Định tâm vương bồ tát là ai
Trước khi tu thành chính quả, các vị Phật, Bồ Tát cũng trước hết cũng là những con người. Các Ngài đã vượt qua những khổ ải của kiếp nhân gian để trở thành những tôn thượng cứu độ chúng sinh. Tìm hiểu điển tích về các vị Phật, Bồ Tát cũng là cách để mỗi chúng ta tìm về với Đạo. Vậy, quý vị đạo hữu đã biết về thân thế của Ngài - Địa Tạng Vương bồ tát chưa? ý nghĩa và cách thỉnh tượng ngày như thế nào? Chúng ta cùng sáng tỏ qua bài viết sau. Show Địa tạng vương bồ tát là ai?Quý vị Phật tử nào chắc hẳn đều không thể nào quên hình ảnh vị Mục Kiền Liên bồ tát xuống địa ngục cứu mẹ. Đó chính là Địa Tạng Vương bồ tát. Thuở sinh thời, ngài sinh ra trong một gia đình vốn thuộc dòng dõi Bà-La-Môn. Ngài là người vô cùng có tài có đức nhưng mẹ của ngài - bà Thanh Đề lại mang nhiều sát nghiệp. Khi bà Thanh Đề chết đi, bị đày xuống 18 tầng địa ngục, chịu đủ mọi trừng phạt đau đớn không thể siêu thoát. Với lòng hiếu thảo của mình, Mục Kiền Liên đã thiền định niệm Phật trước linh cữu bà nhiều ngày. Hành động này đã động chân tâm đến tận đức Phật. Đức Phật chỉ cho Ngài một con đường đó là vào ngày rằm tháng 7, Ngài hãy cùng các chư tăng tổ chức một buổi lễ để cầu nguyện và hộ niệm cho cửu huyền thất tổ và mẹ Ngài. Ngài làm theo và cuối cùng mẹ Ngài cũng được giải thoát. Kể từ đó, ngài được đức Phật thích ca nhận làm đệ tử. Điều đặc biệt là Ngài đã cầu xin với đức Phật Thích Ca nguyện xuống địa ngục giải cứu vớt chúng sinh, bao giờ địa ngục hết chúng sinh lầm than mới thành Phật. Ấn bản thứ hai về thân thế của Ngài là hoàng tử xứ Tân La (Nay thuộc Nam Hàn) tên là Kim Kyo-Gak (Kim Kiều Giác). Tuy được sinh ra trong hoàng tộc nhưng hoàng tử rất giản dị, đạm bạc, thích đọc sách Thánh hiền. Tuy là người sinh ra trong hoàng tộc nhưng hoàng tử Kim Kiều Giác là người giản dị, đạm mạc, thích đọc sách Thánh hiền. Ngài xuất gia vào năm 24 tuổi, dẫn theo một con chó trắng tên là Thiện Thính, đi khắp chốn tìm nơi thanh tịnh để tu. Đi mãi rồi Ngài cũng chọn được núi Cửu Hoa và thiền định tại đó trong 75 năm. Ngài viên tịch ở tuổi 99, nhưng nhục thân vẫn nguyên vẹn 3 năm sau đó. Các đệ tử của Ngài đã đem nhục thân ngài đến bảo tháp trên ngọn Thần Quang Lãnh để thờ cúng. Tóm lại, Địa Tạng Vương bồ tát là vị bồ tát cứu độ chúng sinh và bảo vệ trẻ em. Tương truyền rằng, những đứa trẻ yểu mệnh bởi vì còn vấn vương cha mẹ người thân nên quanh quẩn bên sông, không chịu bước qua cầu Nại Hà để đầu thai. Lúc này Đức Địa Tạng sẽ xuất hiện, an ủi, giảng giải và giúp đỡ các em bé tạo công đức qua sông. Địa Tạng Vương Bồ Tát là nam hay nữCũng vậy, ngài Địa Tạng Bồ Tát cũng trải qua nhiều kiếp số, có kiếp người là thân nữ, có kiếp là thân nam, có kiếp lại làm vua,... Khi ngài thành Bồ Tát Địa Tạng, ngài phát nguyện độ hết chúng sanh rồi mới trở thành Phật. Ngài Địa Tạng vô cùng gần gũi với mọi chúng sinh từ địa ngục