Đối với nhà Thanh ở Trung Quốc, triều đình nhà Nguyễn thực hiện chính sách đối ngoại như thế nào

Đối với nhà Thanh ở Trung Quốc, triều đình nhà Nguyễn thực hiện chính sách đối ngoại như thế nào?

Đối với nhà Thanh ở Trung Quốc, triều đình nhà Nguyễn thực hiện chính sách đối ngoại như thế nào?

A. Chịu phục tùng nhà Thanh

B. Kiên quyết không chịu phục tùng nhà Thanh

C. Thực hiện chính sách "đóng cửa với nhà" Thanh.

D. Giữ quan hệ hoà hảo hai bên cùng có lợi

Đối với nhà Thanh ở Trung Quốc, triều đình nhà Nguyễn thực hiện chính sách đối ngoại như thế nào?

A. Chịu phục tùng nhà Thanh

Đáp án chính xác

B.KIên quyết không chịu phục tùng nhà Thanh

C.Thực hiện chính sách "đóng cửa" với nhà Thanh

D.Giữ quan hệ hòa hảo hai bên cùng có lợi

Xem lời giải

Mục lục

Quốc hiệu

Bài chi tiết: Tên gọi Trung Quốc

Nguồn gốc tên gọi

Năm 1616, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thành lập chính quyền Hậu Kim, đến năm 1636 thì Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu thành "Đại Thanh". Sau khi nhập quan, Đại Thanh trở thành một trong ba hoàng triều thống nhất Trung Quốc đặt chữ "Đại" vào quốc hiệu chính thức, sau Đại Nguyên và Đại Minh.[14] Lý do Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu không hề được sử liệu ghi chép chính xác, theo đó cũng có những giải thích cạnh tranh về ý nghĩa của Qīng [có nghĩa là "rõ ràng" hoặc "tinh khiết"]. Tên có thể đã được chọn để phản ứng với tên của nhà Minh [明], bao gồm các yếu tố "nhật" [日] và "nguyệt" [月], cả hai đều gắn liền với yếu tố hỏa của hệ thống hoàng đạo Trung Quốc. Từ Thanh [清, qīng] bao gồm "thủy" [氵] và "thanh"[note 6] [青], cả hai nghĩa liên kết với nhau là "thủy thanh" có nghĩa là nước xanh. Cách viết này sẽ là ẩn dụ cho cuộc chinh phạt của quân Thanh tiêu diệt nhà Minh là thất bại của lửa bởi nước.[15] Hình ảnh về "nước" của tên mới cũng có thể có những liên quan đến đạo Phật về sự sáng suốt và giác ngộ và kết nối với Bồ tát Văn-thù-sư-lợi. "Thanh" cũng là tên của một số dòng sông ở Mãn Châu, tại một trong số đó Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã giành chiến thắng quan trọng vào năm 1619.[16] Cũng có thể xuất phát từ tên tiếng Mãn 「ᠳᠠᠢᠼᠢᠨ」[Daičin], có thể bắt nguồn từ một từ tiếng Mông Cổ có nghĩa là "người thiện chiến, chiến binh",[17][18] và "Đại Thanh quốc" nghĩa là "thượng quốc" hoặc "quốc gia thiện chiến",[19][20] tuy nhiên quan điểm này vẫn còn gây tranh cãi, bởi có học giả đã khảo chứng từ ngôn ngữ và tài liệu lịch sử và chỉ ra rằng, những sách được biên soạn bởi những người thống trị nhà Thanh hoàn toàn không sử dụng cách nói này.[note 7]

Cải tạo từ "Trung Quốc"

Văn chương Trung Quốc [中國] trong một cuốn sách giáo khoa tiếng Trung, tiếng Mãn và tiếng Mông Cổ [song ngữ] được xuất bản trong triều đại nhà Thanh; đoạn văn hiển thị ở trên có nội dung: "Đất nước Trung Quốc của chúng tôi nằm ở Đông Á... Trong 5000 năm, văn hóa phát triển [ở đất nước Trung Quốc]... Vì chúng tôi là người Trung Quốc, làm sao chúng tôi không yêu Trung Quốc."

Sau khi chinh phục Trung Quốc bản thổ, Mãn Thanh thường gọi nhà nước của họ là Trung Quốc [tiếng Trung: 中國; bính âm: Zhōngguó, tiếng Mãn: ᡩᡠᠯᡳᠮᠪᠠᡳ
ᡤᡠᡵᡠᠨ
, chuyển tả: dulimbai gurun].[22][23] Các hoàng đế đã đánh đồng các vùng đất của Thanh quốc [bao gồm Đông Bắc Trung Quốc, Tân Cương, Mông Cổ, Tây Tạng và các khu vực khác] là Trung Quốc trong cả hai tiếng Trung Quốc và tiếng Mãn Châu, xác định Trung Quốc là một quốc gia đa sắc tộc, và từ chối ý tưởng rằng Trung Quốc chỉ có nghĩa là khu vực người Hán. Các hoàng đế nhà Thanh tuyên bố rằng cả người Hán và không phải người Hán đều là một phần của Trung Quốc. Họ đã sử dụng cả Trung Quốc và "Thanh" để chỉ triều đại của mình trong các tài liệu chính thức. "Tiếng Trung Quốc" [Dulimbai gurun i bithe] bao gồm tiếng Trung Quốc, tiếng Mãn và tiếng Mông Cổ và "người Trung Quốc" [tiếng Trung: 中國之人; Hán-Việt: Trung Quốc chi nhân; bính âm: Zhōngguó zhī rén; tiếng Mãn: Dulimbai gurun i niyalma] đề cập đến tất cả các đối tượng của đế quốc.[24]

Năm 1689, khi Khang Hy ký kết Điều ước Nerchinsk [Ni Bố Sở] với Nga, lần đầu tiên sử dụng "Trung Quốc" như là tên quốc gia chính thức, đối ứng với "Nga",[note 8][25] từ Trung Quốc này chính là để chỉ Đế quốc Đại Thanh bao quát cả Mông Cổ và Đông Bắc Trung Quốc.[26] Khi nhà Thanh đã chinh phục Dzungaria vào năm 1759, họ tuyên bố rằng vùng đất mới đã bị thôn tính vào "Trung Quốc" [Dulimbai Gurun] trong đài tưởng niệm tiếng Mãn.[27][28] Phiên bản tiếng Mãn của Hiệp ước Kyakhta [1768], một hiệp ước với Đế quốc Nga liên quan đến quyền lực hình sự đối với kẻ cướp, được gọi là người từ nhà Thanh là "người từ trung quốc [Dulimbai Gurun]".[29] Đến nay, khái niệm "Trung Quốc" chính là từ khái niệm "Trung Quốc" mà nhà Thanh đắp nặn ra.

Lịch sử

Bài chi tiết: Lịch sử Trung Quốc §Nhà Thanh

Sự thành lập nước Hậu Kim và triều đại nhà Thanh của người Mãn Châu

Bài chi tiết: Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Hoàng Thái Cực, và Hậu Kim

Nhà Thanh là một triều đại do người Mãn Châu thành lập, một dân tộc thiểu số du mục[30] ở một số nước Đông Á hiện nay. Vốn là những người du mục bán khai, người Mãn Châu dần chiếm ưu thế tại vùng hiện ở phía đông nam Nga. Quốc gia Mãn Châu được Nỗ Nhĩ Cáp Xích [Nurhaci] thành lập vào đầu thế kỷ 17. Ban đầu chỉ là một nước chư hầu của nhà Minh, ông tự tuyên bố mình là hoàng đế của nước Hậu Kim năm 1616. Cùng năm ấy, ông phát triển các nguồn tài nguyên kinh tế, con người của đất nước cũng như kỹ thuật bằng cách thu nhận những người Hán sống tại vùng Mãn Châu.

Năm 1625, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lập thủ đô tại Thẩm Dương [tiếng Mãn: Mukden], nhưng năm sau ông phải chịu một thất bại quân sự lớn đầu tiên trước một vị tướng nhà Minh là Viên Sùng Hoán. Nỗ Nhĩ Cáp Xích chết năm đó. Một trong những thành tựu lớn nhất của ông là việc tạo lập hệ thống Bát Kỳ, theo đó mọi người dân Mãn Châu đều thuộc một trong tám "Kỳ", đó vừa là các đơn vị dân sự vừa mang tính chất quân sự. Các Kỳ được đặt tên như vậy bởi vì mỗi nhóm được phân biệt bởi một lá cờ khác nhau.

Người kế tục Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Hoàng Thái Cực tiếp tục tiến hành công việc dựa trên các nền móng được cha để lại, sáp nhập các kỳ của người Hán đầu tiên vào quân đội của mình. Hoàng Thái Cực cũng chấp nhận việc áp dụng nhiều cơ cấu chính trị kiểu nhà Minh vào đất nước mình, nhưng luôn giữ ưu thế của người Mãn Châu trong các cơ cấu đó thông qua một hệ thống định mức phân bổ. Khi Lâm Đan Hãn, vị đại hãn cuối cùng của người Mông Cổ, chết trên đường tới Tây Tạng năm 1634, con trai ông Ngạch Triết [Ejei] đã đầu hàng người Mãn Châu và trao lại ngọc tỉ truyền quốc của hoàng đế nhà Nguyên cho Hoàng Thái Cực.

Năm 1636 Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu thành Đại Thanh, có nghĩa là thanh khiết, biểu hiện những tham vọng đối với vùng Mãn Châu. Cái tên Thanh được lựa chọn bởi vì tên của nhà Minh [明] được cấu thành từ các ký hiệu của chữ nhật [日, mặt trời] và nguyệt [月, Mặt Trăng], đều liên quan tới hỏa mệnh. Chữ Thanh [清] được cấu thành từ chữ căn bản là thuỷ [水, nước] và từ chỉ màu xanh [青], cả hai đều là mệnh thuỷ. Trong thuyết Ngũ hành, thì thủy khắc được hỏa, ám chỉ việc nhà Thanh sẽ đánh tan toàn bộ nhà Minh. Trong một loạt những chiến dịch quân sự, Hoàng Thái Cực đã khuất phục được vùng Nội Mông và Triều Tiên trước khi tiếp tục chiếm quyền kiểm soát vùng Hắc Long Giang[31].

Chiếm Trung Nguyên cùng toàn bộ xứ sở Trung Quốc, nhà Thanh tuyên bố Thiên mệnh Trung Hoa trên khắp thiên hạ.

Bắc Kinh đã bị một liên minh những lực lượng nổi loạn do Lý Tự Thành[32] cầm đầu vào cướp phá. Nhà Minh chính thức kết thúc khi Minh Tư Tông Chu Do Kiểm [Sùng Trinh Đế], vị hoàng đế cuối cùng của nhà Minh treo cổ tự tử tại Môi Sơn cạnh Tử Cấm Thành. Sau khi chiếm Bắc Kinh vào tháng 4 năm 1644, Lý Tự Thành dẫn đầu một đội quân mạnh gồm 600.000 người chiến đấu với Ngô Tam Quế, vị tướng chỉ huy lực lượng đồn trú 100.000 lính bảo vệ Sơn Hải Quan[33] [山海關] của nhà Minh.

Sơn Hải Quan là cửa ải có vị trí trọng yếu ở phía đông bắc Vạn lý trường thành cách Bắc Kinh năm mươi dặm về phía đông bắc và trong nhiều năm lực lượng đồn trú tại đây luôn phải chiến đấu ngăn chặn người Mãn Châu bên ngoài thủ đô Bắc Kinh. Sau khi Lý Tự Thành chiếm được Bắc Kinh, giết cha và cướp thiếp của Ngô Tam Quế, Ngô Tam Quế đã quyết định mở cổng thành đầu hàng nhà Thanh, liên minh với Đa Nhĩ Cổn, khi ấy đang làm nhiếp chính cho Hoàng đế Thuận Trị mới 6 tuổi nối nghiệp Hoàng Thái Cực vừa mất năm trước.

Liên minh này đánh bại các lực lượng nổi loạn của Lý Tự Thành trong trận chiến ngày 27 tháng 5 năm 1644, sau đó đánh chiếm kinh đô Bắc Kinh. Quá trình tiêu diệt các lực lượng trung thành với nhà Minh [nhà Nam Minh], những kẻ nhòm ngó ngôi báu và những nhóm vũ trang cát cứ khác kéo dài thêm 17 năm nữa. Vị vua cuối cùng của nhà Minh, Vĩnh Lịch, chạy trốn tới Miến Điện, tức Myanmar hiện nay, nhưng bị bắt và giao lại cho lực lượng viễn chinh của nhà Thanh do Ngô Tam Quế cầm đầu. Vĩnh Lịch bị hành quyết tại tỉnh Vân Nam đầu năm 1662.

Khang Hy và sự củng cố quyền lực

Hoàng đế Khang Hi [khoảng 1662 - 1722]

Hoàng đế Khang Hy [1661 - 1722] lên ngôi khi mới 8 tuổi. Trong những năm cầm quyền đầu tiên ông được bà của mình là Hiếu Trang Thái Hoàng Thái Hậu giữ quyền nhiếp chính trợ giúp rất nhiều.

Người Mãn Châu nhận ra rằng việc kiểm soát "Thiên mệnh" là một nhiệm vụ hết sức to lớn. Sự rộng lớn của lãnh thổ Mãn Châu đồng nghĩa với việc triều đình chỉ có đủ quân đội để đồn trú tại những thành phố chính và xương sống của mạng lưới phòng ngự dựa chủ yếu vào những người lính nhà Minh đã đầu hàng.

Hơn nữa, các tướng lĩnh nhà Minh đã đầu hàng trước đó cũng được lựa chọn theo mức độ đóng góp vào việc thành lập nhà Thanh, được phong tước trở thành các lãnh chúa phong kiến [藩王 - phiên vương], và được quyền cai quản những vùng đất rộng lớn ở phía nam Trung Quốc. Người đứng đầu số đó là Ngô Tam Quế [吳三桂], được trao các tỉnh Vân Nam và Quý Châu, trong khi các vị tướng khác như Thượng Khả Hỷ [尚可喜] và Cảnh Trọng Minh [耿仲明] được giao cai quản các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. Ba người này được người Trung Quốc gọi chung bằng cái tên Tam Phiên.

Sau một thời gian, ba vị lãnh chúa này và những vùng đất đai của họ cai quản dần trở thành hình thức tự trị. Cuối cùng, vào năm 1673, Thượng Khả Hỷ thỉnh cầu Khang Hy, bày tỏ ước vọng muốn được trở về quê hương Liêu Đông [遼東] và chỉ định con trai làm người kế nhiệm. Vị hoàng đế trẻ cho phép ông ta về nghỉ nhưng từ chối trao chức vụ cho người con trai. Trước sự kiện đó, hai vị tướng kia cũng quyết định xin về hưu để thử phản ứng của Khang Hy, cho rằng ông ta sẽ không dám liều xúc phạm đến họ. Hành động này mang lại kết quả trái ngược với mong đợi của họ khi vị hoàng đế trẻ tuổi lừa phỉnh họ bằng cách chấp nhận các yêu cầu và đoạt lại ba vùng đất đó cho triều đình.

Thấy mình bị tước đoạt quyền lực, Ngô Tam Quế cho rằng ông ta không còn lựa chọn nào khác ngoài cách làm loạn. Ngô Tam Quế cùng Cảnh Trọng Minh và con trai Thượng Khả Hỷ là Thượng Chi Tín [尚之信] thành lập liên minh. Cuộc nổi dậy diễn ra sau đó kéo dài tám năm. Ở thời phát triển mạnh nhất, lực lượng nổi dậy đã tìm cách mở rộng tầm kiểm soát của mình về hướng bắc tới tận sông Trường Giang [長江]. Dù vậy, cuối cùng triều đình nhà Thanh tiêu diệt được cuộc nổi dậy và kiểm soát được toàn bộ miền nam Trung Quốc. Trong lịch sử Trung Quốc, sự kiện này được gọi là Loạn Tam Phiên.

Để củng cố đế chế, Khang Hy đích thân chỉ huy một loạt các chiến dịch quân sự tấn công Tây Tạng, người Dzungar; và sau này, ông đánh cả Đế quốc Nga, nhưng phần lớn bị Pyotr I tấn công dữ dội cho tới chân Vạn lý trường thành. Ông dàn xếp một cuộc hôn nhân giữa con gái mình với vị Khả Hãn Mông Cổ là Chuẩn Cát Nhĩ nhằm tránh một cuộc xung đột quân sự. Các chiến dịch quân sự của Gordhun chống lại nhà Thanh đã chấm dứt, giúp tăng cường sức mạnh đế chế. Đài Loan cũng bị các lực lượng nhà Thanh chinh phục năm 1683 từ tay con trai của Trịnh Kinh là Trịnh Khắc Sảng [鄭克塽,] [cháu nội Trịnh Thành Công, người đã đoạt lại quyền kiểm soát Đài Loan từ tay thực dân Hà Lan]. Tới cuối thế kỷ 17, Trung Quốc đạt tới đỉnh cao quyền lực của mình kể từ thời nhà Minh.

Khang Hi cũng cho phép nhiều nhà truyền giáo thuộc các Giáo hội Thiên chúa tới Trung Quốc để truyền đạo. Dù họ không đạt được mục đích cải đạo cho đa số dân Trung Quốc, Khang Hi vẫn cho họ sống yên ổn tại Bắc Kinh.

Thịnh trị thời Ung Chính và Càn Long

Bình của người hành hương, sứ cảnh lam. Nhà Thanh, giai đoạn Càn Long thế kỷ 18.

Hai giai đoạn trị vì của Hoàng đế Ung Chính [trị vì 1722 - 1735] và con trai ông Hoàng đế Càn Long [trị vì 1735 - 1796] đánh dấu đỉnh cao phát triển quyền lực nhà Thanh. Trong giai đoạn này, nhà Thanh cai quản 13 triệu km2 lãnh thổ.

Sau khi Khang Hy qua đời vào mùa đông năm 1722, con trai thứ tư của ông là Ung Thân vương [雍親王] Dận Chân lên nối ngôi trở thành Hoàng đế Ung Chính. Ung Chính là một nhân vật gây nhiều tranh cãi bởi vì có những lời đồn đại về việc ông cướp ngôi, và trong những năm cuối cùng thời Khang Hy, ông đã tham gia vào nhiều cuộc tranh giành quyền lực chính trị với các anh em của mình.

Ung Chính là một nhà cai trị chăm chỉ và quản lý đất nước mình bằng bàn tay sắt. Bước đầu tiên của ông nhằm tăng cường sức mạnh triều đình là đưa hệ thống thi cử quốc gia trở về các tiêu chuẩn trước đó. Năm 1724 ông đàn áp thẳng tay những trao đổi tiền bất hợp pháp, vốn bị các quan chức triều đình lợi dụng để kiếm chác. Những người vi phạm vào luật mới về tài chính đều bị cách chức hay trong những trường hợp nghiêm trọng, sẽ bị hành quyết.

Ung Chính rất tin tưởng vào các vị quan người Hán, và đã chỉ định nhiều người được ông che chở vào những chức vụ quan trọng. Một trong những trường hợp điển hình là Niên Canh Nghiêu đã được phong làm người chỉ huy chiến dịch quân sự tại Thanh Hải, thay cho người em trai của Ung Chính là hoàng tử Dận Trinh [胤禵]. Tuy nhiên, những hành động kiêu ngạo của Niên khiến ông mất chức năm 1726.

Trong thời gian cai trị của Ung Chính, sức mạnh của đế quốc được củng cố và đạt tới mức cao nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nhiều vùng đất ở phía tây bắc được sáp nhập vào lãnh thổ quốc gia. Một lập trường cứng rắn hơn được thực hiện nhằm mục đích loại bỏ các quan lại tham nhũng, và Ung Chính là người đã lập ra Quân Cơ Xứ [軍機處], trên thực tế là một bộ máy nhằm đảm bảo sự yên ổn của triều đình.

Hoàng đế Ung Chính mất năm 1735. Con trai thứ tư ông, Bảo Thân Vương [寶親王] Hoằng Lịch lên nối ngôi trở thành Hoàng đế Càn Long. Càn Long nổi tiếng là một vị tướng có tài. Nối ngôi ở tuổi 24, Càn Long đích thân chỉ huy một cuộc tấn công quân sự gần Tân Cương và Mông Cổ. Các cuộc nổi loạn và khởi nghĩa tại Tứ Xuyên và nhiều vùng ở phía nam Trung Quốc cũng được dẹp yên.

Khoảng bốn mươi năm kể từ khi Càn Long lên ngôi, chính phủ nhà Thanh đối mặt với tình trạng tham nhũng nặng nề trở lại. Hòa Thân một vị quan trong triều, là kẻ tham nhũng nhất vương quốc. Ông ta đã bị con trai Càn Long, Hoàng đế Gia Khánh [1796 - 1820] buộc phải tự sát.

Mở rộng đế chế

Sau khi chiếm Trung Hoa của nhà Minh, các hoàng đế nhà Thanh đã từng bước mở rộng đế chế của mình thông qua các cuộc chiến tranh và sáp nhập. Họ đã chiếm thêm được Tân Cương, Tây Tạng, Đài Loan, một phần Kazakhstan, Kyrgyzstan, Uzbekistan ngày nay và cùng với Mông Cổ, Triều Tiên trước đó vào đế chế của mình. Họ đã thất bại trước nước Đại Việt và Miến Điện khi tiến xuống Đông Nam Á vào nửa sau thế kỷ 18, cho tới khi Đế quốc Nga xâm chiếm Trung Á vào thế kỉ 19.

