Hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
Hệ thống chính sách thuế, phí, lệ phí được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân. Ảnh: Nguyễn Thanh

Tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân

Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống thuế khá đầy đủ với 10 sắc thuế, phí và lệ phí chủ yếu bao gồm: thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất khẩu, nhập khẩu; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập cá nhân; thuế tài nguyên; thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; thuế bảo vệ môi trường; phí, lệ phí.

Bộ Tài chính đánh giá, qua thời gian thực hiện, hệ thống chính sách thuế, phí, lệ phí được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện theo đúng định hướng cải cách hệ thống thuế, cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích tích tụ vốn, phát triển sản xuất, kinh doanh nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, qua đó góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính và duy trì đà tăng trưởng hợp lý, là cơ sở bảo đảm nguồn thu ngân sách.

Đơn cử như thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đã giảm mạnh trong giai đoạn vừa qua, cụ thể: giảm từ 28% xuống 25% (năm 2009), xuống 22% (năm 2014) và xuống 20% (năm 2016); các mức thuế suất ưu đãi là 10%, 15% và 17%.

Hiện nhiều chính sách ưu đãi thuế cũng được ban hành như: miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy hải sản; thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức 10% suốt đời dự án đối với xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường; doanh nghiệp có dự án đầu tư mới trong lĩnh vực xã hội hóa nếu thực hiện tại địa bàn khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn thì được miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo, nếu thực hiện ở các địa bàn khác được miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 5 năm tiếp theo...

Ngoài ra, sửa đổi, bổ sung nhiều sắc thuế khác nhằm khắc phục những bất cập trong thực tế thực hiện, tháo gỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển; đồng thời bao quát đầy đủ các nguồn thu mới phát sinh cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường liên quan đến mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế sử dụng đất nông nghiệp...

Đáng chú ý, trong năm 2020 và 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều giải pháp về miễn, giảm thuế, phí nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Việc ban hành những giải pháp thuế nêu trên đã góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đất nước, doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn, ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, nuôi dưỡng và cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước; cải cách hành chính, hiện đại hóa công tác quản lý thuế, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý.

Tiếp tục cải cách, xây dựng hệ thống thuế đồng bộ

Bộ Tài chính cho biết, việc sửa đổi chính sách thuế trong thời gian tới nhằm mục tiêu thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về hoàn thiện chính sách thuế nhằm mục tiêu cơ cấu lại nguồn thu ngân sách nhà nước tại Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị.

Theo đó, tập trung cơ cấu lại nguồn thu; hoàn thiện chính sách thu gắn với cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước theo hướng bao quát toàn bộ các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu; tăng tỷ trọng thu nội địa, bảo đảm tỷ trọng hợp lý giữa thuế gián thu và thuế trực thu, khai thác tốt thuế thu từ tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường, hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội trong các sắc thuế và chính sách miễn, giảm, giãn thuế, đảm bảo tính trung lập của thuế.

Đồng thời, tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 trong Văn Kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội về thuế, phí như sau: sửa đổi, bổ sung các luật về thuế, phí theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, gắn với cơ cấu lại nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế...

Thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục thực hiện mục tiêu cải cách, xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp thông lệ quốc tế. Đồng thời khắc phục những vướng mắc của các luật thuế hiện hành, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Để thực hiện các mục tiêu nêu trên, trong giai đoạn 10 năm (2021- 2030), Bộ Tài chính sẽ tiến hành nghiên cứu để báo cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, đồng bộ tất cả các luật về thuế, bám sát các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước liên quan đến việc đổi mới cơ chế, chính sách về tài chính, ngân sách nhà nước cũng như Chương trình hành động của Bộ Tài chính thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Đồng thời, Bộ cũng đang khẩn trương xây dựng, hoàn thiện để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Tài chính và Chiến lược cải cách hệ thống thuế cho giai đoạn 2021-2030 để triển khai thực hiện hiệu quả trong thời gian tới.

Hoàn thiện pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp

01/04/2013

BÀNH QUỐC TUẤN

khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế Luật, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn

Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (Luật thuế TNDN 2008) được Quốc hội khóa XII ban hành ngày 03/6/2008, bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/2009. Đến nay, sau hơn 4 năm áp dụng, trước những biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của đạo luật này nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp đang trở thành một yêu cầu cấp thiết, góp phần tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam[1].

Hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Ảnh minh họa: nguồn internet

1. Kết quả đạt được sau hơn 4 năm áp dụng Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp 2008

Luật thuế TNDN 2008 đã đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu cải cách chính sách thuế. Các kết quả cụ thể nổi bật trên các mặt sau:

Một là, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Luật thuế TNDN 2008 đã hạ mức thuế suất phổ thông từ 28% xuống 25%[1], được đánh giá là mức thuế suất tương đối phù hợp với mặt bằng chung của các nước trong khu vực và thế giới. Luật thuế TNDN 2008 cũng đã bỏ quy định thu bổ sung theo biểu lũy tiến đối với thu nhập từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất; quy định nguyên tắc xác định các khoản chi được trừ và liệt kê các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN. Theo đó, doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ các khoản chi có đủ hoá đơn, chứng từ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và không nằm trong số các khoản chi không được trừ (Điều 9 Luật thuế TNDN 2008). Với quy định này, Luật thuế TNDN 2008 đã tiếp tục tạo môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh thuận lợi, đảm bảo công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế; thực hiện giảm mức thuế chung để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Hai là, khuyến khích và thu hút đầu tư: Việc sửa đổi quy định về ưu đãi thuế đã góp phần tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, khuyến khích và thu hút đầu tư có chọn lọc để phát triển các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và một số ít ngành, lĩnh vực quan trọng theo chính sách phát triển của Nhà nước. Những nội dung mới của Luật thuế TNDN 2008 như: chỉ còn quy định 2 mức thuế suất ưu đãi là 10%, 20% trong thời hạn tương ứng 15 năm, 10 năm, bỏ mức thuế suất ưu đãi 15% trong 12 năm và bỏ việc áp dụng ưu đãi đối với doanh nghiệp mới thành lập trong khu công nghiệp và một số ngành thuộc danh mục lĩnh vực ngành nghề ưu đãi đầu tư (Điều 13 Luật thuế TNDN 2008). Thu hẹp diện áp dụng mức ưu đãi cao nhất (chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp mới thành lập, hoạt động tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; hoạt động trong các lĩnh vực mũi nhọn gồm đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước; cầu, đường bộ, đường sắt; cảng hàng không, cảng biển, cảng sông; sân bay, nhà ga và công trình cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng khác; các lĩnh vực đang được khuyến khích đẩy mạnh xã hội hoá là giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá - nghệ thuật, thể thao và bảo vệ môi trường tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn. Đối với các trường hợp đặc biệt thì có thể được hưởng thuế suất 10% trong 30 năm).…

Ba là, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước(NSNN): Luật thuế TNDN 2008 đã góp phần đảm bảo sự gia tăng vững chắc nguồn thu cho NSNN từ thuế. Từ năm 2009 đến năm 2011, mặc dù nền kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới và có sự điều chỉnh giảm mức động viên thuế suất từ 28% xuống còn 25% nhưng số thu thuế TNDN vẫn tăng trưởng, là một trong những nguồn thu thuế chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn thu của NSNN, góp phần bảo đảm nguồn thu quan trọng của NSNN.

Trong giai đoạn 2009 - 2012, số thu thuế TNDN (không kể thu từ dầu thô) đạt mức bình quân khoảng 90 nghìn tỷ đồng/năm với mức tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 25%.

Năm

Tổng thu
nội địa

Tổng số
thuế TNDN

Thuế TNDN (trừ dầu thô)/Tổng thu NS (trừ dầu thô)

Tốc độ tăng số thu thuế TNDN so với năm 2008

2008

322.853

103.627

24,4

2009

331.655

89.188

19,3

86,1

2010

434.526

119.900

22,5

115,7

2011

541.013

153.595

22,4

148,2

Bảng 1: Tổng hợp số thuế TNDN từ năm 2008 - 2011 (đơn vị tính: tỷ đồng)
Nguồn: Tạp chí Tài chính số phát hành ngày 13/12/2012

