Để góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp ở nước ta hiện nay Nhà nước đưa ra phương hướng

            Kết quả khảo sát của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn [IPSARD] cho thấy, dân số Đồng bằng sông Cửu Long [ĐBSCL] chiếm tới 19% dân số cả nước và có tới 12 triệu lao động nông nghiệp, nông thôn, song tỉ lệ lao động ở khu vực này đang giảm và có xu hướng già hóa. Cụ thể, tỷ lệ lao động dưới 35 tuổi giảm từ 45,5% [năm 2013] xuống còn 38,9% [năm 2018], tỷ lệ lao động trên 50 tuổi lại tăng từ 20,7% lên 26,8%. Đặc biệt, trong ngành nông lâm thủy sản, lao động dưới 35 tuổi giảm 37,4% xuống 26,2% và lao động từ 50 tuổi trở lên tăng từ 24,1% lên 34,1% [1]. Như vậy, bài toán giải quyết lao động và việc làm cho nông thôn vùng ĐBSCL hiện nay và trong thời gian tới là một vấn đề rất cấp bách.

Đặc điểm, tính chất của lao động nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long

Lao động nông thôn vùng ĐBSCL là lao động sinh sống, làm việc rải rác và trải dài trên các địa bàn rộng [13 tỉnh, thành phố]. Đặc điểm này làm cho việc tổ chức hợp tác lao động và việc bồi dưỡng đào tạo, cung cấp, tiếp nhận thông tin cho lao động nông thôn gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, lao động nông thôn tập trung trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, năng suất lao động còn thấp, phương thức sản xuất chưa tiên tiến do đó dẫn đến hiệu quả sản xuất không cao.

Trình độ văn hoá và chuyên môn của lao động nông thôn vùng ĐBSCL còn thấp so với những vùng khác trên cả nước. Theo IPSARD, ĐBSCL là vùng được hỗ trợ đào tạo lớn nhất cả nước nhưng chỉ 78,3% lao động được đào tạo có việc làm trong khi tỷ lệ trung bình cả nước là 81,3%; Có đến 93,7% lao động được đào tạo nghề phải tự tạo việc làm; 4,15% lao động được doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm và chỉ 0,98% lao động được doanh nghiệp tuyển dụng...[2]. Bên cạnh đó, lao động nông thôn của vùng chủ yếu học nghề thông qua việc truyền thụ của thế hệ trước hoặc tự truyền cho nhau, do đó tính chất lao động theo truyền thống và thói quen là chính. Điều đó làm cho lao động nông thôn của Vùng có tính bảo thủ nhất định, tạo ra sự khó khăn cho việc thay đổi phương hướng sản xuất và thực hiện phân công lao động, hạn chế sự phát triển kinh tế nông thôn.

Lao động nông thôn vùng ĐBSCL mang tính mùa vụ rõ rệt và phụ thuộc vào thiên nhiên, đặc biệt là các vùng nông thôn thuần nông. Do vậy, việc sử dụng lao động trong nông thôn kém hiệu quả, hiện tượng thiếu việc làm là phổ biến. Muốn giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông thôn thì phải bằng mọi biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa tính thời vụ bằng cách phát triển đa dạng ngành nghề trong nông thôn, thâm canh tăng vụ, xây dựng cơ cấu cây trồng hợp lý. 

Lao động nông thôn vùng ĐBSCL ít có khả năng tiếp cận và tham gia thị trường, thiếu khả năng nắm bắt và xử lý thông tin thị trường, khả năng hạch toán hạn chế. Do đó, khả năng giao lưu và phát triển sản xuất hàng hoá cũng có nhiều hạn chế. Tập quán sản xuất của lao động nông thôn của vùng nhìn chung vẫn còn tiểu nông, nhỏ lẻ, manh mún, chủ yếu bị ràng buộc trong khuôn khổ địa phương.

Với những đặc điểm nêu trên, lao động nông thôn vùng ĐBSCL chủ yếu thuộc bộ phận dân số thiếu việc làm thường xuyên, bán thất nghiệp. Đặc biệt, trong những năm gần đây, tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn còn do biến đổi khí hậu, đất canh tác bị nhiễm mặn, diện tích ruộng đất trên một lao động ngày càng giảm. Tình trạng đó không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của chính lao động nông thôn mà còn ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn của vùng ĐBSCL, gây lãng phí một nguồn lao động lớn ở nước ta nói chung và của Vùng nói riêng. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trong một thập niên vừa qua đã có 1,1 triệu người di cư ra khỏi vùng, lớn hơn dân số của một tỉnh trong vùng [3].