Nổi loạn, bất ổn và áp lực ngày càng tăng

Một quan điểm thông thường về Trung Quốc ở thế kỷ 19 cho rằng đây là giai đoạn mà sự kiểm soát của nhà Thanh suy yếu đi và sự thịnh vượng cũng sút giảm. Quả vậy, Trung Quốc phải chịu đựng nhiều cuộc xung đột xã hội, đình đốn kinh tế và sự bùng nổ dân số đặt ra những vấn đề lớn đối với việc phân phối lương thực.

Các nhà sử học đã đưa ra nhiều sự giải thích cho những sự kiện trên, nhưng ý tưởng căn bản cho rằng quyền lực nhà Thanh, sau một thế kỷ, đã phải đối mặt với những vấn đề bên trong và áp lực bên ngoài khiến cho hình mẫu chính phủ, tình trạng quan liêu và hệ thống kinh tế của Trung Quốc thời ấy không sao giải quyết nổi:

  • Trước tiên, nhà Thanh phải đối mặt với khó khăn giống như những triều đại trước: giai cấp địa chủ không ngừng gia tăng thôn tính ruộng đất và bóc lột, khiến cho phần lớn nông dân tự canh phá sản, mất đi ruộng đất, trở thành tá điền hoặc lưu dân, bị buộc phải chấp nhận những điều kiện hà khắc, chấp nhận mức tô càng nặng nề hơn trước. Bởi thế, tình trạng bần cùng hoá giai cấp nông dân trở nên phổ biến, đẩy họ vào hoàn cảnh đói rét vô cùng bi thảm. Thời Càn Long, tình trạng địa chủ thôn tính ruộng đất đã cực kỳ nghiêm trọng, "trong 10 người thì 1-2 kẻ sở hữu đất đai, 3-4 người không có ruộng để cày, còn tá điền thì chiếm đến 4-5 người". Một số lượng lớn nông dân bị ép phải rời bỏ quê hương, trở thành lưu dân, lưu lạc tha hương. Chỉ riêng thành Bắc Kinh đã có 10 vạn ăn mày. Triều đình nhà Thanh đối với vấn đề này không một kế sách khả thi, số lượng dân đói, dân lưu lạc ngày càng tăng, mâu thuẫn giai cấp xã hội ngày càng nghiêm trọng, nguy cơ kinh tế vì thế dẫn tới đấu tranh chính trị, cung cấp điều kiện xã hội ngày càng chín muồi cho các cuộc khởi nghĩa nông dân. Tả Tông Đường đã đánh giá về tình hình kinh tế các tầng lớp ở nông thôn như sau: "Trong 10 người thì giàu có bất quá được 1, 2 kẻ, còn lại đều lao động bần khổ, hoặc làm giấy, hoặc trồng khoai thay lương, năm được mùa còn phải mua ngũ cốc tiếp hoang, năm mất mùa lấy đâu ra no đủ?" Các tổ chức phản kháng như Bạch Liên giáo, Thiên Địa hội, Niệm đảng, Bái Thượng đế giáo... đã thừa cơ mở rộng lực lượng, tổ chức khuyên răn dẫn dắt dân đói, dân lưu lạc tham gia đấu tranh phản Thanh nhằm tìm con đường sống.
  • Sau 150 năm hòa bình, nhà Thanh gặp vấn nạn bùng nổ dân số: Thời kì đầu nhà Thanh, do chiến tranh khiến dân số sụt giảm nhiều, triều đình tiến hành chính sách khuyến khích sinh sản, từ "tư sinh nhân đinh, vĩnh bất gia phú" thời Khang Hy tới "than đinh nhân mẫu" thời Ung Chính đều xoá bỏ thuế đầu người, cổ vũ khuyến khích nhân dân sinh đẻ. Xã hội ổn định, không có chiến tranh, kinh tế từng bước phát triển, việc du nhập các loại cây lương thực mới [ngô, khoai lang] đã cung cấp điều kiện thuận lợi cho việc tăng sức sinh sản. Vậy là dân số tăng lên nhanh chóng, trong vòng 100 năm từ năm Càn Long thứ 6 [1741] tới năm Đạo Quang thứ 20 [1840], dân số từ 140 triệu tăng vọt lên tới 410 triệu, tăng gần 3 lần, hiện tượng này trước đó chưa từng xảy ra. Nhà Thanh là xã hội phong kiến nông nghiệp lấy nông nghiệp làm nền tảng quốc gia, việc sản xuất của cải vật chất cơ bản dựa vào nông nghiệp. Nhưng diện tích đất đai canh tác thì không thể tăng thêm, nên bình quân đất canh tác tính trên đầu người ngày càng giảm. Tới giữa thời Càn Long, bình quân đất canh tác còn được 4,25 mẫu/người, vẫn đủ để người nông dân nuôi sống gia đình. Đến giữa những năm Gia Khánh - Đạo Quang, bình quân đất canh tác đã giảm xuống còn 2,19 mẫu, người nông dân đã vô cùng khốn quẫn, khó duy trì nổi sinh kế của gia đình, giá lương thực cao vọt, giá mỗi thạch gạo chưa tới 1.000 quan tiền thời Khang Hy nay lên tới 3.000 quan tiền. Đến lúc Hàm Phong lên ngôi [năm 1851], bình quân đất canh tác tính trên đầu người chỉ còn 1,78 mẫu, nông dân không có đất canh tác phải lưu lạc đầy rẫy, gia nhập giang hồ cướp của.
  • Nhà Thanh từ giữa thời Càn Long chứng kiến sự tha hóa, hủ bại của đội ngũ quan lại: Đại học sĩ Hòa Thân chuyên quyền, công khai ăn hối lộ, bẻ cong luật pháp, mua quan bán tước nhưng lại được Càn Long dung túng. Trào lưu thanh chính nghiêm minh nơi quan trường chính trị thời Khang Hy – Ung Chính đã thay đổi, sa ngã xuống vũng bùn hủ bại tham lam. Quan lại "lấy việc ăn uống mỹ sắc làm tri kỷ, liêm sỉ cốt ở danh tiếng, cướp lợi lộc là hiền tài, nghiên cứu nghĩa lý là mê hoặc". Hoàng đế Gia Khánh sửa sai bằng cách nghiêm trị Hòa Thân, vua Đạo Quang thì đề cao tiết kiệm, nhưng tệ nạn tham nhũng đã tích tụ bao năm qua đã không cách nào trừ bỏ được. Quan lại địa phương tự đặt ra luật lệ, cướp đoạt tại chỗ, việc lại trị ngày càng sa sút. Chương Học Thành chỉ ra, thời Gia Khánh – Đạo Quang, khoản tiền mà quan lại địa phương ăn hối lộ, gấp mười lần, thậm chí gấp trăm lần trước kia, "nhà cửa, đồ dùng xa hoa hơn chư hầu thời xưa rất nhiều, kẻ trên người dưới tranh nhau lợi, kẻ giàu sang làm điều ác mà chẳng bị truy cứu, người nghèo khó có oan mà không nói được".
  • Thời Đạo Quang còn phải đối mặt với sự xâm lấn của các cường quốc thực dân phương Tây. Trước tiên là việc nhập lậu thuốc phiện lan tràn cả nước. Tiền bạc chảy ra ngoài, nguồn bạc thiếu thốn, nạn thiếu tài chính lộ rõ. Theo thống kê, trong khoảng thời gian trước chiến tranh nha phiến 10 năm, số nha phiến nhập lậu lên tới 23,8 triệu thùng, trung bình mỗi năm 2,4 triệu thùng, trung bình mỗi năm Trung Quốc tiêu tốn 16,3 triệu lạng bạc cho thuốc phiện. Sau chiến tranh nha phiến năm 1841, nhà Thanh phải bồi thường chiến phí, lại phải chấp nhận cho phương tây tự do buôn thuốc phiện, tình hình tài chính của Thanh triều càng thêm tồi tệ. Theo tấu trình của Trác Bỉnh Điềm, từ năm 1840 đến năm 1849, các khoản chi ngoại ngạch "đã hơn 70 triệu lạng". Tổng cộng trong giai đoạn 1830 – 1848, trong khoảng thời gian 19 năm, tổng số bạc chảy ra ngoài đã đạt tới hơn 120.200.000 lạng, nhiều hơn 3 lần thu nhập tài chính trong một năm của triều đình [hơn 40 triệu lạng]. Quốc khố cạn kiệt, khi vua Đạo Quang qua đời, ngân khố của bộ Hộ chỉ còn 9.000.000 lạng bạc. Không chỉ vậy, thuốc phiện còn đầu độc nhân dân Trung Quốc, khiến sức khỏe người dân sa sút, đầu óc trở nên mê muội, nhiều gia đình tan cửa nát nhà vì nghiện thuốc phiện, đó là thiệt hại không thể đo đếm bằng tiền.

Đối diện với suy thế, nhiều nhà trí thức có đầu óc nhạy bén như Lâm Tắc Từ, Cung Tự Trân đã sớm nhận ra nguy cơ họa loạn với đất nước. Họ thấy xã hội rối ren, ngày càng thêm loạn, các thế lực phản Thanh đang nhanh chóng tụ tập lực lượng. "Gió tích đủ thì sẽ thành bão", một cuộc chiến loạn long trời lở đất đã sắp nổ ra. Họ chủ trương "biến pháp", sau này có Ngụy Nguyên đề xuất "biến cổ", hướng đến mục tiêu chấn hưng Thanh triều, thực hiện cải cách trong lòng chế độ. Nhưng tất cả đề xuất của họ đều không được triều đình tiếp thu.

Cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc vào giữa thế kỷ 19 là kết quả của hàng loạt mâu thuẫn xã hội đã tích tụ suốt 150 năm, nay tới lúc phải bùng nổ. Đây là ví dụ đầu tiên phản ánh tư tưởng chống Mãn Châu đe dọa sự ổn định của nhà Thanh, một hiện tượng còn tăng thêm trong những năm sau này. Tuy nhiên, số lượng thương vong kinh khủng của cuộc khởi nghĩa này - tới 30 triệu người - và sự tàn phá nghiêm trọng các vùng đất rộng lớn ở phía nam đất nước vẫn còn bị che mở bởi một cuộc xung đột khác. Dù không đẫm máu bằng, nhưng thế giới ảnh hưởng của thế giới bên ngoài qua những tư tưởng và kỹ thuật của nó đã có một ảnh hưởng rất lớn và cuối cùng mang lại tác động có tính cách mạng đối với một triều đình nhà Thanh đang ngày càng suy yếu và dao động.

Một trong những vấn đề lớn ở thế kỷ mười chín của Trung Quốc là cách thức đối phó với các nước khác bên ngoài. Trước thế kỷ mười chín, Đế chế Trung Quốc là cường quốc bá chủ châu Á. Theo học thuyết đế quốc của họ, hoàng đế Trung Quốc có quyền cai trị toàn bộ "thiên hạ". Tùy theo từng giai đoạn và từng triều đại, họ hoặc cai trị trực tiếp các vùng lãnh thổ xung quanh hoặc buộc các nước đó phải nộp cống cho mình.

Các nhà sử học thường đưa ra quan niệm cơ bản của đế chế Trung Quốc, "đế chế không biên giới", khi đề cập tới thực trạng trên. Tuy nhiên, trong thế kỷ mười tám, các đế chế châu Âu dần mở rộng ra khắp thế giới, khi các nước châu Âu phát triển các nền kinh tế hùng mạnh dựa trên thương mại hàng hải. Mặt khác, đế chế Trung Quốc rơi vào tình trạng tù hãm sau nhiều thế kỷ dẫn đầu thế giới.

Tới cuối thế kỷ mười tám, các thuộc địa của châu Âu đã được lập nên ở gần Ấn Độ và trên những hòn đảo hiện là các vùng thuộc Indonesia, trong khi Đế chế Nga đã sáp nhập các vùng phía bắc Trung Quốc. Ở thời các cuộc chiến tranh Napoleon, Anh Quốc từng muốn thành lập liên minh với Trung Quốc, gửi các hạm đội tàu tới Hồng Kông mang theo quà tặng gửi tới vị Hoàng đế, gồm nhiều vật phẩm được chế tạo bởi những kỹ thuật và phong cách nghệ thuật mới nhất của châu Âu thời kỳ đó. Khi các phái đoàn Anh nhận được một lá thư từ Bắc Kinh giải thích rằng Trung Quốc không cảm thấy ấn tượng trước những thành tựu của châu Âu và cho rằng triều đình Trung Quốc sẵn lòng nhận sự kính trọng của vua George III nước Anh, chính phủ Anh cảm thấy bị xúc phạm và từ bỏ mọi kế hoạch nhằm thiết lập các quan hệ với nhà Thanh.

Cờ nhà Thanh, 1889-1912
Carte de l'Empire chinois et du Japon, 1833, Conrad Malte-Brun, 1837.

Khi các cuộc chiến tranh Napoleon chấm dứt năm 1815, thương mại thế giới tăng trưởng nhanh chóng, và bởi vì dân số đông đảo của Trung Quốc là một thị trường vô hạn cho hàng hóa châu Âu, thương mại giữa Trung Quốc và các thương gia châu Âu phát triển trong những năm đầu của thế kỷ mười chín. Khi thương mại tăng trưởng, sự thù nghịch cũng gia tăng giữa các chính phủ châu Âu và nhà Thanh.

Năm 1793, nhà Thanh chính thức cho rằng Trung Quốc không cần tới các hàng hóa châu Âu. Vì thế, các lái buôn Trung Quốc chỉ chấp nhận dùng bạc làm vật trao đổi cho hàng hóa của họ. Nhu cầu to lớn của châu Âu đối với các hàng hóa Trung Quốc như tơ, trà, và đồ sứ chỉ có thế được đáp ứng khi các công ty châu Âu rót hết số bạc họ có vào trong Trung Quốc. Tới cuối những năm 1830, các chính phủ Anh và Pháp rất lo ngại về các kho dự trữ kim loại quý của họ và tìm cách đưa ra một phương thức trao đổi mới với Trung Quốc - và cách tốt nhất là đầu độc Trung Quốc bằng thuốc phiện. Khi nhà Thanh tìm cách cấm buôn bán thuốc phiện năm 1838, Anh Quốc đã tuyên chiến với Trung Quốc.

Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất cho thấy sự lạc hậu của quân đội Trung Quốc. Dù có quân số áp đảo so với người Anh, kỹ thuật và chiến thuật của họ không thể so sánh với các cường quốc kỹ thuật thời ấy. Hải quân nhà Thanh, gồm toàn các tàu gỗ không phải là đối thủ của các tàu chiến bọc thép chạy hơi nước của Hải quân Hoàng gia Anh. Binh sĩ Anh sử dụng súng có rãnh xoắn và pháo binh vượt trội dễ dàng tiêu diệt các lực lượng nhà Thanh trên chiến trường.

Việc nhà Thanh đầu hàng năm 1842 đánh dấu một tai họa mang tính quyết định và nhục nhã của Trung Quốc. Hiệp ước Nam Kinh, buộc họ phải trả khoản bồi thường 21 triệu lạng bạc và nhượng đảo Hồng Kông cho Anh Quốc. Nó cũng cho thấy tình trạng bất ổn định của chính phủ nhà Thanh và khiến cho nhiều cuộc khởi nghĩa chống chế độ diễn ra.

Các cường quốc phương tây, chưa hài lòng với Hiệp ước Nam Kinh, chỉ miễn cưỡng hỗ trợ nhà Thanh trong việc tiêu diệt các cuộc nổi dậy Thái bình thiên quốc và cuộc khởi nghĩa Niệm Quân. Thu nhập của Trung Quốc giảm sút rõ rệt trong thời gian chiến tranh khi nhiều vùng đất canh tác rộng lớn bị hủy hoại, hàng triệu người thiệt mạng và số lượng binh lính đông đảo cũng như trang bị vũ khí cho họ để chiến đấu.

Năm 1854, Anh Quốc tìm cách đàm phán lại Hiệp ước Nam Kinh, thêm vào các điều khoản cho phép các thương gia người Anh đi lại trên sông ngòi Trung Quốc và lập một đại sứ quán thường trực của họ tại Bắc Kinh. Điều khoản cuối cùng này xúc phạm tới chính quyền nhà Thanh và họ đã từ chối ký kết, gây ra một cuộc chiến tranh khác giữa hai bên. Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ hai chấm dứt với một thất bại nặng nề khác của Trung Quốc, khiến cho Nhà Thanh phải ký Hiệp ước Thiên Tân với Đế quốc Anh

Nhà Thanh suy yếu và sự cai trị của Từ Hy Thái Hậu

Trong bức tranh này, Trung Quốc bị ví như miếng bánh đang bị Anh, Đức, Nga, Pháp, và Nhật chia nhau
Bài chi tiết: Từ Hi Thái Hậu

Cuối thể kỷ 19, một nhà lãnh tụ mới xuất hiện là Từ Hy Thái Hậu. Xuất thân chỉ là một phi tần của Hàm Phong [1850-1861], nhưng nhờ sinh ra Thái tử Tái Thuần nên sau khi Hàm Phong chết và vị hoàng tử nhỏ tuổi lên ngôi lấy hiệu là Đồng Trị, Từ Hy đã ngấm ngầm tiến hành cuộc đảo chính để tước quyền nhiếp chính của đại thần Túc Thuận theo di chiếu của tiên hoàng. Bà nắm quyền nhiếp chính và trở thành người đứng đầu không chính thức của Trung Hoa suốt 47 năm. Bà còn được biết tới bởi sự nhúng tay vào chính sự kiểu "Thùy liêm thính chính" [垂簾聽政-tức can thiệp chính trị từ sau hậu đài].

Tới những năm 1860, triều đình nhà Thanh đã tiêu diệt được các cuộc nổi dậy nhờ sự hỗ trợ của lực lượng dân quân do tầng lớp quý tộc tổ chức. Sau đó, chính phủ Thanh tiếp tục giải quyết vấn đề hiện đại hoá, từng được đưa ra trước đó với Phong trào tự cường. Nhiều đội quân hiện đại được thành lập gồm cả Hạm đội Bắc Hải; tuy nhiên Hạm đội Bắc Hải đã bị tiêu diệt trong Chiến tranh Trung Nhật [1894-1895], khiến cho ngày càng xuất hiện nhiều kêu gọi cải cách sâu rộng hơn nữa. Đầu thế kỷ 20, nhà Thanh rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu tiếp tục theo đuổi cải cách, họ sẽ khiến giới quý tộc bảo thủ mất lòng, nếu ngăn cản việc đó họ lại khiến những người theo đường lối cách mạng tức giận. Nhà Thanh tìm cách đi theo con đường trung dung, nhưng việc này lại khiến tất cả các bên cùng bất mãn.

Mười năm trong giai đoạn cai trị của Hoàng đế Quang Tự [1875 - 1908] là những năm nhà Thanh cố gắng tiến hành biến pháp và cải cách nhằm phát triển đất nước. Năm 1898 Quang Tự nỗ lực tiến hành Cuộc cải cách 100 ngày [百日維新, Bách nhật duy tân], còn được biết dưới cái tên "Mậu Tuất biến pháp" [戊戌變法], đưa ra các luật mới thay thế cho các quy định cũ đã bị bãi bỏ. Những nhà cải cách, với đầu óc tiến bộ hơn như Khang Hữu Vy được tin tường và những người có đầu óc thủ cựu như Lý Hồng Chương bị gạt bỏ khỏi các vị trí quan trọng. Nhưng các ý tưởng mới đã bị Từ Hy dập tắt, Quang Tự bị nhốt trong cung. Từ Hy chỉ tập trung vào việc củng cố quyền lực của riêng mình. Tại buổi lễ sinh nhật lần thứ 60, bà đã chi 30 triệu lạng bạc để trang trí và tổ chức, số tiền đã định dùng để cải tiến vũ khí cho Hạm đội Bắc Hải.

Khủng hoảng tài chính

Sau khi điều ước Nam Kinh năm 1842, nhà Thanh ngày càng chịu nhiều khủng hoảng. Thuốc phiện nhập vào ồ ạt mà không được ngăn cấm, thứ nhì là lụa sa, vải nhập khẩu khiến vải nội địa không thể cạnh tranh nổi. Từ năm 1890, số lượng sa, vải nhập khẩu mỗi năm lên đến 1 vạn vạn lượng, so với 60 năm về trước gia tăng 80%. Tiền dùng để mua hàng đều lấy từ xuất khẩu lương thực, nhưng lương thực thường không đủ nên nạn đói xảy ra, vùng Hoa Bắc nghèo khổ lại càng nặng nề. Trà, tơ vốn là nguồn xuất khẩu lớn; từ năm 1880 bị Ấn Độ và Nhật sản xuất nhiều, trà bị cạnh tranh nên trước kia chiếm đến 54% lượng xuất khẩu lúc này bị giáng xuống chỉ còn 18%; riêng tơ cũng bị giảm nhiều.

Nạn đói kém do hạn hán, lụt lội xảy ra rất nhiều tại phương bắc. Năm 1877-1878 thiên tai xảy ra tại các tỉnh Sơn Tây, Hà Nam, số người chết vô số kể. Từ năm 1855, sông Hoàng Hà tại phía đông tỉnh Hà Nam bị vỡ; dòng sông trước kia chảy qua phía bắc tỉnh Giang Tô, đổi sang tỉnh Sơn Đông; sông mới hẹp nước chảy khó khăn, nên đê thường bị vỡ. Tháng 9/1887, vỡ đê tại Trịnh Châu [Hà Nam], nước chảy vào các sông Giả Lỗ, Hoài khiến vùng phía đông Hà Nam, phía bắc An Huy bị thiệt hại nặng. Tháng 1/1889, bắt đầu chặn dòng, hậu quả hơn 1 triệu người chết, tiêu tốn ngân khoản 10 triệu lượng. Cùng năm đó cho đến năm sau, tại tỉnh Sơn Đông lại có thêm hai lần vỡ đê. Từ năm 1892-1898, đê vỡ thường xuyên, nhà cửa trôi dạt, người và súc vật chết vô số; khu vực bị thiên tai riêng tỉnh Sơn Đông có đến 60 châu, huyện; tỉnh Trực Lệ đến 26 châu, huyện. Vào các năm 1888, 1890, 1892, 1893, 1896, sông Vĩnh Định liên tục bị vỡ đê, chỗ bị vỡ từ 10 trượng đến hơn 100 trượng; khu vực bị thiên tai tại tỉnh Trực Lệ lên đến 26 châu, huyện. Năm 1899, tại các tỉnh Trực Lệ, Sơn Đông, Sơn Tây, cùng phía bắc Giang Tô bị hạn hán lâu, thực phẩm thiếu thốn, khiến người nghèo phải đem con đi bán.