Bốn là, góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế: Thực tế cho thấy, việc áp dụng Luật thuế TNDN 2008 so với Luật thuế TNDN 2003 thì các khoản chi phí được trừ khi tính thuế, thu nhập chịu thuế (TNCT) đã có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng ngày càng công khai, minh bạch, đơn giản, đồng bộ với hệ thống pháp luật có liên quan và phù hợp với thực tiễn. Đặc biệt, về các ưu đãi thuế, Luật thuế TNDN 2008 đã đơn giản hóa chính sách ưu đãi, thu hẹp diện ưu đãi theo ngành, lĩnh vực, tiếp tục khuyến khích và thu hút đầu tư có chọn lọc theo hướng đầu tư vào các ngành nghề mũi nhọn như công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của Nhà nước, sản xuất sản phẩm phần mềm, lĩnh vục giáo dục đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường và đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, đảm bảo cho sự phát triển cân đối, đồng đều giữa các vùng, miền, ngành nghề, lĩnh vực đầu tư trong nền kinh tế chung của đất nước.

Năm là, đảm bảo tính phù hợp giữa pháp luật trong nước với thông lệ quốc tế và cam kết quốc tế: Luật thuế TNDN 2008 áp dụng thống nhất một mức thuế suất phổ thông 25%, áp dụng thống nhất mức ưu đãi thuế đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp không phân biệt giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài nước; quy định nguyên tắc xác định các khoản chi được trừ và liệt kê các khoản chi không được trừ khi xác định TNCT, TNDN; phạm vi áp dụng chỉ điều chỉnh đối với các tổ chức sản xuất, kinh doanh có thu nhập, còn các hộ gia đình, cá nhân kinh doanh có thu nhập thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật thuế Thu nhập cá nhân... Với việc giảm mức thuế suất phổ thông từ 28% của Luật thuế TNDN 2003 xuống còn 25% là phù hợp với thực tế thời gian qua và là mức trung bình so với các nước trong khu vực, bằng với Trung Quốc. Tuy nhiên, thời gian gần đây, các nước có xu thế cải cách thuế theo hướng giảm dần mức thuế suất phổ thông để tạo sự hấp dẫn, tăng tính cạnh tranh, thu hút đầu tư. Malaysia giảm từ 28% năm 2005 xuống mức 27% năm 2007 và mức 26% năm 2008 và từ năm 2009 đến nay là 25%. Thái Lan giảm từ 30% xuống 23% năm 2012[2].

Để thực hiện các cam kết quốc tế trong hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Luật thuế TNDN 2008 đã có quy định về việc xác định cơ sở thường trú và phương pháp xác định TNCT theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng các điều khoản của hiệp định nếu khác với quy định của nội luật. Căn cứ vào đó, Chính phủ đã quy định cụ thể đối với việc tính thuế thu nhập nhận được ở nước ngoài. Đến nay, nước ta đã tham gia nhiều cam kết quốc tế ở cấp Chính phủ có liên quan đến thuế TNDN như: xác định nghĩa vụ thuế đối với doanh nghiệp nước ngoài để bảo đảm quyền thu thuế của Việt Nam, quy định về tránh đánh thuế hai lần...

Sáu là, góp phần xử lý tốt mối quan hệ mang tính hệ thống giữa các văn bản pháp luật về thuế: Các quy định của Luật thuế TNDN 2008 về cơ bản tương đồng và phù hợp với các đạo luật thuế khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Xem xét mối quan hệ giữa Luật thuế TNDN 2008 với các đạo luật thuế khác như Luật thuế Giá trị gia tăng 2008 cho thấy nội dung của hai văn bản pháp luật thể hiện rõ tính hệ thống và bổ trợ lẫn nhau. Mối quan hệ giữa hai đạo luật về cơ bản tốt hơn nhiều so với việc xử lý mối quan hệ giữa thế doanh thu và thuế lợi tức trước đây.

