy tín, được cấp phép và đảm bảo các tiêu chuẩn như: là tổ chức Hồi giáo (đảm bảo đức tin Islam trong mọi hoạt động cung cấp dịch vụ); là tổ chức chứng nhận (ISO/IEC 17065: yêu cầu đối với tổ chức chứng nhận sản phẩm, quá trình, dịch vụ); được công nhận tại các thị trường xuất khẩu đặc biệt (đáp ứng các yêu cầu riêng của từng thị trường quy định).