Đặt nền móng cho mối quan hệ ngoại giao đầu tiên của hai nước việt nam - campuchia là ai

Cách đây tròn 55 năm, ngày 24/6/1967 Chủ tịch Hồ Chí Minh và Samdech Quốc trưởng Norodom Sihanouk đã chính thức đặt nền móng cho quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Campuchia - một sự kiện trọng đại, mở ra chương mới cho quan hệ hai nước, gắn bó vận mệnh của hai dân tộc láng giềng, thể hiện sự ủng hộ quý báu của nhân dân Campuchia đối với nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và khẳng định sự ủng hộ chân thành của nhân dân Việt Nam đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ nền độc lập, trung lập của Vương quốc Campuchia do Quốc trưởng Norodom Sihanouk đứng đầu. Sự kiện đó đã góp phần tạo thêm niềm tin, khích lệ quân dân hai nước tăng cường tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Bằng ý chí kiên cường và sự gắn bó chặt chẽ, quân dân hai nước đã đoàn kết, sát cánh bên nhau đánh bại kẻ thù chung, làm nên chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975.

Vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, đáng ra hai nước phải được hưởng một cuộc sống hòa bình, cùng nhau bắt tay xây dựng lại đất nước, nhưng quân và dân hai nước lại phải tiếp tục sát cánh bên nhau, đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Cứu nước Campuchia, tiến hành cuộc tiến công thần tốc, đánh đổ chế độ diệt chủng, làm nên Chiến thắng 07/01/1979 lịch sử. Một lần nữa, tình đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau bằng cả xương máu và nghĩa tình của quân dân hai nước lại được hun đúc, hai dân tộc lại “nhường cơm sẻ áo” cho nhau, cùng nhau diệt “giặc đói, giặc dốt” sau giải phóng và 10 năm tái thiết đất nước Campuchia. Chiến thắng chế độ diệt chủng là thắng lợi chính nghĩa, vẻ vang, thấm đẫm máu, nước mắt và công sức của quân và dân hai nước, ở đó tình đoàn kết gắn bó keo sơn đã trở thành sức mạnh bất diệt, đánh đổ mọi thế lực bạo tàn.

Ngày nay, quan hệ hợp tác Việt Nam – Campuchia đang phát triển mạnh mẽ, đạt nhiều thành tựu rực rỡ trên các lĩnh vực, với những dấu ấn đậm nét của các chuyến thăm giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước. Nhiều cơ chế hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương hai nước đã hình thành và phát huy hiệu quả, tạo động lực cho việc đẩy mạnh quan hệ hợp tác toàn diện hai bên ngày càng thực chất. Những thành tựu quan trọng của quan hệ hai nước trong 55 năm qua được minh chứng cụ thể trên các lĩnh vực:

Quan hệ chính trị - ngoại giao không ngừng phát triển, đóng vai trò định hướng cho tổng thể quan hệ hai nước. Hai bên duy trì trao đổi đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và giữa các bộ, ngành, địa phương. Qua các chuyến thăm, Lãnh đạo cấp cao hai nước luôn nhấn mạnh tầm quan trọng và khẳng định quyết tâm củng cố quan hệ hợp tác truyền thống giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, trong đó quan hệ chính trị - ngoại giao giữ vai trò nòng cốt và là nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước.