Chính phủ nhà Thanh vơ vét cũng là nguyên nhân khiến nhân dân chịu thống khổ. Triều đình phải vơ vét do chi tiêu gia tăng, nguồn tài chính kiệt quệ. Tài chính kiệt quệ do bởi nhiều năm chiến loạn, cung đình tiêu xài nhiều, chẩn tế cho các thiên tai, nhu cầu bởi chính sách đổi mới, và quan trọng nhất là tiền bồi thường cho nước ngoài. Từ năm 1895 trở về trước, mỗi năm phải trả nợ và tiền lời khoảng 3-4 trăm vạn lượng, còn có thể gắng sức gánh vác được. Sau chiến tranh Giáp Ngọ [1894] tiền vay về chi phí chiến tranh khoảng 1.200 vạn lượng, tiền bồi thường cho Nhật khoảng 2.600 vạn lượng, tất cả đều phải vay, mỗi năm phải trả 2.300 vạn lượng. Do vậy phải khấu trừ tiền dưỡng liêm, tăng thuế ly kim, thuế ruộng; tăng các sắc thuế về gạo, trà, muối, đường, thuốc phiện, thuốc lá, rượu và quyên thu các thương gia, nhưng cũng không đủ. Năm 1898, phát hành Chiêu tín cổ phiếu, 10.000 vạn lượng, bằng mọi cách áp lực dân phải mua, nhưng chỉ thu được không quá 1000 vạn lượng. Căn cứ báo cáo của bộ Hộ mỗi năm tiền trả nợ ngoại quốc, tiền quân vụ, dương vụ [cải cách thuyền binh], tiền tiêu của trung ương và địa phương, tổng cộng gần 100 triệu lượng, nhưng thu nhập quốc khố chỉ có 80 triệu lượng, số tiền thiếu hụt khoảng 20 triệu lượng.

Lãnh thổ bị xâu xé

Viễn Đông là khu vực trọng điểm để các nước tư bản chủ nghĩa giành giật. Trong quá trình các nước lớn ở phương Tây liên tục mở rộng xâm lược ra nước ngoài, vùng biên giới Trung Quốc ngày càng bị uy hiếp nghiêm trọng. Nhật, Mỹ đưa quân xâm lược Đài Loan; Nga, Anh nhòm ngó Tân Cương; nước Anh rình mò Vân Nam, Tây Tạng, Pháp đe dọa Quảng Tây - Quảng Đông, tất cả đã tạo nên những nguy cơ mới ở vùng biên giới Trung Quốc, nguy cơ ngoại xâm đến từ tứ phía.[34]

Ở vùng biên giới Tây Bắc, Điều ước Bắc Kinh năm 1860 đã khiến nhà Thanh mất hàng trăm nghìn km2 lãnh thổ phía bắc và tây bắc. Tháng 10 năm 1864, Sa hoàng Nga lại cưỡng bức chính phủ Thanh ký "Ghi nhớ vể việc thăm dò vùng biên giới Tây Bắc" giữa hai nước Trung – Nga, tổng cộng đã chiếm 910.000 km2 lãnh thổ Ngoại Mãn Châu ở phía tây bắc của Trung Quốc.

Năm 1864, người Hồi ở Tân Cương do ảnh hưởng cuộc đấu tranh chống lại nhà Thanh của người Hồi vùng Thiểm Cam đã phát động cuộc đấu tranh chống lại nhà Thanh trên quy mô lớn. Năm 1865, nước Khiết Hãn Đan đã cử A Cổ Bách mang quân tiến vào Tân Cương, chiếm được Ca Thận Cát Nhĩ. Sau hai năm, A Cổ Bách tuyên bố thành lập "nước Triết Đức Nhĩ" [gồm bảy thành quốc], tự coi là Hãn. Năm 1870, A Cổ Bách đã khống chế toàn bộ vùng nam Tân Cương và một bộ phận của bắc Tân Cương. Nước Anh muốn dùng Ấn Độ làm bàn đạp xâm chiếm Tây Tạng, nhòm ngó Tân Cương. Năm 1874, nước Anh cùng A Cổ Bách chính thức ký điều ước thừa nhận chính quyền A Cổ Bách, cung cấp vũ khí đạn dược với điều kiện được những đặc quyền buôn bán, đóng quân, lập lãnh sự quán trong khu vực A Cổ Bách thống trị.

Những năm 1870, nước Pháp đã dùng vũ lực chiếm Việt Nam, láng giềng của Trung Quốc. Tháng 12 năm 1883, quân Pháp bất ngờ tấn công vào Trung Quốc ở biên giới Trung – Việt. May nhờ có tướng Phùng Tử Tài anh dũng kháng cự, trải qua cuộc chiến đấu ác liệt, giành đại thắng ở trấn Nam Quan, mới có thể bảo vệ được vùng Lưỡng Quảng khỏi họa ngoại xâm bởi thực dân Pháp.

Năm 1867, chính phủ Mỹ mượn cớ bảy thuỷ thủ trên tàu La Phật bị nạn ở Đài Loan, ngang nhiên đưa hai chiến hạm cùng 181 thuỷ quân lục chiến đổ bộ lên phía nam đảo Đài Loan, tấn công nhân dân tộc Cao Sơn ở đây.

Từ những năm 1870 trở đi, Nhật Bản đã trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất xâm lược đảo Đài Loan. Năm 1875, Nhật Bản huy động hơn 3.000 hải lục quân do Tây Hương Tùng Đạo chỉ huy ngang nhiên tấn công Đài Loan. Tháng 5, quân Nhật đổ bộ lên đất liền ở phía nam đảo. Người dân Đài Loan kháng cự quyết liệt. Ngày 31 tháng 10, hai bên Trung – Nhật ký "Chuyên ước về Đài Loan" [còn gọi là "Chuyên ước Bắc Kinh"] có ba khoản, quy định Trung Quốc "thưởng" cho Nhật Bản 500.000 lượng bạc, coi đó là điều kiện để quân Nhật rút khỏi Đài Loan. Chuyên ước còn gọi nhân dân tộc Cao Sơn ở Đài Loan đã từng "gây ra thiệt hại cho dân của Nhật Bản", Nhật Bản xâm lược Đài Loan là "nghĩa cử bảo vệ cho dân". Sau đó, Nhật Bản đã dựa vào điều này yêu cầu Trung Quốc thừa nhận Lưu Cầu là nước phụ thuộc Nhật Bản, đến năm 1879 chính thức thôn tính Lưu Cầu, lật đổ Quốc vương, đổi Lưu Cầu thành huyện Xung Thằng [nay là Okinawa].

Do bị các nước xâm chiếm lãnh thổ nên diện tích của nhà Thanh từ 13,1 triệu km2 vào năm 1790 đã tụt xuống còn 11,5 triệu km2 vào năm 1870.

Chiến tranh Pháp - Thanh

Bài chi tiết: Chiến tranh Pháp-Thanh

Với việc Hồng Kông rơi vào tay người Anh từ sau Chiến tranh nha phiến, con đường giao thương mà Pháp lựa chọn là thông qua phía bắc Việt Nam đến các tỉnh phía tây nam Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc thời nhà Thanh không chịu từ bỏ quyền kiểm soát và chi phối Việt Nam. Căng thẳng Pháp-Thanh đẩy lên cao trào sau khi quân Thanh đánh úp lực lượng Pháp trong trận Bắc Lệ, cách Lạng Sơn gần 30km vào tháng 6/1884.

Sau hai thất bại trong 2 cuộc Chiến tranh nha phiến, triều đình nhà Thanh dưới thời Từ Hi Thái Hậu bắt đầu quan tâm tới việc hiện đại hóa quân sự. Nhà Thanh khi đó sở hữu hạm đội Nam Dương với quy mô khá hùng hậu nhất. Lực lượng chủ lực của hạm đội được đặt ở Thượng Hải, trong đó tàu tuần dương Kaiji được đánh giá mạnh nhất trong khu vực. Tổng cộng cả hạm đội có 20 tàu chiến, trong đó có 5 tàu vỏ sắt và 2 tàu vỏ thép lượng giãn nước 2.200 tấn. Thiết giáp hạm Jinou trong hạm đội còn được châu Âu gọi là "cơn ác mộng". Đến tháng 7/1884, hạm đội Nam Dương được bổ sung thêm hai tàu tuần dương vỏ thép do Đức đóng mới, khởi hành từ Đức vào tháng 3/1884.

Tháng 8/1884, hạm đội hùng hậu của Pháp bao gồm 7 tàu chiến và 2 tàu phóng lôi nổ súng tấn công các tàu Trung Quốc cách Phúc Châu vài km. Trận đánh diễn ra chỉ vỏn vẹn 30 phút các tàu chiến Pháp đánh chìm 9 tàu chiến của nhà Thanh, bao gồm cả tàu được vũ trang hạng nặng.

Ngày hôm sau, tàu chiến Pháp pháo kích và phá hủy công xưởng quân Thanh. Tới ngày 25 tháng 8, hạm đội Pháp hướng ra biển, trên đường đi họ bắn phá và dễ dàng tiêu diệt tất cả các pháo lũy của nhà Thanh bố trí dọc theo bờ sông. Trong suốt quãng thời gian diễn ra chiến dịch, hải quân Pháp chỉ để một tàu tuần dương ở ngoài khơi Thượng Hải, giám sát hoạt động của hạm đội Nam Dương. Trên thực tế, hạm đội mạnh nhất của nhà Thanh khi đó án binh bất động, thậm chí không chặn đường tàu tuần dương Pháp khi nó rút khỏi khu vực.

Sau trận Phúc Châu, hải quân Pháp tiếp tục tiến lên phía bắc, phong tỏa eo biển Đài Loan. Để phá vòng vây của quân Pháp, nhà Thanh điều hạm đội Nam Dương khởi hành từ Thượng Hải. Nhưng vì mâu thuẫn nội bộ trong chính quyền Thanh Triều mà lực lượng chặn đánh hải quân Pháp chỉ có 5 tàu chiến, bao gồm 3 tàu tuần dương. Tới mãi tận giữa tháng 2 năm 1885, hạm đội quân Thanh mới đến vịnh Thạch Phổ và chạm trán hạm đội Pháp. Hạm đội Pháp với ưu thế vượt trội về hỏa lực khiến các tàu chiến quân Thanh rút lui. Hai tàu nhỏ hơn không chạy kịp bị tàu chiến Pháp đánh chìm. 3 tàu tuần dương còn lại chạy về được đến Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang thì bị hải quân Pháp phong tỏa và không có bất kỳ một đóng góp quân sự gì cho tới khi chiến tranh kết thúc. Trận đánh này cũng kết thúc xung đột Pháp-Thanh trên biển.

Quân Thanh do Phùng Tử Tài chỉ huy phản công chiếm ải Nam Quan

Tuy thất bại trên biển, nhưng trên bộ, quân Thanh giành được một chiến thắng lớn ở Trận Lạng Sơn [1885]. Quân Thanh dưới sự lãnh đạo của vị tướng dũng cảm, giàu kinh nghiệm là Phùng Tử Tài đã đánh thắng quân Pháp. Trong trận Lạng Sơn, Phùng Tử Tài dẫn đầu quân lính giết được nhiều quân địch, trải qua cuộc chiến đấu ác liệt, giành đại thắng ở trấn Nam Quan, thừa thắng đánh Lạng Sơn, tình thế cuộc đấu tranh chống Pháp có nhiều thuận lợi. Dọc đường chạy tháo thân, quân Pháp đã vứt cả súng đại bác, hòm đạn, quẳng cả đồ đạc, hành lý xuống sông, đốt giấy tờ sổ sách, đập vỡ cả máy điện tín. Thanh Sử Cảo quyển 527 chép: "Ngày 9 tháng 1 năm Quang Tự thứ 11 [1885], quân Pháp đánh Trấn Nam quan, bắn vỡ cửa quan rồi đi. Ngày 13 tháng 2 chiếm lại Lạng Sơn, quân Pháp đều tháo chạy. Phùng Tử Tài tiến quân đánh Lạp Mộc, đánh ép vào Lang Giáp, Vương Hiếu Kỳ tiến quân tới Quý Môn quan, lấy lại được hết vùng biên giới năm trước. Dân Việt Nam lập ra năm đại đoàn Trung nghĩa hơn hai vạn người, đều dùng cờ xí của quân Phùng. Tây Cống cũng nghe tiếng liên lạc, từ khi thông hải đến nay, Trung Quốc đánh nhau với nước ngoài chỉ có trận này là thắng lớn, là công của Tử Tài vậy"

Quân Pháp đại bại khiến Chính phủ Jules Ferry ở Paris bị đổ, nhưng cuối cùng triều Thanh bạc nhược đã ký kết hiệp ước nhằm chấm dứt chiến tranh. Kể từ ngày 9 tháng 6 năm 1885 [ngày ký Hiệp ước Thiên Tân mới], nhà Thanh chính thức thừa nhận quyền đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam. Nhà Thanh không những bị tổn hại uy tín, tổn thất hạm đội Phúc Kiến, để cảng Phúc Châu bị phá hủy, kéo theo tổn thất về kinh tế nặng nề lên tới 100 triệu lạng bạc và phải bồi thường Pháp chiến phí 20 triệu lạng bạc. Vậy là nhà Thanh đang trên đà thắng bỗng nhiên phải chịu thua thiệt.

Chiến tranh Nhật - Thanh

Bài chi tiết: Chiến tranh Giáp Ngọ

Cuối thế kỷ 19, Trung Quốc dưới thời nhà Thanh suy yếu từng bước bị phương Tây xâu xé. Đế quốc Nhật Bản cũng bắt đầu nhòm ngó, nước này muốn đánh chiếm Triều Tiên [khi đó là một chư hầu dưới sự bảo trợ của nhà Thanh]. Nhật Bản đã áp đặt Hòa ước Giang Hoa lên Triều Tiên, ép Triều Tiên phải tự mở cửa cho người Nhật và ngoại thương và tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc trong quan hệ đối ngoại.

Mặc dù Quân đội Bắc Dương - Lục quân Bắc Dương và Hạm đội Bắc Dương – được trang bị tốt nhất và tượng trưng cho quân đội Thanh hiện đại, song tham nhũng là một vấn đề nghiêm trọng làm xói mòn sức mạnh quân đội. Các quan lại nhà Thanh biển thủ công quỹ một cách có hệ thống, thậm chí ngay cả trong giai đoạn chiến tranh. Kết quả là, Hạm đội Bắc Dương không có nổi một chủ lực hạm nào sau khi nó được thành lập vào năm 1868. Việc mua sắm vũ khí dừng lại vào năm 1891, khi ngân sách được Từ Hy Thái hậu chuyển sang xây dựng Di Hòa Viên ở Bắc Kinh. Hậu cần gặp khó khăn lớn do việc xây dựng tuyến đường sắt Mãn Châu đã bị đình lại. Sĩ khí của quân đội Thanh nói chung rất thấp vì thiếu lương và uy thế, việc sử dụng thuốc phiện, và lãnh đạo kém góp phần vào những cuộc thất bại nhục nhã của quân Thanh trong cuộc chiến, ví dụ như việc bỏ đồn Uy Hải Vệ được trang bị tốt và hoàn toàn có thể phòng ngự.

Hạm đội Bắc Dương của nhà Thanh được trang bị mạnh với 78 chiến thuyền được nhập khẩu từ phương Tây, tổng lượng giãn nước 83.900 tấn, xét về số lượng thì vượt trội so với hạm đội Nhật. Ấy thế nhưng do chỉ huy và huấn luyện kém, hạm đội này đã bị Nhật Bản tiêu diệt hoàn toàn. Ở trên bộ cũng vậy, quân Nhật đánh thắng quân Thanh như chẻ tre, chẳng mấy chốc đã chiếm toàn bộ Triều Tiên.

Hòa ước Mã Quan ký ngày 17 tháng 4 năm 1895 theo đó nhà Thanh công nhận sự độc lập hoàn toàn của Triều Tiên, nhượng lại bán đảo Liêu Đông [ngày nay là phía Nam tỉnh Liêu Ninh] cho Nhật Bản "vĩnh viễn". Thêm vào đó, Thanh phải trả cho Nhật Bản 200 triệu lượng bạc bồi thường chiến phí. Nhà Thanh cũng ký hiệp ước thương mại cho phép tàu của Nhật tiến vào sông Trường Giang, mở các nhà máy gia công ở các cảng theo điều ước và mở thêm bốn bến cảng nữa cho ngoại thương. Tuy vậy, các nước phương Tây đã can thiệp buộc Nhật phải từ bỏ bán đảo Liêu Đông để đổi lấy 30 triệu lạng bạc [450 triệu yen].

Đây là một đòn chí mạng vào nhà Thanh và truyền thống cổ truyền Trung Quốc. Trước kia nhà Thanh thua Anh, Pháp đều là các nước phương Tây ở xa tới. Còn Nhật Bản vốn là một nước láng giềng, mà Trung Quốc từ lâu luôn xem là một chư hầu nhỏ bé và kém cỏi, thì nay đã đánh bại chính Trung Quốc. Các nước phương Tây thấy sự yếu kém của nhà Thanh nên sau đó cũng tham gia xâu xé Trung Quốc. Trước tiên là Đế quốc Đức mượn cớ hai Giáo sĩ truyền đạo bị giết ở Sơn Đông, xuất binh chiếm lĩnh vịnh Giao Châu. Một tháng sau, nước Nga lại xuất binh chiếm lĩnh Đại Liên và cảng Lữ Thuận, khống chế vùng Đông Bắc Trung Quốc. Nước Pháp thì đem quân tới Vân Nam và Lưỡng Quảng; Nhật Bản lại chiếm cứ Phúc Kiến; nước Anh lại cưỡng bức phải cho thuê cảng, mở rộng phạm vi quản lý Cửu Long. Trong vài năm, đế quốc Đại Thanh liên tiếp bị mất đất.

Cuộc chiến cũng đã hé lộ sự thiếu hiệu quả của triều đình, các chính sách, sự tham nhũng trong hệ thống hành chính và sự mục nát của nhà Thanh [điều đã được nhận rõ từ hàng thập kỷ trước đó]. Tình cảm bài ngoại công khai tăng lên và sau này lên tới đỉnh điểm trong cuộc khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn 5 năm sau đó. Trong suốt thế kỷ 19, nhà Thanh không thể ngăn ngừa được sự xâm phạm lãnh thổ của nước ngoài — điều này cùng với lời kêu gọi cải cách và nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn sẽ là nhân tố chủ chốt dẫn đến cuộc cách mạng năm 1911 và sự sụp đổ của nhà Thanh năm 1912.

Phong trào diệt Tây dương và Nghĩa Hòa Đoàn

Thiên tai và nhân họa là hai yếu tố ảnh hưởng đến sự sống còn của người dân, nhưng nhân họa là tối quan trọng. Nhân họa, thứ nhất do quan bắt đóng thuế nặng; thứ hai do người Tây phương hà hiếp, cạnh tranh hàng hóa, cướp công ăn việc làm, rồi đến tiền bồi thường chiến tranh cho ngoại quốc gây nên thuế khoá nặng. Do mối oán kết tập bởi người Tây dương, việc các nhà truyền giáo xâm nhập Trung Quốc, càng gây giận dữ trực tiếp đến người dân. Người dân coi người Tây phương là mối họa chính, họ nghĩ quét sạch Tây phương thiên hạ sẽ thái bình; giáo sĩ và giáo dân là kẻ thù trực tiếp.

Vào năm 1885, giáo dân tại Trùng Khánh gây hấn với các thí sinh, số thí sinh tử thương 30 người, dân chúng nổi giận đốt giáo đường, Trung Quốc phải bồi thường 20 vạn lượng. Năm 1890, Dư Đống Thần, tại Đại Túc [Trùng Khánh] phía đông Tứ Xuyên, lãnh đạo đánh phá giáo đồ, phần lớn thành phần tham gia thuộc Ca Lão hội, hương đoàn; hạch tội rằng 30 năm ròng Tây dương khinh rẻ Trung Quốc, giáo sĩ truyền giáo không tuân pháp luật.

Từ năm 1898-1899, các nước phương Tây xâu xé Trung Quốc hết sức mãnh liệt, thì sự động loạn trong nước cũng hết sức nghiêm trọng, xảy ra suốt các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây, Hà Nam, An Huy, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông; ở nhưng Tứ Xuyên, Quảng Tây, Trực Lệ và Sơn Đông là nặng nhất. Tại Tứ Xuyên vẫn do Dư Đống Thần lãnh đạo, tái khởi sự vào năm 1898, đồ đảng của Dư Đống Thần ước 1 vạn người, trực tiếp quấy nhiễu hơn 10 châu thuộc phía đông tỉnh Tứ Xuyên; gián tiếp ảnh hưởng hơn 30 châu. Họ truyền hịch văn chỉ trích Tây dương với các tội trạng như:

"Thuyền bè Tây dương thông thương tại biển, Gia Tô truyền đạo, chiếm đoạt sinh kế làm ruộng, nuôi tằm; phế luân thường đạo vua tôi, dùng nha phiến độc hại trung thổ, lấy dâm xảo khuynh loát lòng người. Mê hoặc nhân dân ta, khinh mạn triều đình ta, nắm quan phủ, chiếm nơi đô hội, lừa đảo lấy tiền bạc, coi tính mệnh trẻ em rẻ như quả dưa, nợ đòi nặng như gò núi. Đốt Hoàng cung, diệt thuộc quốc của ta. Đã chiếm Thượng Hải, lại cắt Đài Loan, lập cảng tại Giao Châu [Sơn Đông], muốn cắt đất nước ta ra từng mảnh. Từ xưa đến nay, Di Địch hoành hành, chưa hề xảy ra như ngày hôm nay".