ngạ quỷ, súc sinh cho đến những vong linh vừa mất, ngày giỗ ông bà cha mẹ, anh chị em, lục thân quyến thuộc,... Dù ở hoàn cảnh nào, ngài cũng hết mình cứu giúp khổ nạn. Địa Tạng Vương Bồ Tát cưỡi con gìĐịa Tạng Vương Bồ tát ngồi trên linh thú Đề Thính. Đây là loại linh thú rất đặc biệt, có khả năng nghe thấy mọi thứ trong Tam Thế, giúp Địa Tạng Vương phân biệt được thật giả, đúng sai. Địa Tạng Vương Bồ Tát có phải là Đường tam TạngĐịa tạng Vương Bồ Tát không phải là Đường Tam Tạng. Nhiều người có sự nhầm lẫn này là do hình tượng của 2 vị bồ tát được khắc họa có phần na ná nhau. Tuy nhiên, danh hiệu và cuộc đời của 2 vị hoàn toàn khác nhau. Đường Tam Tạng hay còn gọi là Đường Tăng, đã trải qua 81 kiếp nạn tai ương, bất chấp sinh tử để tới Thiên Trúc thỉnh kinh Phật, trước khi được đắc vị Phật. Ngài là nhân vật có thật trong lịch sử, tiền thân là ngài Huyền Trang, đã có công lớn trong việc phát triển kinh Phật, giúp nâng vị thế đạo Phật lên cao hơn nữa. Đề Thính là con gìĐề thính được biết đến là một con Chó. Trong Phật Pháp thì Chó đại diện cho nhị độc “Tham Sân”. Chó cũng là loại động vật nổi tiếng nhạy cảm và thông minh. Nhờ vào khả năng thính giác của mình có thể phân biệt được thật giả đúng sai. Không chỉ trong đạo Phật, khi nói đến chó, chúng ta liền hiểu đây là loài động vật thông minh và gần gũi với con người nhất. Chúng có thể dùng thính giác tuyệt vời của mình hỗ trợ cảnh sát phá án thì tất nhiên khả năng nhận biết đúng sai, thật giả đã được minh chứng rõ ràng. Vậy thì huống gì nó lại là linh thú của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Hưởng những đặc ân của ngài, loài linh thú này hỗ trợ ngài trên con đường đi cứu độ chúng sinh. Ý nghĩa của tượng Địa tạng vương bồ tátTượng Địa Tạng Vương bồ tát, tay trái cầm như ý châu, tay phải cầm tích trượng có 6 vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi có nghĩa muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian. Sứ mệnh của Ngài - Địa Tạng Vương bồ tát là để cứu độ mọi chúng sinh từ trên trời cho tới địa ngục. Bên cạnh ý nghĩa vĩ đại cứu độ hết thảy chúng sanh trong lục giới, tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát còn mang ý nghĩa sâu xa. Đó chính là biểu tượng cho tâm địa của mỗi chúng ta. Địa có nghĩa là mặt đất, Tạng có nghĩa là dung chứa. Mặt đất có thể dung chứa tất cả mọi vật, thì tâm con người cũng vậy, dung chứa cả cái thiện và cái ác. Bồ Tát Địa Tạng nguyện cứu độ mọi chúng sinh trong địa ngục mới thành Phật, cũng như người tu hành nguyện chuyển hóa tất cả những hạt giống xấu ác trong tâm thành điều thiện, như vậy cũng đã là thành Phật. Cách thỉnh tượng Địa tạng vương bồ tátKinh Phật có dạy rằng: “dốc lòng niệm tụng Bồ Tát Địa Tạng hoặc lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì xa lìa khổ não, không đọa ác đạo, thành tựu được 28 điều lợi ích. Trời rồng hộ niệm, quả lành