Lãnh đạo hai nước luôn khẳng định tôn trọng và thực hiện đầy đủ các hiệp ước, hiệp định, thỏa thuận đã ký kết, trong đó có hiệp định, thỏa thuận liên quan đến hoạch định biên giới. Cố Quốc vương Norodom Sihanouk, Quốc vương Norodom Sihamoni, cũng như Thủ tướng Hun Sen và các vị lãnh đạo khác của Campuchia luôn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự giúp đỡ quý báu mà Việt Nam đã dành cho Campuchia và mong muốn “quan hệ đoàn kết, hữu nghị Việt Nam - Campuchia mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”. Lãnh đạo Việt Nam cũng khẳng định “vận mệnh của hai dân tộc không thể tách rời nhau, đó là một chân lý từ thực tiễn lịch sử của hai nước”. Năm 2005, lãnh đạo hai nước đã thống nhất xác định phương châm 16 chữ cho quan hệ Việt Nam – Campuchia là “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”. Triển khai phương châm hợp tác đó, ngoài trao đổi các chuyến thăm theo thông lệ, Lãnh đạo cấp cao hai nước còn có các cuộc gặp gỡ, trao đổi sâu rộng các vấn đề cùng quan tâm dưới nhiều hình thức và đạt được nhiều thỏa thuận chiến lược, vừa định hướng cho quan hệ hợp tác lâu dài, vừa kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm thúc đẩy hợp tác toàn diện trên các lĩnh vực, không ngừng củng cố và đưa quan hệ toàn diện giữa hai nước đi vào chiều sâu, hiệu quả thiết thực.      

Hợp tác chặt chẽ giữa hai nước còn được thực hiện qua các cơ chế như Uỷ ban liên Chính phủ về Hợp tác Kinh tế, Văn hoá, Khoa học kỹ thuật, Hội nghị Hợp tác Phát triển các tỉnh biên giới Việt Nam-Campuchia được tổ chức thường niên, đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác trên các lĩnh vực. Một số tỉnh thành của hai nước tuy không có chung biên giới, nhưng cũng ưu tiên thúc đẩy quan hệ kết nghĩa, ký các thỏa thuận hợp tác, điển hình như các cặp quan hệ Thành phố Hồ Chí Minh-Phnom Penh, Hà Nội-Phnom Penh, Hải Phòng-Sihanouk ville và đã có thêm nhiều tỉnh thành hai nước đang đi theo hướng hợp tác tích cực này.

Hai năm 2020 và 2021, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, hai bên đều phải ứng phó ngăn chặn đại dịch, Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước, các bộ, ban, ngành, địa phương và các tổ chức nhân dân đã thường xuyên có các cuộc điện đàm thăm hỏi, chia sẻ và động viên lẫn nhau. Hai bên cùng thể hiện quyết tâm phối hợp chặt chẽ trong phòng, chống dịch bệnh, kịp thời giải quyết mọi khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện tốt nhất cho nhau, ủng hộ và hỗ trợ lẫn nhau kịp thời về vật chất, trang thiết bị y tế và vắc-xin phòng, chống dịch.

Hợp tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả, là một trụ cột quan trọng trong quan hệ hai nước. Hai bên phối hợp giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và phát triển ở mỗi nước, tiếp tục phối hợp thực hiện tốt Nghị định thư hợp tác 5 năm, cũng như kế hoạch hợp tác hằng năm giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an Việt Nam với Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ Campuchia; thường xuyên trao đổi thông tin, tình hình, chia sẻ kinh nghiệm, phối hợp ngăn chặn và vô hiệu hóa các hoạt động của các lực lượng thù địch chống phá Việt Nam, Campuchia và quan hệ hai nước; tăng cường phối hợp tuần tra chung, giữ vững an ninh, trật tự, cứu hộ, cứu nạn ở khu vực biên giới trên bộ và trên biển; tổ chức tốt đối thoại chính sách cấp thứ trưởng Bộ Quốc phòng và giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới do Bộ trưởng Quốc phòng hai nước chủ trì; tổ chức giao lưu kết nghĩa, duy trì đường dây nóng, phối hợp đấu tranh chống các loại tội phạm xuyên quốc gia, các hoạt động xâm canh, xâm cư, vượt biên trái phép, giải quyết các vấn đề nảy sinh, xây dựng củng cố, quản lý đường biên giới, vành đai an ninh, hòa bình, ổn định, giữ vững chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn khu vực biên giới; tiếp tục tìm kiếm, cất bốc và hồi hương hài cốt quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Campuchia; trùng tu, tôn tạo các Đài Hữu nghị Việt Nam - Campuchia.