Tình hình giải quyết việc làm cho lao động nông thôn Đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay

Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta nói chung, các tỉnh, thành trong vùng ĐBSCL nói riêng hết sức quan tâm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Điều đó được thể hiện ở nhiều chính sách như chính sách đất đai, chính sách tín dụng nông thôn, chính sách phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá và đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp, chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn... Cụ thể trong chính sách đất đai: người nông dân luôn gắn với ruộng, đất bởi đó là tư liệu sản xuất trực tiếp của họ. Kể từ Khoán 100, Khoán 10 cho đến Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013, Đảng và Nhà nước ta đã từng thực hiện việc giao đất, giao ruộng cho nông dân. Đất ruộng trở thành nguồn sinh lợi, sinh kế chủ yếu của nông dân. Họ có quyền tự chủ với ruộng đất. Điều đó làm cho nguồn vốn, kỹ thuật và lực lượng lao động ở nông thôn được giải phóng. Việc làm trong nông thôn được tạo ra nhiều hơn, thu nhập của nông dân được nâng cao. Hiện nay, để nông nghiệp phát triển cao hơn cần dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất tạo điều kiện phát triển mạnh kinh tế trang trại. Trên phạm vi của cả nước nói chung và ĐBSCL nói riêng, xu hướng này đang được khuyến khích phát triển mạnh mẽ.

Trong chính sách tín dụng nông thôn: vốn là yêu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng. Đặc biệt nông dân của vùng đa phần còn thiếu vốn nên yêu cầu về vốn ngày càng cần thiết. Từ thực tế đó, Nhà nước đã chỉ đạo hình thành mạng lưới tín dụng cho nông dân rộng khắp trên cả vùng nhằm cung cấp vốn kịp thời cho nông dân. Hiện nay, một cơ sở kinh doanh được vay đến 500 triệu đồng, hộ gia đình được vay tới 20 triệu đồng với lãi suất ưu đãi. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh và tạo việc làm. Nhờ nguồn vốn ưu đãi đó, lao động nông thôn có thể mở rộng sản xuất, phát triển các ngành nghề, tạo việc làm cho bản thân và giải quyết việc làm cho nhiều lao động khác trong gia đình, làng xã.

Trong chính sách phát triển nông nghiệp hàng hoá, đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp và nông thôn: thực chất của chính sách này là thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn và trang trại, phát triển các ngành phi nông nghiệp trong nông thôn. Cùng với sự giúp đỡ của Nhà nước, những năm qua kinh tế hộ và trang trại ngày càng phát triển, nhiều loại cây trồng và con gia súc mới được đưa vào sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao. Khoa học - công nghệ được áp dụng làm cho năng suất cây trồng và vật nuôi ngày càng tăng. Trong khi đó các ngành phi nông nghiệp cũng phát triển mạnh đã giải quyết tốt vấn đề việc làm và thu nhập của nông dân.

Thực hiện chương trình đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài: trong những năm qua nước ta đã đưa hàng chục vạn lao động đi làm việc ở nước ngoài. Chương trình này có ý nghĩa to lớn trong giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho lao động. Điều đó góp phần quan trọng xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm mới trong nước. Về lâu dài hơn, chương trình cũng tạo ra một đội ngũ công nhân lành nghề do học được kỹ thuật và kinh nghiệm từ các nước mà họ đến làm việc.

Trong thực hiện Chương trình quốc gia giải quyết việc làm và chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn: Ngày 27/11/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” [Đề án 1956]. Trong Quyết định này, Đảng và Nhà nước đã khẳng định: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động nông thôn, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn”. Công tác đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn thực sự là một trong những bước đột phá đáng kể trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn. Trước đây, người lao động ở nông thôn hầu như không được đào tạo, họ chủ yếu chỉ lao động bằng kinh nghiệm cá nhân, không có nhiều điều kiện tiếp cận với những kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất nên hiệu quả sản xuất không cao, lao động manh mún, nhỏ lẻ. Ngày nay, nhờ có công tác đào tạo nghề, một bộ phận không nhỏ lao động nông nghiệp đã có thể tiếp cận được với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, có định hướng phát triển nghề nghiệp, sản xuất theo hướng bền vững. Đây là một bước đột phá trong việc giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở nước ta thời gian qua.