ngày thêm lớn, chứa góp nhân vô lượng. Không lui sụt đạo giác ngộ, áo cơm đầy đủ, không bị bệnh dịch, khỏi nạn lửa nước. Không có giặc hại, người thấy cung kính, quỷ thần hộ trì…” Chính vì vậy, nhiều chùa chiền khắp mọi nơi trên cả nước đều chuẩn bị một vị trí trong các chư Phật và Bồ Tát để dành cho Ngài. Nhiều gia đình tu tập tại gia cũng thỉnh tượng Ngài về để thờ. Nhưng không phải bất kỳ tăng ni, đạo hữu Phật Tử nào cũng biết nên thỉnh tượng địa tạng vương bồ tát ở đâu. Nếu bạn vẫn còn đang băn khoăn về việc này, thì hãy liên hệ với Buddhist Art - đây là trung tâm sáng tác mỹ thuật Phật Giáo thuần việt. Chúng tôi tôn tạo nên những tác phẩm tượng Phật mang đậm bản sắc con người Việt Nam. Điều này khác hoàn toàn với tượng quý vị nhập từ Đài Loan, Trung Quốc. Phải công nhận một điều tượng nhập từ Đài Loan Trung Quốc được tạo tạc rất đẹp, nhưng trong kinh Phật có nói, tượng của người nước nào sẽ có dáng vẻ của người nước đó. Cho nên, tượng của chính người Việt Nam tôn tạo sẽ chỉ dành riêng cho người Việt Nam thờ phượng. Thỉnh tượng Địa Tạng Vương bồ tát tại Buddhist Art, quý vị sẽ hoàn toàn hài lòng với chất lượng của các loại vật liệu như Composite, đá hoặc đồng. Tùy mỗi loại chất liệu sẽ có giá cả khác nhau. Hãy liên hệ với chúng tôi để biết thêm chi tiết nhé Tham khảo: Các mẫu tượng Bồ Tát đẹp nhất Mời quý sư Thầy, Sư Cô, Phật Tử cùng tham khảo một số mẫu tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát đẹp tại BUDDHIST ART. Mọi chi tiết xin liên hệ 0338.526.733 để được tư vấn.
Kinh Pháp Hoa, quyển thứ bảy nói về các Bồ tát: Dược Vương, Diệu Âm, Quan Âm, Diệu Trang Nghiêm và Phổ Hiền. Mỗi vị Bồ tát này có một hạnh khác nhau mà vị nào cũng tài giỏi xuất sắc và cũng rất dễ quý kính để chúng ta lập hạnh tu theo. 1- Dược Vương Bồ tát Bổn sự Bồ tát Quán Thế Âm hiện thân ngài Dược Vương Bồ tát Trên bước đường tu, chứng được pháp Hiện Nhứt thiết Sắc thân Tam muội thì trong thế giới tâm linh phải hiện hữu cảnh hay vật trước; sau đó cảnh này, vật này phải có thực trên cuộc đời. Như vậy, tâm và cảnh được thống nhất, hay nói cách khác là chuyển đổi sở đắc tâm linh siêu hình trở thành cuộc sống hiện thực. Chuyển đổi bằng cách chúng ta tu hành phát huy công đức của mình; vì chỉ có công đức mới làm thay đổi được, mới biến ngôi chùa tâm linh thành ngôi chùa hiện thực. Công đức thành tựu nhờ những việc làm mang lợi lạc cho mọi người, nên mọi người thấy Bồ tát là mừng rỡ, Ngài mới có tên là Nhứt thiết Chúng sinh Hỷ kiến. 2- Bồ tát Diệu Âm 3- Bồ tát Quan Âm Từ biểu tượng Bồ tát Quan Âm có quyền năng vô hạn mà chúng ta kính ngưỡng, tôn thờ, trở lại thực tế cuộc sống, quan sát sinh hoạt xã hội, theo tôi, bất cứ người nào dù khoác áo hình thức nào, nhưng mang lại an vui cho đời và giúp đỡ người vượt qua những khó khăn hiểm nguy, thì đó chính là thị hiện của Bồ tát Quan Âm. Bồ tát Quán Thế Âm - ảnh: Giác Châu