Tứ Xuyên nhiều núi bao quanh, liên lạc với bên ngoài không dễ nên ảnh hưởng của Dư Đống Thần chỉ hạn chế trong một vùng. Riêng Nghĩa Hoà đoàn khởi sự tại đông bắc thì tình thế khác hẳn, cuối cùng tạo thành biến cố to lớn tại Trung Quốc.

Sơn Đông là khu vực Thiên Chúa giáo hoạt động sớm nhất, giáo dân toàn tỉnh khoảng 8 vạn người, phần lớn tại phía tây Sơn Đông, ven hai bên bờ Vận Hà. Vào năm 1888, nước Đức nắm quyền bảo hộ tôn giáo tại Sơn Đông, giáo sĩ càng hoành hành, cưỡng chiếm đất đai, bao che án kiện, bênh vực bọn xấu, tự tiện thu thuế; nhân dân trong cảnh nằm trên dao thớt, các quan phủ cũng bị hiếp chế. Các giáo sĩ của Thiên Chúa giáo đã đem hết khả năng giúp nước Đức chiếm Giao Châu Loan, còn thường xuyên doạ dẫm quan phủ, áp bức nhân dân, làm quần chúng tức giận cao độ, nó trực tiếp dẫn tới sự bùng nổ của cuộc vận động Nghĩa Hoà Đoàn. Năm 1895, quân Nhật đánh Uy Hải Vệ, chiếm cứ trong 3 năm, dày xéo các vùng Đăng Châu, Lai Châu. Năm 1897, Giao Châu Loan cùng các thành trì phụ cận bị người Đức chiếm cứ. Năm 1898, người Nhật đi, người Anh lại đến; 2 cảng nam bắc Sơn Đông đều do ngoại quốc chiếm.

Lúc đầu Nghĩa Hoà quyền lưu hành tại vùng ven bờ Vận Hà, là nơi giáo đồ tụ tập, nên gây ra sự tranh chấp. Lý Bỉnh Hoành nhậm chức Tuần phủ Sơn Đông [1895-1897] coi Nghĩa Hoà quyền là nghĩa dân, nên số người theo càng đông, có các tên riêng như Đại Đao hội, Hồng Đăng Chiếu, tự cho là "luyện Nghĩa Hòa quyền có thể tránh pháo súng… hưng đại Thanh, diệt Dương giáo". Mùa xuân năm 1899, khí thế Nghĩa Hoà đoàn dấy lên, đến nơi thì giết giáo dân, phá giáo đường; treo cờ màu đỏ vàng với hàng chữ "Thần lực Nghĩa Hoà đoàn, quét sạch tà giáo, diệt Tây Dương".

Sau khi bị trấn áp của Viên Thế Khải năm 1899, Nghĩa Hoà đoàn chạy lên phía bắc, dọc đường phát tán yết thị "Đạo Thiên Chúa và nhà thờ Gia Tô huỷ báng thần thánh, trên thì lừa vua tôi Trung Hoa, dưới thì áp bức nhân dân, thần và dân đều giận… Bọn ta luyện tập được Nghĩa Hoà thần quyền, sẽ bảo hộ trung nguyên, xua đuổi giặc Tây dương". Bắc Kinh là nơi Công sứ ngoại quốc trú đóng, vua tôi Trung Quốc trực tiếp chịu sự khinh nhờn của ngoại quốc; Thiên Tân là chốn tập trung của người Tây dương, dân Trung Hoa thường bị đàn áp; cả hai nơi là mục tiêu chính của Nghĩa Hoà đoàn.

Hành động của Nghĩa Hoà đoàn và những người dân ủng hộ tuy mang tính mê tín, nhưng động cơ thì không thể mạt sát. Đó là sự phản kháng tự phát của nhân dân trước mối họa đất nước bị xâm chiếm, bị ngoại bang giày xéo trong khi triều đình thì hủ bại và bạc nhược.

Liên quân 8 nước xâm phạm

Trước tháng 5/1900, Từ Hy Thái hậu chưa có quyết tâm liều thắng bại với Tây phương. Sau khi Nghĩa Hòa đoàn xuất hiện, nhiều tôn thất quý tộc, các quan trụ cột triều đình thấy vui mừng, đều cho rằng Nghĩa Hòa đoàn là nghĩa dân trung quân ái quốc, có pháp thuật đích xác, lòng người tại ngoài kinh thành đều hướng đến họ. Từ Hy bảo "Các quân Mãn, Hán đều thông đồng với chúng nó [Nghĩa Hoà đoàn], do đó không dám nói việc đánh dẹp", lời nói này xét ra đúng sự thực.

Vào ngày 9/6/1900, Từ Hy mệnh Đổng Phúc Tường mang quân vào đóng trong kinh thành; Đổng Phúc Tường nói "Phụng mệnh Thái hậu tiêu diệt quân Tây dương, mệnh Nghĩa Hoà đoàn làm tiên phong, quân ta tiếp ứng". Đại đội nghĩa Hoà đoàn hùng dũng tiến vào kinh thành, nơi nơi đều thiết lập thần đàn, dăng cao biểu ngữ "Phụng chỉ Nghĩa Hoà đoàn", " Nghĩa Hoà Thần quyền" hoặc "Trợ Thanh diệt Dương, thế thiên hành đạo"

Ngày 12/6, bộ hạ của Đổng bắt đầu đốt phá, quấy nhiễu các khu giáo dân, cùng các tiệm bán hàng cho người Tây dương, khiến ánh lửa cháy ngút trời, suốt đêm la giết. Đến ngày 13, số giáo dân bị giết ở Bắc Kinh là hơn 300 người. Tình hình tại Thiên Tân tương đồng, cục điện báo và hải quan đều bị phá huỷ, giáo dân phải chạy đi tỵ nạn.

Năm 1901, sau khi Đại sứ Đức bị ám sát, Liên quân tám nước [八國聯軍] cùng tiến vào Trung Quốc lần thứ hai. Ngày 16/6, Từ Hy cử hành hội nghị triều đình hơn 100 người; hai phái phản đối và ủng hộ Nghĩa Hoà đoàn cùng tranh biện. Một trong những người phản đối là Tổng thự Viên Sưởng cho rằng "Nghĩa Hoà đoàn chính là dân làm loạn, không thể nào dựa được. Từ xưa tới nay chưa bao giờ có chuyện nhờ những bọn như vậy mà thành việc lớn". Từ Hy bác rằng "Pháp thuật không dựa được, nhưng lòng người lại không dựa được ư! Ngày hôm nay Trung Quốc suy nhược đến cùng cực, chỗ dựa chỉ còn nhân tâm mà thôi, nếu để nhân tâm mất đi, lấy gì mà dựng nước?"

Vào 8 giờ sáng ngày 17/6, liên quân đánh chiếm pháo đài tại Đại Cô; 3 giờ chiều cùng ngày, chiếu ban hội nghị khẩn cấp tại Ngự Tiền, Từ Hy tuyên dụ:

"Mới đây Tây dương đòi 4 điều: thứ nhất, chỉ rõ một địa điểm để Hoàng đế cư trú; thứ hai, thay mặt thu tiền lương tại các tỉnh; thứ ba, thay mặt nắm binh quyền trong nước… Hôm nay đánh nhau do tại họ, nước mất tại trước mắt, nếu cứ chắp tay mà nhường, ta không còn mặt mũi thấy liệt Thánh; nếu đợi mất, hãy đánh một trận rồi mất không hơn hay sao?"

Từ Hy nói với các Đại thần rằng "Chuyện ngày hôm nay, các Đại thần đã nghe rồi; ta vì giang sơn xã tắc, bất đắc dĩ tuyên chiến. Sự việc không biết được như thế nào, nếu như sau cuộc chiến, giang sơn xã tắc không giữ được; các vị ngày hôm nay tại đây, biết sự khổ tâm của ta, đừng quy lỗi riêng cho ta bảo Hoàng thái hậu làm mất 300 năm thiên hạ Đại Thanh".

Trong cuộc họp vào ngày 19/6, Từ Hy biểu thị tối hậu quyết tâm, hạn Công sứ các nước phải ra khỏi kinh đô trong 24 giờ, mệnh Dụ Lộc triệu tập Nghĩa Hoà đoàn trợ giúp quan quân chống cự Tây dương. Sáng ngày 20 triệu tập Quân cơ đại thần tuyên bố khai chiến. Ngày 21/6 hạ chiếu tuyên chiến, đả kích kịch liệt về việc 30 năm nay Trung Quốc bị ngoại bang áp bức:

"...Khinh nhục quốc gia ta, xâm lấn đất đai ta, dày xéo dân ta, hạch sách của cải; triều đình càng nhường nhịn, bọn chúng càng hung hoành, ngày càng quá quắt, không gì không làm. Nhỏ thì áp bức nhân dân, lớn thì khinh mạn thần thánh, con dân nước ta cùng chung lửa hận, ai mà chịu cam tâm; đó là do lai tại sao nghĩa dũng đốt giáo đường, giết giáo dân. Triều đình vẫn không gây hấn, che chở như trước… Bọn chúng không biết cảm khích, lại còn buông tuồng đòi hỏi chèn ép… công nhiên đòi ta phải rút khỏi pháo đài Đại Cô. Trong sự giao thiệp với lân quốc hàng ngày, ta chưa từng thất lễ với họ; bọn chúng tự xưng là nước có giáo hoá lại vô lễ hoành hành, chuyên dựa vào binh mạnh, khí giới sắc bén… Trẫm nay khóc cáo tiên miếu, khẳng khái thề với quân dân, so với việc cẩu thả mong sống còn, lưu nhục đến vạn cổ; chi bằng ra tay đánh dẹp, nhất quyết thư hùng. Qua mấy ngày triệu kiến Đại thần, bàn mưu đồng lòng, các tỉnh gần kinh kỳ như Sơn Đông, nghĩa dũng tụ tập không dưới mấy chục vạn, cho đến các nhi đồng cũng có thể cầm qua bảo vệ xã tắc. Chúng dùng mưu xảo trá, ta dựa vào lẽ trời; chúng dựa vào sức lực hung hãn, ta dựa vào nhân tâm. Nhân dân ta lấy nhân nghĩa làm giáp trụ, lấy lễ nghĩa làm khí giới, người người liều chết với giặc; với đất đai hơn 22 tỉnh, dân cư hơn 400 triệu, không khó dẹp sự hung dữ của các ngươi, để biểu dương uy thế quốc gia."

Thư tuyên chiến trình bày sự thực, lời văn bi tráng, có được phần nào sự đồng tình ủng hộ của nhân dân. Tiếc rằng việc tuyên chiến của Từ Hy không xét kỹ đến thời thế, làm liều một mất một còn, tuyên chiến cùng lúc với nhiều nước nên thế thua đã rõ.

Sau khi tuyên chiến, hàng loạt địa phương diễn ra việc người dân truy sát giáo dân, giáo sĩ vì cho đó là tay sai của quân Tây dương. Thống kê cả nước số giáo sĩ bị giết khoảng 250 người, phần lớn người nước Anh, tiếp đến các nước Mỹ, Pháp, Hà Lan, số giáo dân nhà bị phá, người bị giết có đến hàng vạn.

Tại Thiên Tân, ngày 17/6, pháo đài Đại Cô mất, quân Thanh và Nghĩa Hoà đoàn vây đánh tô giới Thiên Tân. Lực lượng liên quân tại Đại Cô, trước hết giải vây tô giới Thiên Tân, chiếm cục cơ khí, rồi tấn công thành Thiên Tân. Vũ Vệ quân chống cự trong 9 ngày, Niếp Sĩ Thành tử trận; Mã Ngọc Côn đánh tô giới cũng thua; Thiên Tân đến ngày 14/7 bị địch vây hãm. Ở Thiên Tân, các chiến sỹ Nghĩa Hoà Đoàn và quân xâm lược chiến đấu quyết liệt, một bộ phận quân Thanh do ảnh hưởng của Nghĩa Hoà Đoàn cũng tham gia chiến đấu bảo vệ Thiên Tân. Cuối cùng, Thiên Tân thất thủ nhưng Nghĩa Hoà Đoàn cũng đã tiêu diệt được hơn 1.000 quân địch, giáng cho chúng một đòn nặng. Liên quân càng hung tàn, tử thi chồng chất, phòng ốc bị phá huỷ 8-9 phần 10. Sau đó các nước phân chia khu vực chiếm lãnh, càn quét không dừng, số đông phụ nữ bị ô nhục. Ngày 30 tháng 7, tạm thi hành "Quản lý trong ngoài quận thành địa phương sự vụ nha môn" thì việc sống chết, cướp đoạt tự ý thi hành.

Sau khi Thiên Tân thất thủ, ngày 4/8, liên quân 8 nước hành quân đánh chiếm Bắc Kinh, cánh bên trái gồm 8.000 quân Nhật, 3.000 quân Anh, 2.000 quân Mỹ; cánh bên phải 4.000 quân Nga, 800 quân Pháp; quân Áo, Ý khoảng mấy chục người, tổng cộng 18.000 người. Quân Đức không giữ được vị trí trọng yếu, tạm không tham gia. Ngày mồng 5, liên quân chiếm Bắc Thương [Thiên Tân], đánh bại quân Tống Khánh, Mã Ngọc Côn. Ngày mồng 6, chiếm Dương Thôn [Thiên Tân], Tổng đốc Dụ Lộc tự tử. Ngày 9-10 chiếm trấn Hà Tây Vụ [Thiên Tân], Vũ vệ quân Bang biện Lý Bỉnh Hoành tự vẫn. Ngày 14/8, liên quân trên đường tiến vào Bắc Kinh, giải vây cho Sứ quán, tính thời gian bị vây tổng cộng 55 ngày.

Vào năm 1860, quân Tây dương vào chiếm Bắc Kinh trong 18 ngày, mối tai hại chưa quá lớn. Lần này quân số đông, thời gian đến 13 tuần, việc cướp đoạt, báo thù, giết chóc có hệ thống. Ngày 23/8 quân Đức bắt đầu đến nơi, sau đó hơn một tháng viên Tư lệnh Đức Von Waldersee [Ngoã Đức Tây] đến, cư trú trong Tử Cấm thành, hành vi rất tàn ác. Quân Đức khoảng 20.000, quân Nhật 22.000; Nga, Anh quân mỗi nước 20.000; quân Pháp 15.000, quân Mỹ 7.000, Ý 2.000, Tỷ Lợi Thì 600, quân Áo 140; tổng cộng hơn 100.000. Nghĩa Hoà đoàn và quân Thanh tan vỡ, những người dân buôn chết không biết bao nhiêu. "Trên đường thi thể khắp nơi, nhiều quân Thanh đốt lửa tự thiêu, hoặc đóng cửa tự tử; đại ước trong cấm thành, một trăm nhà thì còn lại không đến mươi nhà", đó là lời kể của người Trung Hoa. Riêng người Nhật miêu tả như sau "Phố xá huỷ hoại khoảng 2 hoặc 3/10, phụ nữ bị người ta làm nhục, liên quân đốc suất quân sĩ càn quét cướp phá. Vàng, bạc, châu ngọc thì không cần phải nói; ngoài ra sách, tranh vẽ, y phục, xe, ngựa, những vật bán ra tiền đều bị dân, hoặc quân lính lấy. Các nơi trong thành thấy thây đàn ông mặc triều phục, thi thể phụ nữ mặc quần hồng, y phục trong nội cung". Người Tây phương cũng chép tương tự; những bảo vật tại Di Hoà viên bị liên quân cướp đoạt, chuyển vận không ngừng cả tháng đến Thiên Tân. Quân Nhật thì đã lấy mất số tiền 300 vạn lượng lưu tại bộ Hộ.

Chỉ một thời gian ngắn, nhà Thanh đã để mất Bắc Kinh, Từ Hy cùng với Hoàng đế Quang Tự chạy trốn tới Tây An. Bà khóc nói với viên Tri huyện Ngô Vĩnh về hoàn cảnh trải qua, viên này ghi lại một cách sinh động qua quyển sách "Canh Tý tây thú túng đàm" như sau: "Suốt ngày đi đến mấy trăm lý… không được ăn uống, đã lạnh lại đói… tối hôm qua ta và vua ngồi trên chiếc phản, dựa lưng vào nhau, chờ cho đến sáng".

Liên quân bất thường hành quân tại Bắc Kinh và Thiên Tân. Tướng Von Waldersee và 2 vạn quân Đức tích cực ra tay; sau tháng 10 hợp với quân Anh, Pháp, Ý tiến công Bảo Định tại phía tây nam Bắc Kinh, giết viên Án sát Đình Ung; phía nam và trung tỉnh Trực Lệ cũng chịu cảnh dày xéo. Một cánh quân hướng tây bắc, chiếm Trương Gia Khẩu [Hà Bắc]; một cánh quân theo hướng đông nam, tiến tới biên giới tỉnh Sơn Đông; lại còn đạo quân Pháp đánh Sơn Tây, uy hiếp Tây An. Từ tháng 12/1900 cho đến tháng 4/1901, liên quân xuất quân 46 lần, trong đó 35 lần do quân Đức đơn độc hành động. Giáo dân người Trung Quốc kết thành đội, cướp phá bốn phương, xưng là "Phụng mệnh phục cừu", đây là lệnh của các giáo sĩ Công giáo nhằm trợ giúp cho quân ngoại xâm.

Để đòi bồi thường chiến phí, Liên quân đưa ra một danh sách những yêu cầu đối với chính phủ nhà Thanh, gồm cả một danh sách những người phải bị hành quyết khiến cho Lý Hồng Chương, thuyết khách số một của Từ Hi, buộc phải đi đàm phán và Liên quân đã có một số nhượng bộ đối với các yêu cầu của họ.

Hòa ước 7 tháng 9 năm 1901 buộc nhà Thanh phải xử tử các quan lại ủng hộ Nghĩa Hòa đoàn, cung cấp cho binh lính ngoại quốc đóng tại Bắc Kinh, bồi thường chiến phí 67 triệu bảng Anh [tương đương với 450 triệu lạng bạc], tức nhiều hơn tiền thuế của triều đình trong một năm, trả trong 39 năm cho liên minh 8 nước[35]

Sự sụp đổ của triều đại Mãn Thanh

Quân đội nhà Mãn Thanh vào giữa thế kỷ 19 có phẩm chất tướng lãnh ngày càng xuống thấp và nạn lính ma tăng cao. Trong cuộc chiến chống lại Thái Bình Thiên quốc, nhà Thanh phải chấp nhận để nhiều đội quân kiểu mới ra đời để cứu vãn như Tương quân của Tăng Quốc Phiên, Sở quân của Tả Tông Đường, Hoài quân của Lý Hồng Chương và đạo quân đánh thuê nước ngoài Thường Thắng quân... Điều này dẫn tới việc vào cuối thế kỷ 19, Nhà Thanh không còn một quân đội quốc gia mà phải tận dụng dân quân và quân đội địa phương, vốn thiếu trung thành với triều đình trung ương. Các sĩ quan trung thành với cấp trên của họ và hình thành những bè phái dựa trên vị trí địa lý. Các đơn vị quân đội tuyển quân ngay tại tỉnh đó. Chính sách này là nhằm giảm sự hiểu nhầm phương ngữ nhưng lại khuyến khích khuynh hướng cát cứ, địa phương hóa. Nhà Thanh đã đi vào vết xe sụp đổ của nhà Hán và nhà Đường trong quá khứ.

Tới đầu thế kỷ 20, hàng loạt các vụ náo động dân sự xảy ra và ngày càng phát triển. Từ Hi và Hoàng đế Quang Tự cùng mất năm 1908, để lại một khoảng trống quyền lực và một chính quyền trung ương bất ổn. Phổ Nghi, con trai lớn nhất của Thuần Thân Vương, được chỉ định làm người kế vị khi mới hai tuổi, và Thân Vương trở thành người nhiếp chính. Tiếp theo sự kiện này, Tướng Viên Thế Khải bị gạt khỏi chức vụ của mình. Tới giữa năm 1911 Thuần Thân Vương lập ra "Chính phủ gia đình hoàng gia", một hội đồng cai trị của Chính phủ Hoàng gia hầu như gồm toàn bộ các thành viên thuộc dòng họ Ái Tân Giác La. Việc này khiến các quan lại cao cấp như Trương Chi Động tỏ thái độ bất mãn.

Phổ Nghi: Hoàng Đế cuối cùng của Nhà Thanh

Cuộc Khởi nghĩa Vũ Xương diễn ra vào ngày 10 tháng 10 năm 1911 dẫn đến cuộc Cách mạng Tân Hợi, và tiếp sau đó là sự tuyên bố thành lập một chính phủ trung ương riêng biệt, Trung Hoa Dân Quốc, tại Nam Kinh với Tôn Dật Tiên làm lãnh đạo lâm thời. Nhiều tỉnh bắt đầu "ly khai" khỏi quyền kiểm soát của nhà Thanh. Chứng kiến tình trạng này, Chính phủ Thanh dù không muốn cũng buộc phải đưa Viên Thế Khải trở lại nắm quân đội, kiểm soát Bắc Dương quân của ông, với mục tiêu nhằm tiêu diệt những người cách mạng. Sau khi lên giữ chức Tể tướng [內閣總理大臣 Nội các tổng lý đại thần] và lập ra chính phủ của riêng mình, Viên Thế Khải còn tiến xa nữa khi buộc triều đình phải cách chức nhiếp chính của Thuần Thân Vương. Việc cách chức này sau đó được chính thức hoá thông qua các chỉ thị của Hiếu Định Cảnh hoàng hậu.