Với sự quyết tâm và nỗ lực của cả hai bên, Việt Nam và Campuchia đã hoàn thành khoảng 84% khối lượng công việc phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền, hai bên đã ký kết Hiệp ước bổ sung năm 2019 và Nghị định thư ghi nhận thành quả này, tạo nền tảng để hai bên duy trì ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực biên giới. Trong chuyến thăm cấp nhà nước của Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tới Vương quốc Campuchia tháng 12/2021, hai bên khẳng định tiếp tục làm sâu sắc hơn nữa hợp tác quốc phòng-an ninh, đẩy mạnh đàm phán nhằm sớm hoàn thành 16% biên giới trên đất liền còn lại; nhất trí phối hợp, tìm giải pháp cho các vấn đề phát sinh, trên tinh thần đoàn kết, hữu nghị, góp phần hiện thực hóa một đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và hợp tác cùng phát triển.

Thời gian qua, hai bên cũng đã thường xuyên phối hợp chặt chẽ trong các hoạt động đối ngoại, thực hiện tham vấn chính trị, chia sẻ thông tin kịp thời và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, nhất là trong khuôn khổ hợp tác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN], Liên hợp quốc và các cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mê Công. Có thể nói hợp tác an ninh, quốc phòng và đối ngoại đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, an ninh, ổn định cho sự phát triển của mỗi nước; góp phần duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Hợp tác kinh tế, khoa học - kỹ thuật từng bước phát triển tích cực. Trên nền tảng quan hệ chính trị tốt đẹp, các lĩnh vực hợp tác song phương Việt Nam - Campuchia những năm gần đây tiếp tục được đẩy mạnh. Các cơ chế hợp tác song phương và đa phương được coi trọng và thúc đẩy hiệu quả như: Hội nghị xúc tiến đầu tư và thương mại vào Campuchia; Hội chợ thương mại Việt Nam - Campuchia; Hội nghị hợp tác thương mại biên giới Việt Nam - Campuchia; giao lưu, hợp tác giữa các bộ, ngành, đoàn thể địa phương hai nước... Đặc biệt là các cơ chế hợp tác như Chương trình Hợp tác Kinh tế Tiểu vùng Mê Công mở rộng [GMS], Ủy hội sông Mê Công quốc tế [MRC], Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mê Công [ACMECS]. Hợp tác khu vực Tam giác phát triển Campuchia – Lào - Việt Nam là cơ chế hợp tác quan trọng duy trì sự ổn định về an ninh chính trị, an toàn xã hội tại biên giới ba nước. Thông qua các cơ chế phối hợp, nhiều lĩnh vực hợp tác giữa hai nước đã được triển khai và đạt được những kết quả quan trọng. Hai bên chủ động, tích cực triển khai các hiệp định giữa hai Chính phủ và thỏa thuận tại các kỳ họp Ủy ban hỗn hợp về kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật; tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, kịp thời trao đổi tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để thúc đẩy hợp tác.

Nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác kinh tế, Chính phủ hai nước thỏa thuận việc xây dựng và thực hiện cơ chế mở cửa thông thoáng cho các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, du lịch liên quốc gia, hợp tác lao động, thủ tục hải quan, xuất, nhập cảnh và các quy chế về thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào thị trường của nhau. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế và chính sách ưu đãi các doanh nghiệp về đào tạo lao động, hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng sản xuất, kinh doanh, thực hiện xúc tiến đầu tư, thương mại, tổ chức các diễn đàn, tham gia hội chợ, xúc tiến thị trường tại Campuchia và Việt Nam; đa dạng hóa các hoạt động đầu tư của Việt Nam vào Campuchia và ngược lại.