2. Một số hạn chế của Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp 2008

2.1. Thuế suất và xác định thu nhập chịu thuế

Là “linh hồn của đạo luật thuế” thuế suất luôn là vấn đề trọng tâm mà một đạo luật thuế hướng đến cũng như là tâm điểm của mọi cuộc cải cách, sửa đổi các đạo luật thuế. Mức thuế suất 25% quy định tại Điều 10 Luật thuế TNDN 2008 còn cao so với mặt bằng Việt Nam cũng như các nước trong khu vực. Vì vậy, về cơ bản, mức thuế suất của Luật Thuế TNDN 2008 vẫn chưa tạo điều kiện tối đa cho cơ sở kinh doanh tích lũy vốn tái sản xuất mở rộng, đặc biệt trong giai đoạn tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn như hiện nay. Đối với ưu đãi thuế, những quy định tại Điều 13 Luật thuế TNDN 2008 là cần thiết nhưng trong thực tế, vẫn còn một số lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư nhưng chưa thuộc lĩnh vực được ưu đãi thuế như đối với tổ chức tài chính vi mô; đầu tư xây dựng nhà ở xã hội để bán, cho thuê, cho mua lại; hoạt động báo in của cơ quan báo chí; hoạt động xuất bản; lĩnh vực xã hội hóa hoặc việc ưu đãi thuế đối với dự án mở rộng đầu tư.

Đối với vấn đề xác định TNCT, Điều 3 Luật thuế TNDN 2008 có quy định về TNCT, tuy nhiên chưa bao quát được các khoản thu nhập mới phát sinh trong kỳ tính thuế như thu nhập từ chuyển nhượng dự án đầu tư; chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản; chuyển nhượng quyền góp vốn, quyền tham gia dự án đầu tư; chuyển nhượng, cho thuê quyền sở hữu công nghiệp (tên thương mại, nhãn hiệu), thu nhập từ lợi thế kinh doanh. Ngoài ra, các khoản thu nhập không phát sinh thường xuyên, bản chất gần giống như thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản, do vậy phải kê khai nộp thuế riêng và do cùng tính chất nên được bù trừ lãi - lỗ của các hoạt động này với nhau, nhưng không được bù trừ vào thu nhập, hoặc lỗ của các hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp. Mặt khác, cũng tại khoản 2 Điều 3 quy định khoản “hoàn nhập dự phòng” là thu nhập khác khi xác định TNCT. Xét về bản chất kinh tế thì dự phòng là một khoản được tính trước vào chi phí được trừ khi xác định lãi - lỗ của doanh nghiệp trong một kỳ kinh doanh, mang tính phòng ngừa rủi ro, bảo đảm cho doanh nghiệp có nguồn trang trải khi phát sinh sự kiện rủi ro. Nếu thực tế không phát sinh rủi ro, thì khoản dự phòng đã trích lập được điều chỉnh giảm chi phí thì mới phù hợp.

Đối với thu nhập được miễn thuế, Điều 4 Luật thuế TNDN 2008 quy định 7 khoản thu nhập miễn thuế và về cơ bản những trường hợp này là hợp lý. Tuy nhiên, có nhiều khoản thu nhập lẽ ra phải miễn thuế nhưng được quy định như: thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải; thu nhập từ hoạt động tín dụng đầu tư phát triển; thu nhập từ hoạt động tín dụng đầu tư theo chức năng, nhiệm vụ của quỹ đầu tư phát triển địa phương... Đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải thì ở nhiều nước như Thái Lan, Malaysia, Nam Phi, Trung Quốc đều miễn thuế để khuyến khích doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư sử dụng công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghệ mới thân thiện với môi trường. Hoặc việc bổ sung quy định miễn thuế đối với phần lợi nhuận không chia của cơ sở giáo dục đại học tư thục là cần thiết, bởi khoản 3 Điều 66 Luật Giáo dục đại học năm 2012 đã có quy định các cơ sở giáo dục đại học phải dành ít nhất 25% để đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học cho các hoạt động giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, viên chức, cán bộ quản lý giáo dục, phục vụ cho hoạt động học tập và sinh hoạt của người học hoặc cho các mục đích từ thiện, thực hiện trách nhiệm xã hội và đã quy định rõ phần thu nhập này được miễn thuế TNDN. Do vậy, để đảm bảo minh bạch chính sách và đồng bộ với quy định của Luật Giáo dục đại học thì cần bổ sung quy định miễn thuế đối với phần thu nhập để lại để đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học tư thục.