Trong những năm qua, mặc dù vấn đề giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn của ĐBSCL đã được tiến hành nhưng nhìn chung vẫn còn chậm và còn nhiều bất cập. Do nền kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng còn chậm phát triển, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm nên chưa tạo ra nhiều việc làm cho lao động nông thôn. Do quá trình đô thị hóa đang diễn ra ngày càng nhanh chóng nên ở nhiều vùng nông thôn của vùng, nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp; trong khi đó, trình độ của lao động nông nghiệp còn hạn chế tỉ lệ lao động nông thôn không có việc làm, thiếu việc làm đang có xu hướng gia tăng. Hơn nữa, công tác đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn chậm được triển khai. Ở nhiều địa phương nhận thức chưa đầy đủ về đào tạo nghề cho lao động nông thôn, coi đào tạo nghề chỉ là cứu cánh, có tính thời điểm, không phải là vấn đề quan tâm thường xuyên, liên tục và có hệ thống. Những hạn chế đó đang làm cản trở đến việc tạo việc làm cho lao động nông thôn của vùng thời gian qua.

Một số giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn Đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay 

Tiềm năng của vùng ĐBSCL trong phát triển nông nghiệp là rất lớn, nhu cầu việc làm ở khu vực nông thôn ngày càng tăng, Đảng bộ và chính quyền của các tỉnh, thành khu vực này đã có những chủ trương, giải pháp để giải quyết vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn một các có hiệu quả. Những kết quả đạt được đã đáp ứng được một phần yêu cầu về việc làm và đời sống của người lao động, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết việc làm vùng nông thôn, ĐBSCL cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, Đảng, Nhà nước tiếp tục có những chính sách kịp thời, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tạo thêm nhiều cơ hội về việc làm cho lao động nông thôn trên cả nước nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng. Trên cơ sở chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, mỗi tỉnh, thành trong vùng cũng cần có những chính sách thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến mở rộng sản xuất, phát triển kết cấu hạ tầng, tận dụng thế mạnh của địa phương để phát triển kinh tế du lịch, thương mại nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, đa dạng hóa các hình thức sản xuất, kinh doanh nhằm thay đổi những tập quán sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu của nông dân.

Thứ hai, cần tiếp tục nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo trong việc nâng cao dân trí cho nhân dân và đào tạo nghề cho lao động nông thôn; cần coi việc nâng cao trình độ cho lao động nông nghiệp là một điểm đột phá nhằm tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp. Việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần thiết thực, hiệu quả, gắn với thực tiễn sản xuất của địa phương để nông dân vừa có thể học nghề, vừa có thể áp dụng ngay vào sản xuất canh tác. Ngoài ra, cần có những chính sách tích cực trong việc giới thiệu việc làm cho lao động đã qua đào tạo, tìm đầu ra cho sản phẩm để những người đã tham gia đào tạo nghề tích cực phát triển sản xuất, tạo việc làm cho bản thân và cho ngước khác. Các địa phương trong vùng cần tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, nhằm nâng cao nhận thức cho người dân về công tác dạy nghề và giải quyết việc làm cho vùng nông thôn. Công tác tuyên truyền cần linh hoạt và thiết thực về nội dung và phương thức đào tạo nghề, gắn với thực tế đối tượng học nghề, cũng như gắn với chương trình việc làm cụ thể của mỗi địa phương. Điều này giúp các đối tượng lao động nông thôn của vùng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số không bị lúng túng trong việc xác định nghề học, sắp xếp thời gian học. Cần chú ý dạy nghề theo hướng tạo việc làm tại chỗ, trong đó có đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao, hoặc thúc đẩy quá trình tái cấu trúc toàn diện kinh tế và xã hội nông thôn theo tinh thần “ly nông bất ly hương”, để người lao động sống ở nông thôn sau khi tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề có thể tăng khả năng và chủ động tìm kiếm, tạo lập công việc, thu nhập ngay tại quê nhà, không phải đi xa, giảm bớt áp lực quá tải, phi kinh tế lên các đô thị.

Các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tại khu vực nông thôn của vùng còn rất ít, các hoạt động về bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng nông nghiệp rất hạn chế, hầu như chưa có, thiếu vốn cũng là nguyên nhân làm cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn ĐBSCL diễn ra chậm, việc làm chưa ổn định, đời sống của người dân còn nhiều khó khăn. Vì vậy, cần có nhiều tổ chức tín dụng, nhiều chương trình vay vốn đến tận tay người dân. Thành lập các tổ chức tín dụng, các tổ vay vốn tại các địa phương, huy động sự tham gia của các tổ chức, hiệp hội, như: Hội Phụ nữ, Hội Nông dân vào các hoạt động hỗ trợ vay vốn cho người dân. Cần chú trọng đến các nguồn vốn vay của ngân hàng chính sách xã hội, nguồn vốn hỗ trợ phát triển kinh tế cho những hộ nghèo, hộ cận nghèo, vốn ưu đãi đối với việc xây dựng các mô hình kinh tế.