Trong  hợp tác đầu tư, Việt Nam có 188 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Campuchia với tổng số vốn đăng ký 2,88 tỷ USD, đứng thứ 5 trong số các nước đầu tư vào Campuchia, chủ yếu là các lĩnh vực nông nghiệp [chiếm gần 70% tổng vốn đăng ký]; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông; các dự án còn lại nằm trong các lĩnh vực hàng không, khoáng sản, công nghiệp chế biến, chế tạo, vận tải kho bãi, y tế, xây dựng, du lịch - khách sạn, bất động sản và các dịch vụ khác. Sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi của Chính phủ hai nước là một trong những cơ sở thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, đầu tư giữa hai nước có bước phát triển mạnh trong những năm qua. Hai bên cũng tổ chức nhiều sự kiện quan trọng như: Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Campuchia, Hội nghị xúc tiến đầu tư Việt Nam - Campuchia nhằm thúc đẩy hợp tác đầu tư giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả. Nhờ đó, hoạt động đầu tư của Việt Nam vào Campuchia có sự chuyển biến mạnh mẽ với vai trò quan trọng của các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp lớn.

Về thương mại, Việt Nam và Campuchia đều là thành viên của ASEAN, Tổ chức Thương mại thế giới [WTO], đây là một thuận lợi lớn thúc đẩy sự phát triển trên nhiều lĩnh vực, nhất là hoạt động thương mại của hai nước. Hai bên quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi thuế quan cho hàng hóa xuất xứ từ mỗi nước; coi trọng hợp tác thương mại biên giới; hỗ trợ giúp đỡ địa phương giáp biên giới hai nước đẩy mạnh các hoạt động giao lưu thương mại. Thỏa thuận thúc đẩy thương mại song phương Việt Nam - Campuchia giai đoạn 2019 - 2020 đã cam kết những ưu đãi về thuế suất thuế nhập khẩu 0% đối với các mặt hàng có xuất xứ từ hai nước. Cụ thể, phía Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi 0% đối với 26 mặt hàng khi nhập khẩu vào thị trường Campuchia. Đây là những ưu đãi đặc biệt mà Campuchia chỉ dành cho Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam cũng dành ưu đãi đặc biệt thuế suất nhập khẩu 0% cho 32 mặt hàng của Campuchia, phần lớn là nông sản.

Hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Campuchia được xúc tiến tích cực bằng nhiều hoạt động của diễn đàn doanh nghiệp, hội chợ triển lãm hàng hóa Việt Nam tại Campuchia; xây dựng hành lang pháp lý, kết cấu hạ tầng phục vụ thương mại ngày càng gia tăng, tiến tới dự kiến mở khu kinh tế cửa khẩu. Nếu như giai đoạn 1997-1999, kim ngạch thương mại hai chiều mới chỉ đạt khoảng 130-150 triệu USD/năm, thì từ năm 2005 kim ngạch thương mại hai nước tăng trung bình khoảng 30-40%/năm. Đặc biệt, hai năm 2020-2021, dù gặp nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19, nhưng quan hệ thương mại giữa hai nước đã tăng trưởng đột phá với tổng kim ngạch hai chiều: năm 2020 đạt 5,32 tỷ USD, năm 2021, đạt 9,54 tỷ USD, tăng gần 80% so với năm 2020 và hai bên đều đã thấy rõ hơn vị trí, vai trò thị trường quan trọng của nhau.

Hợp tác văn hóa, giáo dục-đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và y tế là lĩnh vực được hai bên đặc biệt quan tâm. Hai bên xác định đây là lĩnh vực trọng yếu có tầm chiến lược, góp phần tích cực củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị, lâu dài giữa nhân dân hai nước vì mục tiêu phát triển của mỗi nước. Hằng năm, Việt Nam dành cho Campuchia hàng trăm suất học bổng đào tạo dài hạn và ngắn hạn. Campuchia cũng dành cho phía Việt Nam 35 suất học bổng, bao gồm 15 suất học bổng đại học và sau đại học, 20 suất học bổng đào tạo ngôn ngữ, văn hóa Khơ-me trong vòng hai năm. Hiện có 2427 sinh viên Campuchia đang học tập tại Việt Nam và có gần 100 sinh viên Việt Nam đang học tập tại Campuchia. Ngoài ra, hai bên tăng cường hợp tác trong lĩnh vực dạy nghề thông qua việc tổ chức các hoạt động phát triển nguồn nhân lực. Đây thực sự là nguồn bổ sung nhân lực rất quan trọng, phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Trong lĩnh vực y tế, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng ngành y tế Việt Nam vẫn tạo điều kiện hỗ trợ khám chữa bệnh cho người dân Campuchia với giá dịch vụ giống như người dân Việt Nam, phối hợp cùng các y bác sỹ Campuchia thực hiện các hoạt động nhân đạo, khám chữa bệnh miễn phí cho người Campuchia. Hoạt động giao lưu văn hóa, trong đó có việc tổ chức “Tuần văn hóa” của hai nước theo hình thức luân phiên thường niên đã phát huy vai trò giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước.