Thanh Đế Thoái Vị Chiếu Thư [1912] chấm dứt chế độ quân chủ ở Trung Quốc

Khi Thuần Thân Vương đã buộc phải ra đi, Viên Thế Khải và các vị chỉ huy bên trong Bắc dương quân của mình hoàn toàn nắm quyền chính trị của triều đình nhà Thanh. Ông cho rằng không có lý do gì để tiến hành một cuộc chiến tranh gây nhiều tốn phí, đặc biệt khi nói rằng chính phủ nhà Thanh chỉ có một mục tiêu thành lập một nền quân chủ lập hiến.

Tương tự như vậy, Chính phủ của Tôn Dật Tiên muốn thực hiện một cuộc cải cách dân chủ, vừa hướng tới lợi ích của nền kinh tế và dân chúng Trung Quốc. Với sự cho phép của Hiếu Định hoàng hậu, Viên Thế Khải bắt đầu đàm phán với Tôn Dật Tiên, người đã cho rằng mục tiêu của mình đã thành công trong việc lập ra một nhà nước cộng hòa và vì thế ông có thể cho phép Viên Thế Khải nhận chức vụ Tổng thống của nền Cộng hoà. Năm 1912, sau nhiều vòng đàm phán, Hiếu Định đưa ra một chiếu chỉ tuyên bố sự thoái vị của vị ấu vương, Phổ Nghi. Nhà Thanh đến đây kết thúc sau 12 triều vua, truyền được 295 năm [trong đó có 267 năm là triều đại chính thống của toàn Trung Hoa].

Sự sụp đổ của nhà Thanh năm 1912 đánh dấu sự kết thúc của hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc và sự khởi đầu của một giai đoạn bất ổn kéo dài, không chỉ đối với quốc gia mà ở một số mặt còn đối với cuộc sống của người dân. Tình trạng lạc hậu rõ rệt về chính trị và kinh tế cộng với sự chỉ trích ngày càng tăng về văn hoá Trung Quốc dẫn tới sự ngờ vực về tương lai của họ.

Lịch sử hỗn loạn của Trung Quốc từ sau thời nhà Thanh ít nhất cũng có thể được thấu suốt một phần trong nỗ lực nhằm tìm hiểu và khôi phục lại những mặt quan trọng của văn hoá lịch sử Trung Quốc và tích hợp nó với những ý tưởng mang nhiều ảnh hưởng mới đã xuất hiện trong thế kỷ đó. Nhà Thanh là khởi nguồn của nền văn hoá vĩ đại đó, nhưng những sự hổ thẹn họ phải gánh chịu cũng là một bài học cần quan tâm.

Mục lục

Thời kỳ độc lập

Thành lập

Bài chi tiết: Chiến tranh Tây Sơn-Chúa Nguyễn
Xem thêm: Chúa Nguyễn

Năm 1778, Nguyễn Ánh quay lại và tập hợp lực lượng chiếm được Gia Định và đến năm 1780, ông xưng vương. Trong mùa hè năm 1781, quân đội của Nguyễn Ánh lên đến khoảng 3 vạn người với 80 chiến thuyền đi biển, 3 thuyền lớn[12] và 2 tàu Bồ Đào Nha do giám mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh mời được.[13][14] Ông tổ chức tấn công Tây Sơn đánh tới tận đất Phú Yên nhưng sau cùng phải rút chạy vì gặp bộ binh rất mạnh của Tây Sơn.[14] Tức giận vì tốn kém nhưng không thu được kết quả, quan lại Gia Định để cho một người phụ việc của Bá Đa Lộc là cai cơ Manuel [Mạn Hòe][a] lập mưu giết chết các tay lính đánh thuê Bồ Đào Nha và cướp tàu của họ.[14]

Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức mang quân thủy bộ Nam tiến. Tây Sơn đụng trận dữ dội ở sông Ngã Bảy, cửa Cần Giờ với quân Nguyễn do chính Nguyễn Ánh chỉ huy. Dù lực lượng thuyền của Tây Sơn yếu hơn, nhưng nhờ lòng can đảm của mình, họ đã phá tan quân Nguyễn, buộc Manuel tự sát, tuy vậy cũng thiệt hại khá nhiều binh lực.[15] Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp.[16] Vua Thái Đức khi tấn công Nam Bộ tại Cù lao Phố đã gặp phải sự chống đối mạnh của người Hoa ủng hộ Nguyễn Ánh tại đây khiến cho một thân tướng là Đô đốc Phạm Ngạn tử trận, binh lính thương vong nhiều, nên ông rất đau đớn rồi nổi giận ra lệnh tàn sát người Hoa ở Gia Định để trả thù.[17][18] Việc này đã cản chân Tây Sơn trong việc truy bắt Nguyễn Ánh, khiến cho Nguyễn Ánh có cơ hội quay trở về Giồng Lữ, một đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Học đem quân đuổi theo Ánh bị quân Nguyễn bắt giết khiến cho Nguyễn Ánh có được 80 thuyền của Tây Sơn. Nguyễn Ánh thấy vậy định kéo về chiếm lại Gia Định nhưng đụng Nguyễn Huệ dàn binh quay lưng ra sông đánh bại khiến Nguyễn Ánh phải chạy về Hậu Giang, Rạch Giá, Hà Tiên rồi theo thuyền nhỏ trốn ra Phú Quốc.[19]

Sau khi chiến thắng quân Thanh, vua Quang Trung đang chuẩn bị phối hợp với Nguyễn Nhạc đem quân vào Nam đánh Gia Định thì đột ngột qua đời [1792], con là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối ngôi, hiệu là Cảnh Thịnh. Loạn lạc liền nổ ra ở Bắc Hà, sĩ phu trung thành với nhà Lê nổi lên tôn Lê Duy Cận làm minh chủ, Duy Cận liên lạc với Nguyễn Ánh để cùng đánh Tây Sơn,[20] việc này góp phần làm cho nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Nội bộ Tây Sơn xảy ra tranh chấp, quyền hành rơi vào tay ngoại thích Bùi Đắc Tuyên.[21] Từ đó, Nguyễn Ánh ra sức mở các đợt tấn công ra Quy Nhơn theo nguyên tắc đã định trước đó: "Gặp nồm thuận thì tiến, vãn thì về, khi phát thì quân lính đủ mặt, về thì tản ra đồng ruộng".[22] Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn định cho sứ đi ngoại giao với Trung Quốc, lợi dụng mâu thuẫn và thù hằn của quốc gia này với Tây Sơn, và cả sự có mặt của Lê Chiêu Thống bên đó để khiến Trung Quốc giúp mình, nhưng việc không thành do khi sứ của Nguyễn Ánh là Ngô Nhơn Tĩnh và Phạm Thận sang đến nơi thì Lê Chiêu Thống đã mất.[23]

Năm 1793, Nguyễn Ánh cùng các tướng Võ Di Nguy, Nguyễn Văn Trương, Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Phước Hội, Philippe Vannier, Nguyễn Văn Hòa, Chưởng cơ Cố[24] đem quân đánh Nha Trang, Diên Khánh, Phú Yên rồi tranh thủ đánh tới tận thành Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc cầu cứu quân ở Phú Xuân. Vua Cảnh Thịnh sai Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng, đô đốc Hố và Chưởng cơ Thiêm đem 17.000 quân, 80 thớt voi,và 30 chiếc thuyền chia nhiều đường tiến vào cứu, quân Nguyễn Ánh rút lui,[25][26] trên đường về ông sai quân đắp thành Diên Khánh để lợi dụng địa thế nơi này làm bàn đạp chống Tây Sơn. Cùng thời gian, quân Phú Xuân của Tây Sơn nhân dịp đánh chiếm luôn thành Bình Định và kho tàng của Nguyễn Nhạc. Lúc đó Nguyễn Nhạc đang bệnh trên giường, nghe tin gia sản mà ông để lại cho con mình là Quang Bảo bị chiếm mất, uất quá thổ huyết mà qua đời.[27][28] Quang Toản cho an trí Quang Bảo ra huyện Phù Ly và cai quản toàn bộ đất đai của Nguyễn Nhạc.[27]

Từ năm 1794 đến năm 1795, Tây Sơn phản công, họ cho quân nhiều lần vào đánh Phú Yên, vây thành Diên Khánh,[21] quân Nguyễn cũng ra sức chống cự, nhiều lần kìm hãm, thậm chí là đánh lại được quân Tây Sơn.[29] Tuy nhiên nội bộ Tây Sơn lại mâu thuẫn, các tướng tranh quyền. Vũ Văn Dũng giết Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở, Quang Toản nhỏ tuổi không làm gì được. Trần Quang Diệu đang đi đánh Nguyễn Ánh, nghe tin đành rút quân về, suýt giao tranh với Vũ Văn Dũng may nhờ có Quang Toản sai quan ra khuyên giải Trần Quang Diệu mới đồng ý hòa. Nhưng sau đó Quang Toản lại nghe lời gièm pha tước mất binh quyền của Trần Quang Diệu, Tây Sơn từ đó cứ lục đục mãi, các quan nghi kị giết hại lẫn nhau tạo điều kiện thuận lợi cho Nguyễn Ánh.[30][31] Năm 1797, Nguyễn Ánh cho quân ra đánh Phú Yên, riêng ông thì cùng Nguyễn Phúc Cảnh chỉ huy thủy quân ra tận Quy Nhơn giao chiến với tướng Tây Sơn là Lê Trung tại Thị Nại thu được nhiều khí giới,[32] nhưng khi tới Quy Nhơn thấy thế lực Tây Sơn thủ mạnh quá đành vòng lên đánh Quảng Nam nhưng được mấy tháng lại rút về[33] vì thuyền chở quân lương từ Gia Định bị ngược gió không lên kịp.[32]

Nguyễn Ánh chiêu dụ Nguyễn Quang Bảo nhưng việc chưa thành vì Quang Toản ra tay trước, bắt và giết được Quang Bảo.[32] Nhưng Tây Sơn lại rơi vào lục đục, Quang Toản nghi ngờ giết hại nhiều triều thần, võ tướng, khiến cho sức chiến đấu suy giảm, thêm nhiều người sang hàng Nguyễn Ánh.[34][35] Năm 1799, Nguyễn Ánh cho sứ yêu cầu vua Xiêm La cho một đạo quân Chân Lạp và Vạn Tượng đi đến sát biên giới Nghệ An để nghi binh và vua Xiêm đồng ý làm theo.[36] Cũng trong năm 1799, Nguyễn Ánh tự cầm quân đi đánh thành Quy Nhơn,[35] tướng giữ thành của Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu hàng dù trước đó Quang Toản đã sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem quân vào cứu.[37] Sau đó, Nguyễn Ánh đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định,[38] rồi cho quân tới trấn giữ thành. Tây Sơn ngay lập tức tìm cách chiếm lại; tháng 1 năm 1800, hai danh tướng Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng kéo đến vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Ánh cho quân ra cứu nhưng bị bộ binh Tây Sơn chặn lại, ông chia quân đi đánh các nơi và thắng nhiều trận, trong đó có một trận lớn ở Thị Nại.[39] Thấy thế Tây Sơn vây Quy Nhơn còn mạnh, Nguyễn Ánh cho người lẻn mang thư đến bảo tướng quân Nguyễn giữ thành là Võ Tánh mở đường máu mà trốn ra nhưng Võ Tánh quyết tử thủ để tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân,[39] việc này khiến thời gian hai danh tướng Tây Sơn bị cầm chân lên hơn một năm.[40] Năm 1801, Nguyễn Ánh nhận thấy tinh binh Tây Sơn đều tập trung cả ở chiến trường Quy Nhơn nên mang quân chủ lực vượt biển ra đánh Phú Xuân. Tháng 5 năm 1801, Nguyễn Ánh kéo quân giao chiến dữ dội với Tây Sơn ở cửa Tư Dung;[39] rồi đụng Quang Toản ở cửa Eo,[39] Quang Toản thua trận bỏ chạy ra Bắc[41] và đến ngày 3 tháng 5, Nguyễn Ánh giành được Phú Xuân.[39]

Cùng thời gian nghe tin Phú Xuân bị tấn công, Trần Quang Diệu đang vây Quy Nhơn sai binh về cứu nhưng bị quân Nguyễn chặn đánh nên quân không về được, ông chỉ còn cách cố gắng đốc binh chiếm thành.[41] Đầu năm 1802, Tây Sơn mới chiếm lại thành Quy Nhơn, Võ Tánh tự vẫn để xin tha mạng cho binh sĩ[42]. Trần Quang Diệu tha cho binh lính Nguyễn, an táng Võ Tánh và thuộc tướng[42] rồi bỏ thành Quy Nhơn; cùng Vũ Văn Dũng mang quân cứu viện ra Nghệ An, bị quân Nguyễn chặn đường, phải vòng qua đường Vạn Tượng.[43] Lúc tới Nghệ An thì thấy thành đã mất, quân sĩ bỏ chạy gần hết, vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân bị bắt,[44] Vũ Văn Dũng không rõ số phận.[b] Cũng trong thời gian này, sau khi chiến thắng quân Tây Sơn, hoàn toàn chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế ngày 1 tháng 6 [âm lịch] năm Nhâm Tuất [1802].[38][45] Để tượng trưng sự thống nhất Nam–Bắc lần đầu tiên sau nhiều năm, Nguyễn Ánh chọn niên hiệu là Gia Long, chữ Gia lấy từ Gia Định và Long lấy từ Thăng Long.[46] Sau đó ông cho người đem toàn bộ ấn sách nhà Thanh trao cho Tây Sơn trả lại và xin phong, rồi sai Lê Văn Duyệt kéo quân tiếp ra Bắc Hà diệt hoàn toàn nhà Tây Sơn.[44]

Tổ chức bộ máy

Quan chế và tổ chức chính quyền trung ương

Bài chi tiết: Quan chế nhà Nguyễn
Phẩm phục của quan văn [trái] và quan võ [phải].

Ngay từ sớm, Nguyễn Ánh đã phong tước, đặt quan lại cho những người theo phò tá mình. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và trở thành hoàng đế Gia Long, ông lại tiếp tục kiện toàn lại hệ thống hành chính và quan chế của chính quyền mới. Nhà Nguyễn về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền trung ương giống như các triều đại nhà Lê trước đó. Đứng đầu nhà nước là hoàng đế, nắm mọi quyền hành trong tay. Giúp hoàng đế giải quyết giấy tờ, văn thư và ghi chép có Văn thư phòng [năm 1829 đổi là Nội các]. Về việc quân quốc trọng sự thì có 4 vị Điện Đại học sĩ gọi là Tứ trụ Đại thần, đến năm 1834 trở thành viện Cơ mật. Ngoài ra còn có Tông nhân phủ phụ trách các công việc của Hoàng gia.[47]

Bên dưới, triều đình lập ra 6 Bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng thư chịu trách nhiệm chỉ đạo các công việc chung của Nhà nước, các bộ gồm: Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hình và Bộ Công.[48] Bên cạnh 6 Bộ còn có Đô sát viện [tức là Ngự sử đài bao gồm 6 khoa] chịu trách nhiệm thanh tra quan lại, Hàn lâm viện phụ trách các sắc dụ, công văn, 5 Tự phụ trách một số sự vụ, phủ Nội vụ coi sóc các kho tàng, Quốc tử giám phụ trách giáo dục, Thái y viện chịu trách nhiệm về việc chữa bệnh và thuốc thang,... cùng với một số Ti và Cục khác.

Theo Trần Trọng Kim, người ta "thường hiểu mấy chữ quân chủ chuyên chế theo nghĩa của các nước Tây Âu ngày nay, chứ không biết mấy chữ ấy theo cái học Nho giáo có nhiều chỗ khác nhau..." [9] Theo tổ chức của nhà Nguyễn, khi có việc gì quan trọng, thì vua giao cho đình thần các quan cùng nhau bàn xét. Quan lại bất kỳ lớn bé đều được đem ý kiến của mình mà trình bày. Việc gì đã quyết định, đem dâng lên để vua chuẩn y, rồi mới thi hành. Hoàng đế tuy có quyền lớn nhưng lại không được làm điều gì trái phép thường. Khi vua có làm điều gì sai thì các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can ngăn vua và thường là vua phải nghe lời can ngăn của những người này.[49] Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Người dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc tại địa phương. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.

Ngạch quan lại chia làm 2 ban văn và võ. Kể từ thời vua Minh Mạng được xác định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh và tòng 2 bậc. Trừ khi chiến tranh loạn lạc còn bình thường quan võ phải dưới quan văn cùng phẩm với mình. Quan Tổng đốc [văn] vừa cai trị tỉnh vừa chỉ huy quân lính của tỉnh nhà.[50] Lương bổng của các quan tương đối ít nhưng quan lại được hưởng nhiều quyền lợi, cha họ được khỏi đi lính, làm sưu và miễn thuế tùy theo quan văn hay võ, hàm cao hay thấp. Ngoài ra con cái các quan còn được hưởng lệ tập ấm. Tuy bộ máy không thật sự cồng kềnh, nhưng tệ tham nhũng vẫn là một trong những vấn đề lớn. Trong bộ luật triều Nguyễn có những hình phạt rất nghiêm khắc đối với tội này.[51]

Phân chia hành chính

Bài chi tiết: Hành chính Việt Nam thời Nguyễn
Bản đồ Xiêm và Cochin China [Việt Nam] [năm 1820-1829] do John Crawfurd vẽ.[52]
An Nam đại quốc họa đồ do giáo sĩ Jean-Louis Taberd vẽ vào triều vua Minh Mạng, in lại trong sách Dictionarium Latino-Annamiticum completum et novo ordine dispositum [Từ điển Việt-La] năm 1838.
Bản đồ đế quốc Đại Nam năm 1844 [trích từ bản đồ vùng Viễn Ấn [Hinter Indien] của Carl Christian Franz [1788–1874].].
Quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ của Đức năm 1876 vẽ vùng Viễn Ấn Hinter-Indien với lời ghi rõ quần đảo thuộc xứ "Annam"
Nước Đại Nam của nhà Nguyễn vào thời điểm kết thúc độc lập năm 1883-1884, lãnh thổ chính bị chia thành 3 xứ Nam Kỳ thuộc địa [Cochinchina], Trung Kỳ [Annam], Bắc Kỳ [Tonkin] thuộc Pháp. Lãnh thổ cực đại của nhà Nguyễn thời độc lập tương đương với 3 xứ này và những vùng hay vương quốc mà nhà Nguyễn từng sáp nhập ở xung quanh: Trấn Ninh, Tây Nguyên [Pays de Mois], và Trấn Tây [Cambodge 1834-1840].

Năm 1802, trong khi đã quyết định Phú Xuân là quốc đô, Nguyễn Ánh vẫn tạm đặt 11 trấn phía Bắc [tương đương khu vực Bắc Bộ ngày nay] thành một Tổng trấn với tên cũ Bắc Thành, do một Tổng trấn đứng đầu.