Thứ ba, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và cơ giới hóa trong nông nghiệp. Trước hết, cần tăng quy mô tích tụ ruộng đất theo hộ. Có như vậy mới áp dụng được các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, lao động nông thôn sẽ ngày càng tiến dần đến nền sản xuất hiện đại. Trong nông thôn, lao động trồng trọt có tính thời vụ rất rõ rệt, do đó hiện tượng thiếu việc làm thể hiện rất rõ. Để hạn chế vấn đề này, cần phải đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, lựa chọn công thức luân canh hợp lý và đa dạng hoá các sản phẩm nông nghiệp. Ngoài ra, cần chuyển lao động từ nông nghiệp sang sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ bằng cách phát triển kinh tế phi nông nghiệp với sự bổ sung của ngành chăn nuôi và các ngành nghề phi nông nghiệp. Đó là những ngành nghề góp phần giải quyết nguồn lao động nhàn rỗi ở nông thôn, tăng thu nhập cho người lao động.

Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, chất lượng, giá trị cao và thân thiện với môi trường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người sản xuất và tiêu dùng; nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp hàng hóa có lợi thế. Phát triển quy mô và phương thức sản xuất đa dạng, phù hợp với điều kiện thực tế đối với các sản phẩm, nhóm sản phẩm có tiềm năng của vùng. Nâng cao chất lượng, sản lượng đối với các vùng sản xuất chuyên canh hiện có, mở rộng phát triển các vùng chuyên canh rau, củ quả… Bên cạnh đó, cần cấu trúc lại sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu; thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Thực hiện đầy đủ chính sách hỗ trợ, khuyến khích, thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn thành phố theo hướng phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, phát triển xanh và bền vững. Tích cực hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng vùng chuyên canh và chế biến nông sản. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi phát triển các hình thức liên doanh, liên kết “4 nhà”, nhất là liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân.

Thứ tư, cần kết hợp hài hòa giữa việc thu hồi đất nông nghiệp của nông dân với việc chuyển đổi mô hình sản xuất, phát triển sản xuất hàng hóa, dựa vào thế mạnh của từng vùng để phát triển sản xuất nông nghiệp trên quy mô lớn. Cần phải kết hợp hài hòa giữa việc hiện đại hóa sản xuất với phát triển theo hướng bền vững nhằm tạo cơ hội để lao động nông thôn vừa phát triển được các ngành nghề truyền thống, vừa tiếp cận được nền sản xuất hiện đại. Ngoài ra, cũng cần ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng trong sản xuất, đầu tư khoa học - công nghệ, tích cực hỗ trợ nông dân về vốn, kiến thức về thị trường, về hội nhập để nông dân có thể sản xuất ra những mặt hàng theo nhu cầu của thị trường, vừa đáp ứng nhu cầu tại chỗ, vừa thúc đẩy sản xuất hàng hóa. Đây cũng là một trong những cách tích cực góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn nước ta trong thời gian tới.

Như vậy, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn vùng ĐBSCL luôn là vấn đề cấp thiết của từng địa phương trong vùng. Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn không phải là dễ dàng, không thể làm nhanh chóng một sớm một chiều mà có thể hóa giải nó, giải quyết việc làm rất cần được nhìn nhận dưới một góc nhìn dài và sâu, có định hướng lộ trình rõ ràng cho những năm tiếp theo. Có như vậy thì vấn đề việc làm, lao động nông thôn vùng ĐBSCL không còn trở thành vấn đề bức xúc cho người dân. Hơn nữa việc thực hiện giải quyết vấn đề lao động và việc làm ở vùng nông thôn ĐBSCL sẽ hạn chế được dòng xuất cư đi khỏi vùng, đặc biệt là di cư lao động.           

Tài liệu tham khảo

  1. Cục Thống kê Thành phố Cần Thơ [2019], Niên giám thống kê Thành phố Cần Thơ năm 2018, Nxb Thống kê, Hà Nội.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam [2011], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam [2016], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
  4. Nguyễn Thúy Hà [2013], Chính sách việc làm: Thực trạng và giải pháp, Trung tâm Nghiên cứu khoa học - Viện Nghiên cứu Lập pháp, Hà Nội.

Video liên quan

Chủ Đề