Hợp tác giữa các bộ, ban, ngành, các ủy ban chuyên trách của Quốc hội, đoàn thể và tổ chức nhân dân hai nước tiếp tục được đẩy mạnh và đi vào thực chất hơn, là “cầu nối” góp phần làm sâu đậm hơn quan hệ song phương. Hai bên trao đổi các đoàn, kinh nghiệm thực tiễn, hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt là các địa phương có chung đường biên giới, tiếp tục mở rộng xây dựng cơ sở hạ tầng, chăm sóc y tế, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn tại các khu vực biên giới hai nước. Hoạt động hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương, đoàn thể giữa hai nước là chất xúc tác, góp phần nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ về truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, qua đó góp sức vào việc giữ gìn, vun đắp cho quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước.

Có thể nói, 55 năm qua là khoảng thời gian không dài so với bề dầy lịch sử quan hệ giữa hai dân tộc, nhưng là một giai đoạn có ý nghĩa vô cùng đặc biệt trong quan hệ hai nước. Đó là thời kỳ mà nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia anh em luôn kề vai sát cánh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và cùng xây dựng đất nước hòa bình, nhân dân hạnh phúc, ấm no. Những thành quả to lớn về mọi mặt của mỗi nước ngày nay có được, ngoài ý chí tự lực tự cường, vươn lên của mỗi bên, còn có cả nhân tố quan trọng là sự kết tinh của tình đoàn kết anh em, tình cảm thiêng liêng của hai dân tộc dành cho nhau và sự nhận thức đúng đắn đối với vận mệnh chung của hai nước trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, quan hệ Việt Nam - Campuchia đã được thử thách, tôi luyện và phát triển ngày càng sâu rộng, thiết thực và hiệu quả trên các lĩnh vực, trở thành tài sản chung quý báu của hai dân tộc, là nền tảng quan trọng để nhân dân hai nước tiếp tục kề vai sát cảnh bên nhau cùng tiến lên trên con đường xây dựng đất nước vững mạnh và phồn vinh.

Hơn năm thập kỷ qua, chúng ta cũng được chứng kiến sự đổi thay mạnh mẽ trên đất nước Campuchia trên mọi lĩnh vực với việc duy trì hòa bình, ổn định, tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 7%/năm. Campuchia đã gia nhập là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, hội nhập nhanh với khu vực và có nhiều đóng góp cho các vấn đề chung ở khu vực. Là nước láng giềng gần gũi của Campuchia, Việt Nam vui mừng trước những thành tựu to lớn, đáng tự hào mà nhân dân Campuchia đã giành được dưới sự trị vì anh minh của Cố Quốc vương Norodom Sihanouk trước đây, của Quốc vương Norodom Sihamoni ngày nay, sự lãnh đạo đúng đắn của Thượng viện, Quốc hội, sự quản lý và điều hành sáng suốt, hiệu quả của Chính phủ Vương quốc Campuchia và chân thành chúc nhân dân Campuchia tiếp tục đạt được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ngày càng phồn vinh./.

Đồng chí Nguyễn Huy Tăng, Đại sứ nước CHXHCN Việt Nam tại Campuchia

Video liên quan

Chủ Đề