Đến thời Minh Mạng, để nhất thể hóa các đơn vị hành chính trong cả nước, năm 1831–1832, nhà vua thực hiện một cuộc cải cách hành chính lớn, theo đó bỏ các tổng trấn, đổi các dinh, trấn thành tỉnh. Đây là lần đầu tiên, đơn vị hành chính tỉnh xuất hiện ở Việt Nam. Năm 1831, Minh Mạng đổi các trấn từ Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh, và vùng còn lại ở phía Nam được chia làm 12 tỉnh. Thừa Thiên, nơi tọa lạc của kinh đô Phú Xuân, là phủ trực thuộc Trung ương. Cả nước được chia làm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên.[47]

Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc [mỗi người phụ trách 2–3 tỉnh và chuyên trách 1 tỉnh] và Tuần phủ [dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh]. Giúp việc có Bố chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát sứ ti lo về an ninh, luật pháp. Phụ trách về quân sự có chức lãnh binh. Các quan chức đứng đầu tỉnh đều do chính quyền trung ương trực tiếp bổ nhiệm, và thường là võ quan cao cấp, về sau mới bổ dụng thêm các quan văn.[47] Hệ thống chính quyền được phân biệt rõ rệt giữa Trung ương và địa phương, và trong hệ thống này nhà vua, người đứng đầu đất nước, nắm nhiều quyền lực hơn hẳn so với các thời kỳ trước.[47]

Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do người dân tự lựa chọn cử ra quản trị. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.[53] Nhìn chung, cơ cấu hành chính của các tổng, xã được tổ chức khá chặt chẽ để triều đình dễ dàng quản lý và phản ứng mau lẹ khi có sự biến xảy ra.[47]

Đối với vùng thượng du và với các khu vực sinh sống của các dân tộc thiểu số, Minh Mạng thực hiện nhất thể hóa về mặt hành chính cùng với các vùng miền xuôi. Năm 1829, ông bãi bỏ chế độ thế tập của các Thổ ti [các tù trưởng của dân tộc thiểu số] mà cho quan lại lựa chọn những thổ hào ở địa phương làm Thổ tri các châu huyện. Sau đó, Minh Mạng còn đặt thêm một chức lưu quan do người Kinh nắm giữ để khống chế các vùng này tốt hơn và tiến hành thu thuế như ở miền xuôi. Tuy nhiên, do phản ứng của người dân địa phương, vua Tự Đức sau đó đã bãi bỏ chế độ lưu quan.[47]

Tính đến cuối thế kỷ 19, Việt Nam có 98 phủ bao gồm 342 huyện và châu.[54]

Đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vua Gia Long từ năm 1816 đã chính thức ra lệnh tiếp thu Hoàng Sa, cắm cờ trên đảo và đo thủy trình. Sang triều Minh Mạng, nhà Nguyễn cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương. Từ thập niên 1890, chính quyền Bảo hộ nhân danh triều đình Huế của nhà Nguyễn cũng có dự định dựng ngọn hải đăng để khẳng định chủ quyền của Pháp trên quần đảo Hoàng Sa nhưng đồ án không thực hiện được và mãi đến năm 1938 mới có lực lượng chính thức chiếm đóng quần đảo này.[55] Dù vậy, khi nhà Thanh gửi thuyền xâm phạm quần đảo Hoàng Sa vào những năm đầu thế kỷ 20 thì Bộ Ngoại giao Pháp đã có công văn phản đối. Cuộc tranh chấp này kéo dài cho đến khi người Pháp mất chủ quyền ở Đông Dương và vẫn chưa kết thúc.[56]

Quân đội

Bài chi tiết: Quân đội Nhà Nguyễn
Binh lính người Việt thời Nguyễn

Một trong những thành quả Gia Long đạt được sau nhiều năm nội chiến với Tây Sơn là quân đội mạnh với trang bị và tổ chức kiểu phương Tây. Sau khi làm chủ toàn bộ quốc gia, nhà Nguyễn xây dựng quân đội hoàn thiện hơn, chính quy hơn. Để sung binh ngạch mới, vua Gia Long cho thực hiện phép giản binh, theo hộ tịch tùy nơi mà định, lấy 3, 5 hay 7 suất đinh tuyển 1 người lính.[57] Quân chính quy đóng tại kinh thành và những nơi xung yếu; các địa phương đều có lực lượng vũ trang tại chỗ làm nhiệm vụ trị an. Quân chính quy có 14 vạn người,[58] ngoài ra còn có quân trừ bị. Quân đội còn được tổ chức thành 4 binh chủng: bộ binh, tượng binh, thủy binh và pháo binh, trong đó bộ binh và thủy binh được chú trọng xây dựng để tác chiến độc lập. Trình độ chính quy thống nhất cao. Ngoài vũ khí cổ truyền, quân chính quy được trang bị hỏa khí mua của phương Tây như đại bác, súng trường, thuyền máy, thuốc nổ... Các loại súng thần công, đại bác được đúc với kích thước, trọng lượng thống nhất; thành lũy, đồn to nhỏ cũng được quy định cho từng cấp với số lượng quân nhất định.

Một khẩu đại bác của quân đội nhà Nguyễn ở thành Gia Định xưa.

Sự quan tâm tới khoa học quân sự phương Tây của Gia Long được xem là do tình thế bắt buộc thì với Minh Mạng lại hoàn toàn tự nguyện. Minh Mạng lấy phương Tây làm kiểu mẫu cho việc tổ chức quân đội, hướng đến việc quân cần tinh nhuệ, không cần nhiều, bỏ bớt số lượng người cầm cờ từ 40 người xuống 2 người trong đội ngũ đơn vị 1 vệ [500 người].[59] Phương thức tác chiến được các học giả Mãn Thanh ghi nhận là giống hệt kiểu Pháp, do trong quân đội Minh Mạng có thuê các sĩ quan huấn luyện đến từ phương Tây.[59] Có thể nói, quân đội nhà Nguyễn thời Minh Mạng là lực lượng quân sự tân tiến hiện đại nhất ở khu vực Đông Á, vượt trội các nước láng giềng như Trung Hoa, Thái Lan, Campuchia.[60]

Sang thời Tự Đức, công tác quốc phòng của nhà Nguyễn bị sa sút và có sự tương phản rõ rệt với các triều vua trước. Một trong các lý do khiến tình hình quân đội suy sút là vấn đề tài chính. Vũ khí và trang thiết bị làm mới gần như không có. Trang bị bộ binh rất lạc hậu: 50 người mới có 5 súng, mỗi năm chỉ tập bắn 1 lần 6 viên đạn. Vũ khí được bảo trì cũng kém. Về thủy binh, không tàu hơi nước nào được đóng mới, thủy quân thậm chí không đủ khả năng bảo vệ bờ biển chống hải tặc. Việc giảng dạy binh pháp không chú trọng tới sách vở phương Tây nữa mà quay trở lại với Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Đời sống quân lính không được quan tâm thỏa đáng, lương thực lại bị ăn bớt. Do đó tinh thần chiến đấu của quân sĩ không cao.[59] Quan điểm khoa học quân sự của vua quan nhà Nguyễn không hề vượt quá khuôn khổ của khoa học quân sự phong kiến. Việc không bắt kịp với thành tựu mới của khoa học phương Tây thời Tự Đức khiến quân sự Việt Nam bị lạc hậu nhiều. Do đó, khi người Pháp vào xâm lược Việt Nam [1858], khoảng cách về trang thiết bị giữa quân đội nhà Nguyễn và quân Pháp đã khá xa.[59]

Thuế khóa và lao dịch

Việc sinh hoạt quốc gia đòi hỏi phải có đủ tài chính để duy trì bộ máy triều đình nên sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã tổ chức lại vấn đề đăng tịch, bắt buộc mỗi làng xã phải ghi vào sổ đinh trong làng số đàn ông từ 18-60 tuổi.[61] Các đinh bộ không bao giờ kê khai hết tất cả số đàn ông trong làng vì ngoài dân đinh còn có một số người là dân ngoại tịch, dân lậu, những người bần cùng, vô sản, không thể đánh thuế cũng như những người mới tới làng định cư[62].

Do tổ chức xã hội Việt Nam căn bản dựa trên xã, thôn nên triều đình không đòi hỏi người dân phải trả thuế trực tiếp mà giao cho làng lo việc thuế má và sưu dịch, không cần biết làng sẽ phân chia trách nhiệm giữa các dân làng ra sao. Mỗi làng hưởng quyền tự trị rất lớn, tự họ cai trị theo những tục lệ riêng ghi trong hương ước của làng. Hội đồng Kỳ mục trông coi tất cả công sản [tài sản công] và thuế khóa, đê điều, trị an. Họ cũng phải lo phân phối công điền [ruộng công] giữa các dân đinh mỗi kỳ quân cấp và chỉ định thanh niên đi lính.

Về thuế nhân đinh và thuế ruộng, nhà Nguyễn xoá bỏ tất cả chế độ thuế khóa cũ của Tây Sơn để đặt lại thuế khóa mới nặng hơn thời trước. Vua Gia Long cho sửa lại hộ tịch và điền tịch đã hư hỏng qua thời nội chiến. Hộ tịch phân ra 9 hạng, tùy từng hạng mà nộp thuế toàn bộ hay được miễn giảm một nửa hoặc miễn trừ cả sưu thuế lẫn sai dịch. Thuế đinh nhà Nguyễn đặc biệt đánh nặng lên dân Thanh – Nghệ và Bắc Hà. Dân công nghệ thì nộp thuế sản vật. Thời Minh Mạng thì định lại thuế điền, chia cả nước ra 3 khu vực để đánh thuế. Thuế điền thì dân Thanh Nghệ và Bắc Hà cũng bị nặng hơn ở các miền khác. Theo thống kê của bộ Hộ thì số đinh năm đầu đời Gia Long là 992.559 người, cuối đời Thiệu Trị là 1.024.380 người. Về điền thổ thì đầu đời Tự Đức có 3.398.584 mẫu ruộng và 502.672 mẫu đất.[63]

Mỗi người dân đinh phải chịu 60 ngày lao dịch cho triều đình. Lao dịch thường là để làm các mục đích, xây sửa hệ thống đê điều, kênh rạch, sông ngòi; xây đắp các thành lũy; xây dựng các cung điện cho hoàng gia. Trên thực tế, người dân phải lao dịch khá nặng trong thời gian vương triều Nguyễn xây dựng các cung điện, lăng tẩm, dinh thự,... Ví dụ năm 1807, ngay khi kinh thành Huế vừa được xây xong, vua Gia Long lại huy động hàng nghìn dân đinh và binh lính tiếp tục sửa chữa và tu bổ thêm trong một thời gian dài. Vua Minh Mạng cũng tiếp tục công việc xây dựng kinh đô. Vua Thiệu Trị thì không tập trung xây dựng kinh đô nữa, nhưng, trong một cuộc tuần du lớn ra Bắc Kỳ năm 1842, người dân đã phải xây 44 hành cung cho một phái đoàn đông đến 17.500 người, 44 con voi và 172 con ngựa của nhà vua.[64] Theo nhận xét của giáo sĩ Pháp Guérard: "Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm người ta rên xiết hơn cả thời Tây Sơn: thuế khóa và lao dịch đã tăng lên gấp ba"[64].

Việc xây thành Phú Xuân và đào kênh Vĩnh Tế phải huy động hàng vạn dân phu đi lao dịch. Một người Pháp là Borel viết năm 1818 mô tả việc xây thành Phú Xuân [Huế]: “Nhà vua sử dụng tất cả nhân lực vào việc xây tòa thành và các công trình công cộng khác. Khi tôi đến Huế, đã có đến 8 vạn người được điều động từ các nơi trong cả nước đang khẩn trương xây dựng một tòa thành rộng lớn bằng gạch... Riêng việc xây bờ thành đã tốn kém những khoản tiền khổng lồ và làm thiệt hàng ngàn nhân mạng vì phải khổ dịch liên tục... Nhà vua [Gia Long] đã vung ra những món tiền lớn và hy sinh tính mạng của hàng ngàn dân chúng vì họ phải làm việc không nghỉ tay trên các tường lũy của kinh thành. Đây quả là một công trình kỳ diệu. Mười vạn người được thường xuyên huy động”[64].

Trong dân gian đã xuất hiện các bài vè, bài ca miêu tả sự nặng nề của chế độ lao dịch, ví dụ bài "Tố khuất khúc" của dân Sơn Nam Hạ có câu:

Binh tài hai việc đã xong, Lại còn lực dịch thổ công bao giờ. Một năm ba bận công trình, Hỏi rằng mọt sắt dân tình biết bao...[64]

Luật pháp

Cờ hiệu cá nhân cắm trên ô tô của Hoàng đế Bảo Đại.

Lúc đầu, nhà Nguyễn chưa có một bộ luật rõ ràng, chi tiết. Vua Gia Long chỉ mới lệnh cho các quan tham khảo bộ luật Hồng Đức để rồi từ đó tạm đặt ra 15 điều luật quan trọng nhất.[65] Năm 1811, theo lệnh của Gia Long, tổng trấn Bắc Thành là Nguyễn Văn Thành đã chủ trì biên soạn một bộ luật mới và đến năm 1815 thì nó đã được vua Gia Long ban hành với tên Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là luật Gia Long. Bộ luật Gia Long gồm 398 điều chia làm 7 chương và chép trong một bộ sách gồm 22 cuốn, được in phát ra khắp mọi nơi. Theo lời tựa, bộ luật ấy hình thành do tham khảo luật Hồng Đức và luật nhà Thanh, nhưng kỳ thực là chép lại gần như nguyên vẹn luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều. Chương "Hình luật" chiếm tỉ lệ lớn, đến 166 điều trong khi những chương khác như "Hộ luật" chỉ có 66 điều còn "Công luật" chỉ có 10 điều. Trong bộ luật có một số điều luật khá nghiêm khắc, nhất là về các tội phản nghịch, tội tuyên truyền "yêu ngôn, yêu thư".[65] Tuy nhiên, bộ luật cũng đề cao việc chống tham nhũng và đặt ra nhiều điều luật nghiêm khắc để trừng trị tham quan. Tất nhiên, đến các đời vua sau Gia Long, bộ luật này cũng được chỉnh sửa và cải tiến nhiều, nhất là dưới thời Minh Mạng.[65]

Ngoại giao

Bài chi tiết: Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn

Với các nước lân bang

Cũng như các triều đại trước, nước đầu tiên mà Gia Long tiến hành ngoại giao là Trung Quốc. Tháng 5 năm 1802, sau khi lên ngôi vua, Gia Long cho một đoàn sứ giả đem đồ cống sang Quảng Đông cầu phong triều đình Trung quốc. Dẫn đầu đoàn sứ giả là Trịnh Hoài Đức chánh sứ, Ngô Nhân Tĩnh và Hoàng Ngọc Uẩn là phó sứ. Đoàn sứ giả sang Quảng Tây, quan lại nhà Thanh ở đây nhận chuyển đồ cống lên Bắc Kinh, còn giữ đoàn sứ ở lại Quảng Tây chờ lệnh triều đình có cho sứ giả lên Bắc Kinh triều yết hay không. Sứ đoàn này chưa hồi hương thì cuối năm đó vua Gia Long tiếp tục cử Binh bộ Thượng thư là Lê Quang Định sang cầu phong vua Gia Khánh nhà Thanh đổi quốc hiệu là Nam Việt.[66] Sau những tranh luận về tên gọi, vì nhà Thanh ngại nhầm lẫn với nước Nam Việt xưa nằm ở Lưỡng Quảng và cuối cùng đồng ý đảo ngược lại thành Việt Nam, vua Thanh cho Tổng đốc Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang làm lễ tấn phong cho Gia Long là Việt Nam quốc vương, ấn định thể lệ tiến cống hai năm một lần và cứ bốn năm một lần Việt Nam sẽ phái sứ bộ sang làm lễ triều kính.[67]

Ngoài Trung Quốc, nhà Nguyễn còn qua lại với Xiêm La. Dù có xung đột từ thời kỳ chúa Nguyễn trước đó, nhưng đến khi Gia Long tị nạn ở Xiêm cho đến lúc lên ngôi, việc giao thiệp giữa triều Gia Long và Xiêm La vẫn giữ được sự hòa hảo. Từ năm 1802 trở đi hai bên vẫn có sứ bộ qua lại trao đổi thân thiện và tặng phẩm.

Tại Ai Lao, Việt và Xiêm cùng đặt ảnh hưởng, Quốc vương Ai Lao xin thần phục cả Việt lẫn Xiêm. Dân vùng Cam Lộ, dân ở các vùng cao nguyên hai tỉnh Thanh Nghệ, người Thượng [tức người Rhadé] ở các nước Thủy Xá và Hỏa Xá cũng có cống phẩm đến để tỏ lòng tuân theo chính quyền của triều Nguyễn.[68] Thời vua Minh Mạng, nhiều xứ ở Ai Lao xin thuộc quyền bảo hộ của Việt Nam. Các vùng nay là Sầm Nứa, Trấn Ninh, Cam Môn và Savannakhet giáp với các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, đều xin làm nội thuộc và trở thành các châu, phủ của Việt Nam.[69]

Còn với Chân Lạp, khi vua Gia Long lên ngôi, nước Cao Miên tuy mất Thủy Chân Lạp cho người Việt nhưng vẫn phải chịu thần phục. Thời Minh Mạng, sau khi phá được quân Xiêm, tướng Trương Minh Giảng và tham tán Lê Đại Cương lập đồn đóng quân ở gần Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp.[69]

Với phương Tây

Năm 1803, Anh Quốc sai sứ là Robert sang xin cho mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua Gia Long không nhận đồ, và cũng không cho mở cửa hàng. Sau người Anh còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng vẫn bị từ chối. Khi chiến tranh kết thúc, các ông Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, Gia Long cho mỗi người 50 lính hầu và khi chầu thì không cần lạy Hoàng đế. Năm 1817, chính phủ Pháp phái tới Việt Nam chiếc tàu Cybèle để thăm dò bang giao. Thuyền trưởng là Achille De Kergariou nói rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Gia Long sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa.[70]

Tuy nhiên, sự bành trướng của Châu Âu ở Đông Nam Á khiến Gia Long e ngại, nhất là sau khi nước Anh chiếm được Singapore. Nhà vua thấy rằng cần phải giao hảo với người Tây phương nhưng không thể biệt đãi một quốc gia đặc biệt nào. Năm 1819, John White, một thương gia Hoa Kỳ tới Gia Định và được hứa hẹn sẽ dành cho mọi sự dễ dàng khi buôn bán ở Việt Nam. Vua Minh Mạng không có cảm tình với người Pháp như thái độ chung của người Á Đông lúc đó, coi người Âu Châu là bọn man di, là quân xâm lược.[71] Ngoài ra ông cũng không thích cả Công giáo của châu Âu. Trong thời kỳ Minh Mạng nắm quyền, tín đồ Công giáo bị đàn áp quyết liệt và các giáo sĩ nước ngoài đã so sánh ông với hoàng đế Nero của Đế quốc La Mã - một hoàng đế từng tàn sát hàng loạt giáo dân Công giáo. Với những người Pháp đã từng giúp vua Gia Long, Minh Mạng tỏ thái độ lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại Việt Nam không được trọng dụng nữa. Minh Mạng cho Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước giữa hai chính phủ, người Việt Nam vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ, ông chỉ thỏa thuận mua bán với người Pháp nhưng không chấp nhận xây dựng đặt quan hệ ngoại giao chính thức với nước Pháp, quốc thư của Pháp xin cho ông Chaigneau làm Lãnh sự Pháp ở Việt Nam không được nhà vua đếm xỉa đến. Cũng theo đường lối của hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Tự Đức khước từ mọi việc giao thiệp với các nước ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ thương mại. Năm 1850 có tàu của nước Mỹ vào cửa Hàn có quốc thư xin thông thương nhưng không được tiếp nhận.[72]

Từ năm 1855 các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha nhiều lần có tàu vào cửa Hàn, cửa Thị Nại và Quảng Yên xin thông thương cũng không được. Sau khi Gia Định bị người Pháp chiếm, việc ngoại giao giữa triều đình với các nước phương Tây khó khăn, Tự Đức mới thay đổi chính sách, đặt ra Bình Chuẩn Ty để lo buôn bán và Thương Bạc Viện để giao dịch với người nước ngoài nhưng không có kết quả vì những người được ủy thác vào các việc này không được học gì về ngoại giao.[71][73]

Kinh tế

Bài chi tiết: Kinh tế Việt Nam thời Nguyễn

Thương mại

Bài chi tiết: Thương mại Việt Nam thời Nguyễn
Đồng tiền đúc ở thời Gia Long. Hai mặt trước sau với bốn chữ "Gia Long thông bảo" [嘉隆通寶] và "Thất phân" [七分].

Thương mại Việt Nam sau khi đất nước được thống nhất vẫn không phát triển lắm,[74] tổ chức thương mại của người Việt sơ sài, trong phạm vi gia đình. Nếu có những hội buôn lớn thì cũng chỉ là những phường họp vài thương gia hùn vốn với nhau để kinh doanh rồi chia tiền ngay, không liên kết lại thành những hội buôn làm ăn lâu dài. Nhiều người Việt Nam dùng tiền của để mua ruộng đất chứ không đầu tư kinh doanh, khuếch trương thương mại hay công nghệ.[74] Việc buôn bán ở các chợ quy mô lớn do thương nhân Hoa kiều chi phối, dù những người này chỉ là thiểu số.[74] Các mặt hàng tiêu dùng họ kinh doanh gồm có: mua thổ sản như gạo, lúa, bắp, đường, hạt tiêu... và bán và nhập cảng trà, thuốc Bắc, vải, đồ đồng, giấy. Trong vùng nông thôn, hoạt động thương mại cũng chỉ nhằm trao đổi nông sản và hàng tiểu thủ công ở các chợ. Ở đó, ngoài những cửa hàng tạp hóa quy mô nhỏ hay các cửa tiệm bán thuốc Bắc, còn có những nông dân bán thổ sản và nông sản địa phương và một số thương nhân nhỏ bán vải vóc, hàng xén, cau thuốc, đi rong từ chợ này sang chợ khác. Theo sử gia Trần Trọng Kim, người Việt Nam chỉ quanh quẩn trong nước, buôn bán những hàng hóa lặt vặt, nên bao nhiêu mối lợi lớn về tay người ngoài mất.[75]

Nhìn chung, Gia Long không quan tâm đến thương mại.[76] Ông đã nhiều lần từ chối người Anh khi họ đến xin được mua bán, ngay cả người Pháp khi đến mua bán cũng không được thuận lợi mấy,[77] ông không cho phép người phương Tây lập phố buôn trên lãnh thổ Việt Nam, triều Nguyễn dưới thời ông không khuyến khích cũng như không chào mời các thuyền buôn phương Tây.[78] Triều đình bấy giờ không có ý đóng cửa với phương Tây nhưng theo cách nhìn của hàng ngũ Nho sĩ ở Việt Nam, việc giao thương với phương Tây là không đáng tin cậy; cũng đồng thời với đó là sự lo ngại sự xâm lược bằng quân sự và truyền giáo của họ[79] đã dẫn đến chính sách như trên.