Càng kính lễ Bồ tát Quan Âm, bước theo dấu chân Ngài, chúng ta càng nuôi lớn tâm từ bi, hạnh từ bi của chính mình. Đó thật sự là con đường truyền thông nối liền chúng ta và Bồ tát Quan Âm trong Pháp giới, là nhịp cầu trợ giúp chúng ta tiếp nhận được năng lực siêu nhiên của đức Quan Âm. Nhờ sự gia bị của Ngài, chúng ta mới dễ dàng thành tựu những việc làm lợi ích cho đời, tốt đẹp cho đạo, những việc thật khó khăn vượt ngoài khả năng và suy nghĩ của con người bình thường. Vì vậy, có lúc nhận thấy một người rất tầm thường, nhưng họ lại làm được việc phi thường. Và sau đó, họ lại sinh tâm cao ngạo, tự cho rằng mình tài giỏi, tự làm được, thì Phật lực, Bồ tát lực không gia bị nữa và niềm tin đối với Đức Phật, Bồ tát không còn. Phạm sai lầm này, họ rơi trở lại thân phận con người tầm thường, chẳng làm nổi việc gì dù nhỏ nhất. 4- Diệu Trang Nghiêm Vương hay Bồ tát Hoa Đức Ngày nay, học theo gương của Hoa Đức Bồ tát, trong mối quan hệ với mọi người, dù có gặp người tồi tệ đến mấy, chúng ta cũng nên thấy mặt tốt của họ để phát triển căn lành của chính mình và của người. 5- Bồ tát Phổ HiềnMở đầu phẩm Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát thứ 28, Đức Phật nói với Bồ tát Phổ Hiền rằng muốn có kinh Pháp Hoa sau khi Như Lai diệt độ phải thành tựu bốn điều là trồng căn lành, có tâm từ bi, sống trong Thiền định và thấy đúng sự thật của tâm thế gian. Và có bốn pháp này sẽ được Phật lực và Phổ Hiền lực gia bị. Trồng căn lành ở Phật nghĩa là suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng ta giống vị Phật đó, mới nhận được lực gia bị của Ngài. Thí dụ Đức Phật Thích Ca làm những việc khó làm, chúng ta tập theo hạnh của Ngài, dấn thân làm một số việc khó một cách vô điều kiện, không ngại gian lao, thì được Đức Phật hộ niệm và ấn chứng với Bồ tát Phổ Hiền là chúng ta làm thay Phật, nên được Đức Phổ Hiền che chở, chúng ma không phá hại được, việc dữ hóa lành, việc khó thành dễ. Bồ tát Phổ Hiền Bồ tát Phổ Hiền có ba lời nguyện. Thứ nhất, người tu Pháp Hoa gặp ma chướng nhiễu hại, tức hoàn cảnh khó khăn. Gần nhất là khó khăn về ba việc căn bản của sự sống: cơm ăn, áo mặc, chỗ ở và ra ngoài bị người chống phá, đe dọa. Tin lời nguyện của đức Phổ Hiền rằng nếu có như vậy, Ngài sẽ dùng sức thần thông hộ trì Diệu pháp, giữ ma lại, không cho ma phá hại chúng ta. Thậm chí nhờ lực Bồ tát Phổ Hiền gia bị biến ác ma thành pháp lữ, nghĩa là người đang chống phá, họ vụt đổi ý thành giúp đỡ, nếu chúng ta đúng như pháp tu hành. Điển hình như bác sĩ Cầm xưa kia đưa người đến dẹp chùa Ấn Quang lúc còn là chùa lá. Nhưng ông không dám phá, mà lại cấp giấy phép xây dựng chùa. Theo tôi, lúc bấy giờ ở chùa Ấn Quang chư Tăng trụ pháp, vững niềm tin ở Phật, nên nhận được lực gia trì rất lớn của Phổ Hiền Bồ tát. Quả thật, những người chống phá Phật giáo đã trở thành người bảo trợ Phật học đường Nam Việt thời ấy. Thiết