Ngoài một số trung tâm thương mại thành thị được phát triển ở các thành phố và cảng biển chính, phần lớn hoạt động mua bán vẫn diễn ra trên các con sông. Triều đình nắm giữ độc quyền thương mại ở các mặt hàng có giá trị cao như ngà voi, sừng nai, bạch đậu khấu, vàng...[80] Mức thuế mua bán cao, việc cấp giấy phép khó khăn trong việc xuất khẩu gạo, muối, và kim loại cũng gây kìm hãm sự phát triển của thương mại.[81] Ngoại thương bị hạn chế, dân chúng bị cấm giao thương bằng đường biển, triều đình cấm xuất khẩu các loại gỗ quý và đánh thuế cảng, thuế xuất khẩu cao; quan hệ thương mại quan trọng với Trung Quốc nằm trong tay các thương gia người Hoa và quan lại, trong khi các thương gia người Việt thì bị hạn chế ở mảng buôn bán trong nước.[80]

Triều đình đã tổ chức nhiều chuyến đi công cán đến các nước trong khu vực để thực hiện giao dịch buôn bán. Năm 1824, Minh Mạng đã sai người đi công cán ở Hạ Châu [Singapore] và Giang Lưu Ba [Indonesia]. Năm 1825, vua Minh Mạng phái người sang Hạ Châu mua vải và đồ thủy tinh. Sau đó, mỗi năm đều có quan viên được phái đi tới các trung tâm mậu dịch của người Âu ở khắp Đông Nam Á. Từ 1831-1832 trở đi, các chuyến công cán càng lúc càng nhiều, điểm đến cũng khá đa dạng: Hạ Châu, Lữ Tống [Luzon - Philippines], đảo Borneo, Quảng Đông, Giang Lưu Ba,... Trong khoảng 1835-1840 đã có 21 chiếc được cử đi.[74] Hàng bán ra chủ yếu là gạo, đường, lâm thổ sản quý, hàng mua về là len dạ và vũ khí, đạn dược. Các hoạt động này gần như là độc quyền của triều đình dù tư nhân không bị cấm. Dù vậy, nhiều thương nhân cũng lợi dụng các chuyến buôn bán này để buôn lậu gạo và thổ sản sang Hạ Châu hay Quảng Châu.[82]

Hàng năm, thuyền buôn Trung Hoa thường đi lại giữa Việt Nam và Singapore. Thương nhân người Hoa thường lén chở gạo đi và đem thuốc phiện về. Trong những năm 1820-1830, giao dịch với Singapore rất hạn chế. Nguyên nhân do hàng hóa của Việt Nam phù hợp với thị trường Trung Hoa hơn.[74] Khi người Pháp sắp chiếm hết Nam Kỳ, các bản lược kê tài chính cho thấy quan thuế hàng năm tương đương 3.000.000 france vàng trên tổng ngân sách 40.000.000 mà các quan viên đã giữ lại gấp đôi số tiền thuế kia, như vậy số tiền thu được vượt quá số tiền chuyển về triều đình rất nhiều. Từ thời Thiệu Trị, do xung đột với phương Tây từ nguyên nhân tôn giáo, quan hệ buôn bán với các nước này bị tổn hại. Năm 1850, Tự Đức không phái thuyền đi buôn ở Hạ Châu nữa. Triều đình cũng tìm cách cản trở dân thường buôn bán với người Tây nên cuối cùng, thương gia ngoại quốc chủ yếu là Hoa kiều, Xiêm và Mã Lai, trong đó người Hoa chiếm tỷ lệ lớn nhất.[74]

Thủ công nghiệp

Bài chi tiết: Thủ công nghiệp Việt Nam thời Nguyễn
Áo hoàng bào bằng vóc được thêu thùa tinh xảo

Thủ công nghiệp Nhà nước thời Nguyễn chế tạo tất cả những đồ dùng cho hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc tiền,...[83]

Nhà Nguyễn cũng tập trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ công Nhà nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long.[83] Nhà Nguyễn cũng lập các Ti trông coi các ngành thủ công, như ti Vũ khố chế tạo quản lý nhiều ngành thủ công khác nhau, gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng,... Ti Thuyền chịu trách nhiệm về các loại thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trên toàn quốc.[83] Ngoài ra còn có các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác hoả dược.[84]

Phần lớn nhân lực trong các xưởng thủ công Nhà nước là do triều đình trưng dụng thợ khéo trong các ngành như khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa... tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho triều đình. Đối với nghề đóng tàu, năm 1820 sĩ quan người Mỹ, John White đã nhận xét: " Người Việt Nam quả là những người đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác." Ngoài các thuyền gỗ, người thợ thủ công Việt Nam còn đóng cả các loại tàu lớn bọc đồng.[85]

Ngoài ra họ đã sáng chế được nhiều máy móc tiên tiến và có chất lượng vào thời đó, ví dụ các máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng... và cả máy hơi nước.[85] Trong ngành khai mỏ, đến nửa đầu thế kỷ 19, triều đình đã quản lý 139 mỏ, và năm 1833 có 3.122 nhân công trong các mỏ Nhà nước,[85][86] tuy nhiên, phương thức khai mỏ thời bấy giờ vẫn kém phát triển so với thế giới.

Nông nghiệp

Bài chi tiết: Nông nghiệp Việt Nam thời Nguyễn

Triều Nguyễn có những chính sách ưu đãi để phát triển nông nghiệp, như là cấm mua bán ruộng đất công, lập kho Thường bình, Sở Tịch điền, Sở Diễn canh, kho Bình thiếu, Sở Đồn điền, Đàn Xã tắc,...[87] Năm 1828, Minh Mạng giao cho bộ Lễ soạn thảo chu đáo các điển lễ khôi phục lại nghi lễ Tịch điền và làm thành luật lệ lâu dài, cũng như quy định rất nghiêm túc, cụ thể.[87][88]

Về vấn đề ruộng đất, ngay khi mới lên ngôi, Gia Long đã phải ra lệnh cấm bán ruộng đất công và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền công thổ này để bảo đảm đất cày cho mọi người nông dân.[89] Trải qua nội chiến, nhân dân lại gặp mất mùa liên tiếp. Triều đình thường phải giảm thuế, miễn thuế và phát chẩn. Thời Minh Mạng định lại phép quân cấp ruộng khẩu phần, quan lại, binh lính, công tượng [thợ làm quan xưởng] cùng các hạng dân đinh, không kể phẩm trật cao thấp đều được hưởng một phần khẩu phần nhưng quan lại, cường hào cũng giành được những phần tốt hơn. Người già, người tàn tật thì được nửa phần. Cô nhi, quả phụ được 1/3.[90]

Tại miền Nam, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục việc khai hoang và phục hóa, từ thời các chúa Nguyễn để lại như việc khẩn hoang, mở rộng, phát triển nông nghiệp. Ở Nam Kỳ, người dân đã tự do đến khẩn hoang với tư cách cá nhân hoặc tập thể dưới sự giúp đỡ của triều đình.[91] Hai vị quan tổ chức khẩn hoang nổi tiếng nhất là Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phương; trong đó Nguyễn Công Trứ nổi lên vì là tác giả của ba chính sách khẩn hoang lớn: đồn điền, doanh điền và khai khẩn ruộng hoang.[92] Đồn điền là chính sách chủ yếu dựa vào việc mộ dân nghèo, đi cùng với tội phạm, binh lính để thực hiện việc khai khẩn đất hoang. Trong thời gian khẩn hoang số dân này sẽ được quản lý theo cung cách đồn điền; sau từ 6-10 năm để cuộc sống dân cư ổn định sẽ chuyển sang hình thức làng xã. Đồn điền xuất hiện nhiều nhất ở vùng Gia Định.[92] Đợt lập đồn điền lớn nhất do Kinh lược sứ Nam Kì là Nguyễn Tri Phương tổ chức vào năm 1853-1854, lập được 21 cơ, 124 ấp phân phối ở cả lục tỉnh.[93] Doanh điền là hình thức khai hoang có sự kết hợp giữa triều đình và nhân dân, thực hiện di dân để lập ấp mới. Hình thức này bắt đầu được thực hiện từ năm 1828 dưới thời vua Minh Mạng theo đề nghị của Tham tán quân vụ Bắc thành Nguyễn Công Trứ. Theo đó, triều đình sẽ bỏ vốn ban đầu và cử ra một quan chức sẽ dứng ra chiêu mộ và chỉ đạo dân chúng đưa đi khai hoang[94] Chính sách đồn điền và doanh điền được triều đình kèm theo một loạt luật lệ thưởng phạt phân minh để khai thác triệt để đất đã vỡ hoang và ngăn tình trạng bỏ đất nhưng cũng không dứt hẳn được hiện tượng ruộng hoang.[95]

Ngoài ra, triều đình nhà Nguyễn còn khuyến khích nhân dân tự do khai hoang kết hợp phục hóa. Việc đinh điền cũng có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn. Ruộng đất ở Nam Việt thời vua Minh Mạng được đo đạc lại, tính ra được 630.075 mẫu. Tổng số đinh toàn quốc là 970.516 suất và 4.063.892 mẫu ruộng đất.[96] Triều đình nhà Nguyễn dành cho việc khai hoang, phục hóa rất nhiều sự quan tâm, họ đã cho tiến hành nhiều chính sách khai khẩn hoang khác nhau và đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp. Diện tích ruộng đất thực trưng tăng lên nhiều: năm 1847 là 4.273.013 mẫu.[97] Tuy nói trên toàn diện, đất công điền không quá 1/5 diện tích canh tác, nhưng phần đất còn lại được phân phối giữa các nông dân mà đa số chỉ làm chủ tới 5 mẫu là nhiều. Hạng người có 100 mẫu trở lên thì rất ít, mỗi tỉnh có nhiều nhất là 5, 3 người.[98]

Văn hóa và giáo dục

Giáo dục

Bài chi tiết: Giáo dục khoa cử thời Nguyễn
Lễ xướng danh trường thi Hương tại Nam Định năm Mậu Tý [1888]

Vua Gia Long rất đề cao Nho học, cho lập Văn Miếu ở các doanh, các trấn thờ đức Khổng Tử và lập Quốc Tử Giám năm 1803 ở Kinh thành Huế để dạy cho các quan và các sĩ tử, mở khoa thi Hương lấy những người có học, có hạnh ra làm quan. Cũng trong năm này, Gia Long cũng cho ban hành hai đạo dụ về việc mở các trường ở các tỉnh, ấn định nhân viên giáo giới và chương trình học chế đồng thời tái lập lại các khoa thi ở các trấn. Ở mỗi trấn có một quan Đốc Học, một phó Đốc Học hay Trợ Giáo. Cứ tháng 10 hàng năm triều đình mở một kỳ thi. Theo thông lệ cứ ba năm triều đình mở khoa thi Hương ở các địa phương.[99] Những người trúng cao ở khoa thi Hương gọi là cử nhân, trúng thấp gọi là tú tài. Năm sau ở Kinh đô mở khoa thi Hội tại bộ Lễ, những cử nhân năm trước khi ứng thí, nếu trúng cách thì được tiếp tục thi Đình ở trong điện nhà vua để lấy các bậc Tiến sĩ.[99]

Trong dân chúng, việc học tập có tính chất tự do hơn. Bất kỳ người nào có học lực kha khá cũng có thể mở trường tư thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba trường tư thục, hoặc ở nhà thầy, hoặc ở nhà người hào phú nuôi thầy cho con học và cho con các nhà lân cận đến học. Theo ông Trần Trọng Kim thì người Việt Nam vốn chuộng sự học, cho nên người đi học cũng nhiều.[100] Dù vậy, việc học tập càng lúc càng thoái hóa do nội dung học chỉ tập trung vào thơ phú và các tác phẩm cổ, không áp dụng được gì nhiều trong thực tế. Nhiều người học chỉ để đi thi, mong được làm quan. Trần Trọng Kim cho rằng:

Bao nhiêu công phu của người đi học chú trọng vào sự học cho nhớ những sách Tứ Thư, Ngũ Kinh cùng những lời thể chú của tiền nho trong những sách ấy và học thêm mấy bộ sử nước Tàu. Còn sự luyện tập hàng ngày, thì cốt tập cho thạo thuộc các lề lối ở chỗ khoa trường là: kinh nghĩa, tứ lục, thi phú, văn sách. Ấy là dùng hư văn mà xét tài thực dụng, đem sự hoa mỹ làm mực thước đo tài kinh luân. Bởi vậy ai hay kinh nghĩa đã nghĩ mình hơn người, ai tài thi phú đã tưởng mình giỏi nghề trị nước. Việc đời thì tối tăm mờ mịt mà lại tự phụ và kiêu căng, cho thiên hạ như rơm rác, coi mình như thần thánh.

Sự học của mình đã hư hỏng như thế, những hủ tục lại ăn sâu vào trí não, thành ra một thứ cố tật không sao chữa được...Đại khái, cái trình độ của bọn sĩ phu ở nước ta lúc bấy giờ là thế, cho nên vận nước suy đến nơi mà hồn người vẫn mê muội ở chỗ mơ màng mộng mị. Bọn sĩ phu là người có học, làm tai làm mắt cho mọi người mà còn kém cỏi như thế, thì bảo dân gian khôn ngoan làm sao được

— [100]
Ống quyển, ống bút, nghiên mực, hòm sách- những "đồ nghề" của một sĩ tử thời Nguyễn

Thời vua Minh Mạng, ông muốn canh tân việc học hành thi cử nhưng lại không biết tiến hành ra sao bởi triều thần của ông phần nhiều chỉ là những hủ nho lạc hậu, không giúp đỡ được nhà vua một kế hoạch nào cho quốc phú dân cường, ông nói rằng:

Lâu nay cái học khoa cử làm cho người ta sai lầm, Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay những văn cử-nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đă quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại[101]

Văn học

Xem thêm: Văn học Việt Nam thời Pháp thuộc
Cảnh vườn Thư quang trong cuốn Ngự đề Đồ Hội Thi Tập, tập thơ ngự chế Thần kinh nhị thập cảnh của vua Thiệu Trị.

Văn học nhà Nguyễn có thể chia làm các thời kỳ như sau: thời Nguyễn sơ, thời kỳ nhà Nguyễn còn độc lập và thời kỳ nhà Nguyễn thuộc Pháp.[102] Thời Nguyễn sơ là thời kỳ của các nhà thơ thuộc hai nguồn gốc chính là quan của vua Gia Long và các cựu thần nhà Hậu Lê bất phục nhà Nguyễn. Tiêu biểu cho thời kỳ này là các tác giả: Phạm Quy Thích, Nguyễn Du, Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định.[103] Nội dung tiêu biểu cho thời kỳ này là nói về niềm tiếc nhớ Lê triều cũ và một lãnh thổ văn chương Việt Nam mới hình thành ở phương Nam. Thời nhà Nguyễn độc lập là thời của các nhà thơ thuộc đủ mọi xuất thân trong đó có các vua như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, và các thành viên hoàng tộc như Tùng Thiện Vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm. Các nho sĩ thì gồm có Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Hà Tôn Quyền, Trương Quốc Dụng, Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ.[104] Hai kiểu thơ chủ yếu của thời kỳ này là thơ ngự chế của các vị vua và các thi tập của nho sĩ[104]. Thời nhà Nguyễn thuộc Pháp là thời kỳ ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử đương thời tác động rất lớn vào văn chương, các nhà thơ sáng tác nhiều về cảm tưởng của họ đối với quá trình Pháp chiếm Việt Nam.[105] Tác giả tiêu biểu thời kỳ này gồm Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Thông, Nguyễn Khuyến, Dương Lâm, Nguyễn Thượng Hiền.[106][107]

Thời kỳ nhà Nguyễn, văn học phát triển trong cả Hán văn, lẫn một cách mạnh mẽ ở chữ Nôm với nhiều thành tựu lớn, trong đó tác phẩm chữ Nôm tiêu biểu nhất là Truyện Kiều và Hoa Tiên. Hai thể thơ được dùng phổ biết ở thời kỳ này là lục bát và lục bát gián cách, sử dụng một thứ tiếng Việt mới có một trình độ rất cao.[108] Ở miền Nam Việt Nam, thành hình một lãnh thổ văn chương mới với nhiều nét độc đáo riêng so với các vùng cũ[108]. Về nội dung, ngoài các nội dung văn chương mang đậm tư tưởng Nho giáo truyền thống thì số phận con người và phụ nữ cũng được đề cập đến.[108]

Khoa học và kỹ thuật

Sử học

Phu Văn Lâu, nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức

Ngay từ cuối thế kỷ XVIII, Sử học là một trong những ngành khoa học rất phát triển. Sang đầu thế kỷ XIX, dưới thời nhà Nguyễn, ngành này lại càng phát triển hơn, có thể nói đó là ngành phát triển nhất thời vương triều Nguyễn. Đặc biệt khi cơ quan phụ trách sử học là Quốc sử quán ra đời năm 1820 dưới thời vua Minh Mạng với nhiệm vụ thu thập các bộ sử xưa, in lại Quốc sử thời Lê và biên soạn các bộ sử mới. Quốc sử quán phải nói là được tổ chức kỷ cương, hoạt động một cách đầy hiệu quả. Vương triều Nguyễn đã cho lập các kho tàng lưu trữ các sáng tác từ cổ chí kim.[109]

Sử học nhà Nguyễn có các thành tựu sau:

  • Tìm kiếm, lưu trữ và cho in lại các tác phẩm sử học của các triều đại trước.[110]
  • Biên soạn nhiều bộ sử khổng lồ và các công trình sử học có giá trị lớn như: Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam Thực lục - Tiền biên và chính biên[110], Khâm định tiễu bình lưỡng kỳ phỉ khẩu phương lược, Bản triều bạn nghịch liệt truyện... Các nhà sử học cũng cho ra đời nhiều công trình của cá nhân như Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng, Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bản, Quốc sử dĩ biên của Phan Thúc Trực,... và nhất là Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú.[111] Trong đó, Đại Nam thực lục chính biên có tới 587 quyển.
  • Các công trình địa phương chí, và gia phả các dòng họ cũng xuất hiện rất nhiều.
    • Việc biên soạn các bộ địa phương chí gần như thành phong trào: từ các tỉnh lớn cho đến tận các huyện xã cũng có chí. Trong đó có rất nhiều bộ chí được biên soạn khá công phu với nhiều chi tiết quý mà các bộ sử lớn không có. Tiêu biểu cho địa phương chí là Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch
    • Thể loại Gia phả thì có Mạc Thị Gia phả của Vũ Thế Dinh.[110]
  • Ngoài ra còn có các tác phẩm soạn theo kiểu quy cách nhiều vấn đề khác nhau của lịch sử, nổi bật của thể loại này là bộ Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú.[112]

Năm 1942, Giám đốc Nhà lưu trữ Đông Dương Paul Boudet cho biết rằng các tài liệu trước thế kỷ XIX [thời Nguyễn] chỉ còn lưu lại được khoảng 20 bản. Từ triều vua Minh Mạng, công tác lưu trữ mới được quan tâm. Cũng năm 1942, số lượng địa bạ ở Tàng thư lâu giữ được có tới 12.000 quyển.[113]

Địa lý và Lịch sử

Thời Nguyễn cũng là thời có nhiều tác phẩm địa lý học lớn như bộ Hoàng Việt Nhất thống dư địa chí do Thượng thư Lê Quang Định soạn theo lời của vua Gia Long. Sau đó cơ quan Quốc sử quán triều Nguyễn cũng soạn tiếp nhiều công trình khác gồm Đại Nam nhất thống toàn đồ, Đại Nam nhất thống chí. Ngoài ra, còn có nhiều tác phẩm có giá trị cao khác ngoài Quốc sử quán như Bắc Thành địa dư chí và Hoàng Việt dư địa chí của Phan Huy Chú; Phương Đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu;[112] Đại Việt cổ kim duyên cách địa chí khảo và Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức; Nam Hà tiệp lục của Quốc sử quán,...[111] Ngoài ra thời Minh Mạng cũng xuất hiện rất nhiều bản đồ về các địa phương của nước Đại Nam thời kỳ đó.

Nhìn chung, theo nhận xét của Dương Quảng Hàm thì tuy có nhiều giá trị nhưng do vẫn còn thiếu một phương pháp nghiên cứu khoa học tốt nên các tác phẩm về sử học và địa lý thời kỳ này vẫn có nhiều khuyết điểm. Dù vậy, các triều đại trước cũng không khá hơn nhà Nguyễn trong việc này.[114]

Tranh vẽ Ngọ Môn Hoàng Thành Huế

Kỹ thuật công nghệ

Từ các cuộc nội chiến ở Đại Việt trước, kỹ thuật công nghệ của phương Tây đã được các vua chúa đem vào Việt Nam rất nhiều đặc biệt trong lĩnh vực quân sự. Thời nhà Nguyễn vẫn kế thừa những thứ đã du nhập ấy, nhiều công trình được xây dựng theo kiểu kiến trúc Vauban của phương Tây như thành Bát Quái, kinh thành Huế, thành Hà Nội...Thời Gia Long đã từng cho đóng một loại thuyền lớn bọc đồng để tuần tra biển.[115]

Sang đến thời Minh Mạng, nhiều máy móc mang tính mới mẻ đã được chế tạo gồm: máy cưa chạy bằng sức trâu và sức nước, máy xẻ gỗ chạy bằng sức trâu.[116] Cụ thể là, năm 1834, Nguyễn Viết Túy dưới sự đồng ý của vua Minh Mạng đã chế tạo ra chiếc máy nghiền thuốc súng bằng sức nước mang tên Thủy hỏa ký tế. Sau đó những năm 1837-38, theo mẫu của phương Tây, thợ thủ công Nhà nước đã chế tạo được máy cưa văn gỗ, xẻ gỗ bằng sức nước, máy hút nước tưới ruộng,... và còn có cả xe cứu hỏa. Đặc biệt là năm 1839, dựa theo các kiểu phương Tây, các đốc công Hoàng Văn Lịch, Vũ Huy Trịnh cùng các thợ của ông đã đóng thành công chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên, được vua Minh Mạng hết sức khen ngợi. Năm sau, Minh Mạng lại chỉ đạo cho họ đóng một chiếc kiểu mới tân tiến hơn và sửa chữa một chiếc bị hỏng. Điều đáng tiếc là sau đó mọi việc dường như bị đình lại.[85] Thời Tự Đức, nhiều sách kỹ thuật phương Tây được dịch sang tiếng Hán như Bác Vật tân biên, Khai Môi yếu pháp, Hàng hải Kim châm.[116] Nhưng một điều đáng tiếc là những tiến bộ này vẫn chưa kịp tác động vào quá trình phát triển của xã hội Việt Nam. Đến giữa thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn là một quốc gia với nền sản xuất nông nghiệp chậm tiến so với thế giới phương Tây.[116]

Kiến trúc

Sơ đồ Thành Bát Quái Sài Gòn do Trương Vĩnh Ký vẽ, Nguyễn Đình Đầu lược dịch và chú giải.

Nhà Nguyễn là triều đại có nhiều đóng góp trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt là một kho tàng kiến trúc đồ sộ, mà tiêu biểu là quần thể kinh thành Huế và nhiều công trình quân sự khác[117]

Kinh thành Huế nằm ở bờ Bắc sông Hương với tổng diện tích hơn 500 ha và 3 vòng thành bảo vệ. Kinh thành do vua Gia Long bắt đầu cho xây dựng năm 1805 và được Minh Mạng tiếp tục hoàn thành năm 1832 theo kiến trúc của phương Tây kết hợp kiến trúc thành quách phương Đông. Trải qua gần 200 năm khu kinh thành hiện nay còn hầu như nguyên vẹn với gần 140 công trình xây dựng lớn nhỏ. [117] Kiến trúc cung đình Huế đã tiếp thu và kế thừa kiến trúc truyền thống thời Lý, Trần, Lê đồng thời tiếp thu tinh hoa của Mỹ thuật Trung Hoa nhưng đã được Việt Nam hóa. Huế cũng đã được hiện đại hóa bởi những công trình sư người Pháp phục vụ dưới thời vua Gia Long. Khi xây dựng hệ thống thành quách và cung điện, các nhà kiến trúc dưới sự chỉ đạo của nhà vua đã bố trí trục chính của công trình theo hướng Tây Bắc- Đông Nam. Yếu tố Ngũ hành quan trọng trong bố cục mặt bằng của kiến trúc cung thành tương ứng với ngũ phương.[118]

Thành Gia Định là một công trình phòng thủ quân sự, được Nguyễn Phúc Ánh ra lệnh xây dựng tại làng Tân Khai, huyện Bình Dương, đất Gia Định, sau này là Sài Gòn, kể từ ngày 4 tháng 2 năm 1790 theo kiến trúc hỗn hợp Đông-Tây, dựa trên một bản thiết kế của một người Pháp là Olivier de Puymanel [Việt danh là Ông Tín]. Thành được xây có 8 cạnh nên gọi là "Bát Quái". Thành còn có tên khác là "Thành Quy". Thành có 8 cửa, phía nam là cửa Càn Nguyên và cửa Li Minh, phía bắc là cửa Khôn Hậu và cửa Khảm Hiền, phía đông là cửa Chấn Hanh và cửa Cấm Chí, phía tây là cửa Tốn Thuận và cửa Đoài Duyệt. Thời Minh Mạng đổi tên các cửa: phía nam là cửa Gia Định và cửa Phiên An, phía bắc là cửa Củng Thần và cửa Vọng Thuyết, phía đông là cửa Phục Viễn và cửa Hoài Lai, phía tây là cửa Tĩnh Biên và cửa Tuyên Hóa. Ngày 18 tháng 3 năm 1859, quân Pháp đốt cháy kho tàng, phá hủy thành Sài Gòn và rút ra để tránh quân triều đình nhà Nguyễn tấn công đánh chiếm lại thành. Dấu tích duy nhất ngày nay còn lại là bức tranh vẽ ảnh thực dân Pháp tấn công thành và những tàn tích dọc đường Đinh Tiên Hoàng về phía gần xưởng Ba Son.[119]

Các phong trào khởi nghĩa chống triều đình

Nhà Nguyễn cũng là triều đại chứng kiến các cuộc nổi dậy của nông dân cũng như các tầng lớp khác bùng nổ dữ đội, nhất là ở Bắc Hà. Các nhà sử học tính rằng số lượng các cuộc nổi dậy nửa đầu thế kỷ 19 còn nhiều hơn toàn thế kỷ 18. Từ năm 1802 cho tới năm 1862, tại Bắc Hà có từ 350 cho tới 400 cuộc nổi dậy của nông dân nổ ra. Trong số đó có 50 cuộc diễn ra dưới thời Gia Long từ 1802-1820, 254 cuộc dưới thời Minh Mạng [1820-1840], 58 cuộc dưới thời Thiệu Trị [1840-1847] và 40 cuộc nổi dậy dưới thời Tự Đức [1847-1862]. Dù vậy, trong số này cũng đã tính luôn cả các vụ nổi dậy liên quan tới vấn đề Công giáo, các phong trào phù Lê diệt Nguyễn của dân Bắc Hà, các toán cướp nổi lên hùng cứ địa phương, các toán tàn quân Thái Bình Thiên Quốc vượt biên vào cướp và cả những vụ bạo loạn như của Lê Duy Phụng do thực dân Pháp kích động để rảnh tay xâm chiếm Việt Nam.[10]

Những cuộc nổi dậy ở Bắc Hà dưới thời vua Minh Mạng suốt Trung, Nam, Bắc, kể từ năm 1822 theo sử gia Phạm Văn Sơn đã do nhiều nguyên nhân:

  • Về phía ngoại bang, nước Xiêm La vẫn giữ thái độ hằn học về vấn đề Chân Lạp nên ngoài mặt tuy êm dịu nhưng bên trong Xiêm La vẫn tìm cơ hội để quấy rối Việt Nam.[96]
  • Ngoài Bắc, một phần nhân tâm còn luyến tiếc Lê triều, vẫn chờ dịp nổi lên chống lại nhà Nguyễn và để khôi phục lại dòng họ Lê.[96]
  • Bọn quan lại hay nhũng nhiễu dân chúng, dèm pha nhau, tâng công, nịnh hót mà nhà vua lại thường không minh, nhất là đối với kẻ công thần. Nhiều người trung lương đâm ra chán nản, trái lại phe gian nịnh nẩy nở mỗi ngày một nhiều, nước tất nhiên phải sinh loạn do đó ngoại quốc mới dám nhòm ngó vào.[96]

Nguyên nhân chính làm bùng nổ nhiều cuộc nổi dậy là vấn đề kinh tế và đời sống khó khăn của người dân:

  • Một giáo sĩ người Pháp tên Guérard nhận xét rằng Gia Long đánh thuế quá nặng và bắt dân chúng lao dịch quá nhiều, sự bất công và lộng hành của quan lại làm cho người dân khổ cực. Ông viết: "Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì tăng lên gấp ba"[120]. Việc xây thành Phú Xuân và đào kênh Vĩnh Tế phải huy động hàng vạn dân phu đi lao dịch. Một người Pháp là Borel viết năm 1818 mô tả việc xây thành Phú Xuân [Huế]: “Nhà vua sử dụng tất cả nhân lực vào việc xây tòa thành và các công trình công cộng khác. Khi tôi đến Huế, đã có đến 8 vạn người được điều động từ các nơi trong cả nước đang khẩn trương xây dựng một tòa thành rộng lớn bằng gạch... Riêng việc xây bờ thành đã tốn kém những khoản tiền khổng lồ và làm thiệt hàng ngàn nhân mạng vì phải khổ dịch liên tục... Nhà vua [Gia Long] đã vung ra những món tiền lớn và hy sinh tính mạng của hàng ngàn dân chúng vì họ phải làm việc không nghỉ tay trên các tường lũy của kinh thành. Đây quả là một công trình kỳ diệu. Mười vạn người được thường xuyên huy động”[64]
  • Sự tham nhũng của quan lại cũng là một nguyên nhân, như Chaigneau người Pháp đã ghi lại năm 1807: “Dân chúng hết sức khốn khổ, vua và quan lại làm khổ dân một cách kỳ lạ; công lý này tùy thuộc tiền bạc, kẻ giàu có thể đánh đập người nghèo mà không sợ bị trừng phạt gì, vì họ tin chắc nhờ tiền bạc họ sẽ thắng kiện.”[121]
  • Nạn đói thường xuyên đe doạ cuộc sống của người nông dân. Theo lời tâu của Nguyễn Công Trứ vào năm 1833, dân đói đến tỉnh Hải Dương kiếm ăn có tới 27.000 người. Trận bão đổ bộ vào tỉnh Nghệ An 1842 đã làm cho 40.753 ngôi nhà bị đổ, 5.420 người bị chết, cùng với đói kém, mất mùa, lụt lội và bệnh dịch. Trận dịch xảy ra năm 1840, riêng ở Bắc Kì số người chết đã lên tới 67.000.[120]

Các cuộc khởi nghĩa cuối cùng đều bị thất bại, nhưng đã khiến cho nhà Nguyễn suy yếu, lâm vào tình trạng bất ổn triền miên.[120]

Tại Bắc Kỳ

Ngay từ khi mới cầm quyền, nhà Nguyễn đã gặp phải sự chống đối hết sức quyết liệt từ nhiều lực lượng xã hội khác nhau. Năm 1803, một số tướng lĩnh cũ của nhà Tây Sơn do Nguyễn Văn Tuyết cầm đầu đã nổi dậy ở Kinh Môn, Hải Dương. Sau là cuộc khởi nghĩa của Vũ Đình Lục và Đặng Trần Siêu ở Sơn Nam [Thượng du Thanh Hóa], liên tục hoạt động cho đến năm 1824. Tiếp theo là phong trào nông dân ở miền xuôi, vùng đồng bằng Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ: Nguyễn Đức Khoa, Tổng Thái, Tú Bích ở Kinh Bắc, Trần Lệ Quyên, Đỗ Hoàng Thân ở Sơn Tây, Nguyễn Thế Chung ở Sơn Nam, Nguyễn Trấn, Lê Hữu Tạo, Ninh Đãng Tạo, Phan Bô ở Nghệ An.[122]

Một số cuộc nổi dậy lớn kế tiếp là cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành ở Nam Định [1821-27], Lê Duy Lương ở Ninh Bình [1833-34], Nông Văn Vân ở Tuyên Quang [1833-35] và của Cao Bá Quát [1854-56] ở Hà Nội, đặc biệt là phong trào bạo loạn do Lê Duy Phụng dẫn đầu [1861-1865] trên khắp lãnh thổ Bắc Kỳ. Ngoài ra vụ nổi dậy của Lê Duy Lương năm 1832 ở Ninh Bình, là con cháu nhà Lê khiến vua Minh Mạng phải yêu cầu Tổng đốc Nghệ Tĩnh là Tạ Quang Cự cùng với Tổng đốc Thanh Hóa là Nguyễn Văn Trọng đem quân ra Ninh Bình bắt được Lê Duy Lương giải về Kinh trị tội và tất cả con cháu Lê bị lưu đày ở Quảng Nam, Bình Định. Chính sách "Phù Lê" của nhà Nguyễn đã chấm dứt.[123]

Khi vua Tự Đức lên ngôi đã cử những danh thần của triều đình làm quan Kinh lược Đại sứ để đi kiểm tra, khám xét công việc ở các nơi trong cả nước. Nguyễn Tri Phương ở Nam Kỳ, Phan Thanh Giản coi ba tỉnh Nam Trung Việt, Nguyễn Đăng Giai kiểm soát ba tỉnh phía Bắc miền Trung. Nhưng từ năm 1851 nhiều cuộc nổi dậy diễn ra ở nhiều nơi, nhất là ở Bắc Kỳ bởi lòng dân ở đây còn tưởng nhớ đến nhà Lê, phá chính quyền triều Nguyễn. Có vài vụ nổi dậy mà người lãnh đạo tự xưng mình thuộc dòng dõi nhà Lê như quân của Lê Duy Phụng, lôi cuốn được khá nhiều người tham gia. Ngoài ra triều đình còn phải lo đối phó dư đảng Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn tổ chức chống lại nhà Thanh bị bại tràn sang Việt Nam. Tàn quân Thái Bình Thiên Quốc cướp phá các vùng thượng du khiến quân đội nhà Nguyễn phải đi đánh dẹp rất phiền phức.[124]

Ngoài mục đích chính trị thì một phần cũng do dân chúng phải chịu nhiều thiên tai như lũ lụt liên miên. Đê Văn Giang vỡ liên tiếp 18 năm lại thuộc tỉnh Hưng Yên là nơi đông dân nhất Bắc Kỳ nên làm phát sinh rối loạn. Thời kỳ này còn có quân Tam Đường do ba lãnh tụ: Quảng Nghĩa Đường, Lục Thắng Đường, Đức Thắng Đường nổi lên tại Thái Nguyên được quan Kinh lược Nguyễn Đăng Giai đến phủ dụ nên đất Bắc được yên ổn. Khi Nguyễn Đăng Giai qua đời [1854], Bắc Kỳ lại mất an ninh, trật tự như cũ.[125]

Khác với các cuộc nổi dậy khác, cuộc nổi dậy của nhóm Lê Duy Cự và Cao Bá Quát không cướp của giết người như những vụ loạn khác mà do sự bất mãn với triều đình, mục tiêu của họ là lật đổ chính quyền nhà Nguyễn. Bởi cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Cự bùng ra cuối năm ấy mà khoảng tháng 5 có châu chấu phá hoại mùa màng dữ dội nên người ta gọi vụ này là "giặc châu chấu".[126]

Những cuộc nổi dậy này nhiều lúc dân nghèo đã phối hợp với quân lưu manh, đạo tặc để chống đối nên tuy làm cho Triều đình khốn đốn nhưng vì không có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, không có hiệu lệnh thống nhất, trước sau đều thất bại.[127]

Ngoài các cuộc nổi dậy của nông dân ở Bắc Kỳ còn có cả những người nhân cơ hội triều đình suy yếu, nổi lên tứ tung để cướp phá và lợi dụng dân lưu vong để rủ họ theo. Ngoài ra cũng có những người bị quân Pháp mua chuộc để quấy rối triều Nguyễn cho họ dễ hành động. Chưa kể còn có quân giặc người Tàu hoành hành ở miền thượng du Bắc Kỳ. Những cuộc biến động này khiến triều đình phải dụng binh rất lâu, hao tổn binh lực và tài lực rất nhiều.[127]

Năm 1861, với chính sách của Triều đình Huế gia giảm các chương trình phúc lợi, giải tán các cộng đồng Công giáo, gia tăng kiểm soát mua bán lương thực, tăng thuế, cộng với nạn giặc Khách đánh phá mạn ngược và bọn cướp biển Tàu Ô đánh cướp các làng ven biển, khiến tình hình miền Bắc càng trở nên nguy hiểm, có thể bùng nổ bất kỳ lúc nào. Các thành phần bị ảnh hưởng nặng nề nhất, dễ nổi lên đối kháng nhất là những nông dân bị nạn lũ lụt, các tộc người thiểu số nghèo khổ và các cộng đồng Công giáo bị ngược đãi. Đây là những nhân tố khiến cho cuộc nổi dậy do Lê Duy Phụng cầm đầu đặc biệt nguy hiểm, khiến triều đình Huế phải hết sức vất vả mới đánh dẹp được.[128]

Tại Nam Kỳ

Cuộc Nổi dậy ở Đá Vách đã nổ ra, kéo dài ngay từ buổi đầu triều đại vua Gia Long đến suốt hơn nửa thế kỷ.[129] Ngay từ khi lên ngôi, vua Gia Long đã ký ban hành các loại thuế đánh vào lâm thổ sản ở vùng này, làm cho "dân Man quanh năm nộp thuế không lúc nào rỗi" [130], hậu quả là: "dân phải nhặt củ rau và quả ở núi để ăn cho no bụng" [131]. Các vua đầu thời Nguyễn còn mắc sai lầm khi cho rằng: Bọn man mọi ngu dại chưa thấm nhuần phong hóa, cần buộc họ cắt tóc, ăn mặc và sinh hoạt giống như người miền xuôi.[132] Tất cả đã làm cho người dân Đá Vách nung nấu căm thù, dẫn đến nhiều cuộc giao chiến suốt hơn 50 năm, bất chấp mọi biện pháp trấn áp và chia rẽ của triều đình nhà Nguyễn. Các vụ nổi dậy vào các năm 1803, 1804, 1806, 1807 đã làm cho quan quân nhà Nguyễn thiệt hại không ít.

Cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi là một cuộc nổi dậy xảy ra vào thời vua Minh Mạng ở các tỉnh miền Nam Việt Nam. Lãnh đạo của cuộc nổi dậy này là Lê Văn Khôi nhóm họp những phần tử về phái địa phương phân quyền của Lê Văn Duyệt và những tù nhân Bắc Kỳ bị đi đày để nổi dậy.[133] Được võ quan, binh lính và dân chúng Phiên An vốn cảm tình với Lê Văn Duyệt đi theo rất đông nên quân nổi dậy từng đánh chiếm được 6 tỉnh phía Nam nhưng sau đó triều đình đã nhanh chóng thu phục các tỉnh này, dồn quân nổi dậy vào cố thủ ở thành Phiên An năm 1835 khi thành Phiên An thất thủ.[133]

Bài chi tiết: Cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi

Ngoài ra, tại Nam Kỳ, chính sách không phù hợp của nhà Nguyễn với người thiểu số, đặc biệt là người Khmer và chính sách đối ngoại với vương quốc Chân Lạp cũng gây bất mãn trong cộng đồng người Khmer, dẫn đến nhiều cuộc nổi dậy chống lại triều đình, như các cuộc nổi dậy Lâm Sâm, Ba Xuyên, Thất Sơn, Hà Tiên.[134]

Chuyện nhà Thanh làm mất đất TQ sau Chiến tranh Nha phiến với Anh

Nguồn hình ảnh, Universal History Archive

Chụp lại hình ảnh,

Quan quân nhà Thanh lên tàu The Arrow giật cờ của Anh Quốc trong Chiến tranh Nha phiến lần hai. Nhưng các giao tranh chỉ đem lại thất bại cho Trung Hoa.

Ngày 15/01 năm 1840, Tổng đốc Lưỡng Quảng, Lâm Tắc Từ công bố một lá thư gửi Nữ Hoàng Victoria, yêu cầu người Anh ngừng đem nha phiến vào Trung Quốc.

Phụng mệnh Hoàng đế Đạo Quang đi tiễu trừ nạn nha phiến, tên tuổi Lâm Tắc Từ [1785-1850] đã gắn liền với nỗ lực tự vệ thất bại của Trung Hoa trong thế kỷ 19.

Nhưng tư duy của ông cũng phản ánh hạn chế của quan lại Trung Hoa lúc Phương Tây bành trướng theo các nguyên lý kinh tế mà nhà Thanh không thể hiểu nổi.

Con đường Tơ lụa và sự thật về Trịnh Hòa

Quảng cáo

Đấu giá súng nạm vàng của vua Càn Long

Ngoại giao Pháp và những cơ hội bị bỏ lỡ của VN

Trong lá thư được đăng ở Quảng Châu, Lâm Tắc Từ kêu gọi Nữ Hoàng Anh hãy "chọn lựa những thần dân để ngăn bọn xấu, bọn vô lại không sang Trung Hoa".

Lâm Tắc Từ vẫn tin rằng nạn buôn lậu nha phiến vào Trung Quốc để thu bạc trắng của người Anh xảy ra chỉ vì một số cá nhân bất hảo.

Nguồn hình ảnh, Bettmann

Chụp lại hình ảnh,

Một phụ nữ Trung Hoa nghiện bàn đèn thuốc phiện. Anh Quốc đã bán vào Trung Quốc thời nhà Thanh hàng nghìn tấn nha phiến, gây hủy hoại sức khoẻ người dân và rường mối xã hội để thu về hàng vạn lượng bạc

Ông nói Thiên Triều sẽ tha tội cho những người Anh nào đã trót buôn thuốc phiện vào Trung Quốc "vì nhầm lẫn" [by mistake], và không hiểu luật lệ sở tại.

Ông nêu quan điểm 'đức trị' của Nhà Thanh để hỏi Nữ hoàng Victoria không chấp nhận nha phiến ở Anh thì sao bà có thể để chuyện đó xảy ra với Trung Quốc.

Nhưng công ty Đông Ấn được Hoàng gia Anh bảo trợ không chỉ làm chủ một phần Ấn Độ mà còn độc quyền trồng nha phiến ở Bengal để bán vào Trung Hoa.

Hỗ trợ cho họ là kế hoạch 'ngoại giao pháo hạm' của chính quyền Anh nhằm ép Trung Quốc mở cảng biển, nhân danh 'tự do thương mại' và 'tự do truyền đạo'.

Trong khi đó, Lâm Tắc Từ vẫn coi người Anh chỉ là một thứ 'rợ', giống các bộ lạc du mục đánh vào Trung Quốc các thế kỷ trước.

Cứ lấy lễ giáo Thiên Triều để giáo hóa hẳn họ phải nghe.

Nguồn hình ảnh, DEA PICTURE LIBRARY

Chụp lại hình ảnh,

Liên quân Phương Tây dùng 'ngoại giao pháo hạm' buộc Thanh triều mở cửa

Nguồn hình ảnh, Hulton Archive

Chụp lại hình ảnh,

Dù kiên cường chống ngoại xâm, các nhóm dân quân tự tổ chức ở vùng quê Trung Quốc, gồm cả thiếu niên, chỉ có gậy và lá chắn bằng tre, gỗ, không thể địch nổi các pháo hạm và súng trường của Phương Tây

Sau một vụ va chạm vì lính Anh say rượu giết chết dân Trung Quốc mà không trao nộp thủ phạm cho quan chức Thanh, Lâm Tắc Từ ra tối hậu thư, rồi cho đốt 1400 tấn nha phiến của Anh ở Quảng Châu.

Tháng 6/1840, Anh Quốc cử 16 thuyền chiến đưa quân lính và cả nhân viên của công ty sản xuất nha phiến Jardine Matheson & Co. đến Quảng Châu.

Trong hai năm liền, quân Anh chặn cảng, bắn phá các thành trì của Trung Quốc, lên bộ chiếm đô thị và ép nhà Thanh đàm phán.

Video liên quan

Chủ Đề