nghĩ gặp ma phá, chúng ta nhiếp tâm tu, tin tưởng ở lực gia trì của Phật và Bồ tát, thì thuận nghịch đều là duyên, ma sẽ trở thành pháp lữ.Trường hợp thứ hai được Phổ Hiền Bồ tát gia bị là nếu người chất phác, có tánh ôn hòa, học kinh Pháp Hoa mà không hiểu nghĩa lý sâu xa, nên ngồi suy nghĩ thường trú Pháp thân, Ngài sẽ ân cần hiện hình dạy bảo. Người có tánh nhu hòa, hiền lành, không chấp việc sai trái của người, nhưng họ chưa hiểu nghĩa kinh sâu sắc. Họ chỉ cần ngồi yên suy nghĩ thường trú Pháp thân, nghĩa là tin tưởng, nghĩ rằng Phật sanh thân không còn, nhưng Pháp thân Phật bất sinh bất diệt, thường trú vĩnh hằng. Đức Phật vẫn hiện hữu trong ta, trên ta và xung quanh ta. Tâm chúng ta nghĩ đến Đức Phật, ở trong thế giới Phật, lần lần thế giới mà chúng ta sống cũng an lành theo, là an từ trong tâm lẫn đến phát triển thế giới bên ngoài an lành. Điều này thể hiện rõ nét khi các bậc chân tu chỉ có tấm lòng, nhưng từ đó mà chùa chiền và quyến thuộc được phát triển. Và nguyện thứ ba của Bồ tát Phổ Hiền là khi chúng ta tu hành không an ổn, nên nhập thất 21 ngày tu quán Phổ Hiền. Đây là phương tiện ban đầu giúp chúng ta tập sự thâm nhập thế giới tâm linh. Đức Phổ Hiền dạy chúng ta nên ngồi suy nghĩ thường trú Pháp thân Phật; nghĩa là trụ định, rời bỏ thế giới sai biệt này và tâm hoàn toàn lắng yên đến quên mình có mạng sống này, quên thân phận nghèo, dốt, dở, hay gọi là vong ngã. An trụ Thiền định, quán sát thường trú Pháp thân, để nhận biết được Đức Phật từ đâu đến trần gian này và vắng bóng trên cuộc đời, Ngài đi về đâu, thì Phổ Hiền Bồ tát sẽ ân cần hiện hình dạy bảo. Trong thế giới Thiền định mới có Bồ tát Phổ Hiền xuất hiện làm bạn trợ lực chúng ta. Bấy giờ, chúng ta sẽ thấy Bồ tát Phổ Hiền cỡi voi trắng sáu ngà đến đưa chúng ta lên Đâu Suất Đà thiên nghe Di Lặc thuyết pháp. Nhận được pháp của Bồ tát Di Lặc truyền trao, thì trở lại nhân gian, chúng ta có tầm nhìn siêu xuất. Điển hình là Ngài Vô Trước được Phổ Hiền đưa lên cung trời Đâu Suất nghe Di Lặc Bồ tát thuyết pháp và trở lại nhân gian, Ngài viết bộ Bách pháp luận, lý giải mọi sinh hoạt trên cuộc đời không thuần như trên Pháp tánh, mà gồm có 8 thức tâm vương, 51 tâm sở, 6 căn bản phiền não, 20 tùy phiền não và 24 bất tương ưng hành pháp. Cuộc đời Ta bà thì có bách pháp, còn trong Thiền định thì không có những thứ lăng xăng lộn xộn này.Nương lực Phổ Hiền, được dạo chơi mười phương thế giới Phật, thì tuy vẫn hiện hữu ở trần gian này nhưng việc ăn, mặc, ngủ nghỉ không còn chi phối chúng ta; trái lại chúng ta luôn sống trong Thiền định, sống trong thế giới Phật. Được như vậy, khi mãn duyên Ta bà, chúng ta nhẹ nhàng về với Đức Phật. Tóm lại, trụ pháp sẽ nhận được ba điều căn bản mà Ngài Phổ Hiền luôn gia bị để chúng ta thấy Đức Phật, hiểu nghĩa lý kinh và vượt được mọi chướng duyên trên bước đường tu, tiến đến Bảo sở. KẾT LUẬN HT. THÍCH TRÍ QUẢNG |