Mặt khác, hiện tại các khoản chi được trừ, không được trừ khi xác định TNCT lại đang vừa thừa, vừa thiếu. Điển hình như Luật thuế TNDN 2008 không có quy định về vốn mỏng (tình trạng doanh nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào vốn đi vay). Nhiều doanh nghiệp có khoản vốn vay vượt gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu, thậm chí có trường hợp doanh nghiệp vốn chủ sở hữu chỉ chiếm 1%/tổng vốn đầu tư trong khi vốn vay chiếm tới 99%. Điều này dẫn đến nguy cơ mất an toàn tài chính doanh nghiệp, rủi ro về nợ xấu, đồng thời gây thất thu cho NSNN do việc sử dụng vốn vay nhiều, dẫn tới chi phí tiền lãi phải trả càng tăng (theo quy định hiện hành, khoản lãi tiền vay này được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập tính thuế TNDN, do đó số thuế doanh nghiệp phải nộp sẽ giảm đi). Hiện tượng “tránh thuế” theo cách tận dụng “vốn mỏng” của doanh nghiệp ngày càng trở nên phổ biến, không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới. Do đó, để đảm bảo phản ánh đúng chi phí lãi vay phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp và nền kinh tế, góp phần chống chuyển giá, thì cần có quy định khống chế mức tỷ lệ vốn vay so với vốn chủ sở hữu được tính vào chi phí được trừ khi xác định TNCT TNDN[3].

2.2. Chính sách ưu đãi thuế

Về cơ bản, Luật thuế TNDN 2008 đã dành nhiều điều luật điều chỉnh vấn đề ưu đãi thuế (từ Điều 13 - Điều 18) với nhiều nội dung ưu đãi như ưu đãi về thuế suất, ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế, chuyển lỗ… Đồng thời, Luật thuế TNDN 2008 cũng quy định chính sách ưu đãi thuế TNDN theo hướng thu hẹp về lĩnh vực, ngành nghề nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc xác định các chính sách ưu đãi thuế. Những quy định này thể hiện sự quan tâm đúng mức của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nộp thuế. Đặc biệt, trong giai đoạn nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, những quy định này đã góp phần chia sẻ với doanh nghiệp gánh nặng thuế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, những quy định về chính sách ưu đãi thuế của Luật thuế TNDN 2008 vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục trong thời gian tới. Cụ thể:

- Quy định của Luật thuế TNDN 2008 mới hướng vào việc khuyến khích đầu tư lập doanh nghiệp mới mà chưa tạo động lực khuyến khích các doanh nghiệp đang hoạt động bỏ thêm vốn đầu tư, do vậy, chưa phát huy hết hiệu quả phân bổ nguồn lực trong đầu tư để đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh tế theo vùng và lãnh thổ, nhất là thu hút đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, Luật thuế TNDN 2008 cũng không có quy định ưu đãi thuế đối với đầu tư mở rộng, ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, nên chưa tạo động lực khuyến khích thu hút đầu tư, góp phần vào việc phân bổ nguồn lực có hiệu quả.

- Luật thuế TNDN 2008 còn lồng ghép nhiều chính sách xã hội vào các điều khoản ưu đãi miễn, giảm thuế như quy định về miễn, giảm thuế cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người dân tộc thiểu số… (Điều 15 Luật thuế TNDN 2008). Những quy định này chẳng những không mang lại lợi ích cho các chính sách thuế mà còn gây phức tạp trong quản lý và làm giảm đi tính trung lập và tính thuần khiết kinh tế của chúng, dễ dẫn đến các hiện tượng lợi dụng để trốn thuế.

2.3. Xác định chi phí khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế

Điều 9 Luật thuế TNDN 2008 đã quy định tương đối cụ thể về các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định TNCT. Tuy nhiên, xem xét cụ thể các khoản này chúng ta thấy một số quy định về các khoản chi phí được trừ và không được trừ chưa thật sự phù hợp với tình hình phát triển kinh tế trong thời gian tới, chưa góp phần vào việc kiểm soát thu nhập, chi phí của doanh nghiệp. Cụ thể: (i) chưa có quy định về khống chế tỷ lệ vốn vay so với vốn chủ sở hữu (vốn mỏng) được tính vào chi phí; (ii) chưa có quy định về điều kiện tính vào chi phí phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt; (iii) quy định về định mức tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu, về các khoản chi của doanh nghiệp tham gia tài trợ cho hoạt động xã hội; về tỷ lệ khống chế chi phí quảng cáo, khuyến mại không còn phù hợp với thực tiễn. Cụ thể: Luật thuế TNDN 2008 quy định không tính vào chi phí được trừ đối với “Phần chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới; chi tiếp tân, khánh tiết, hội nghị; chi hỗ trợ tiếp thị, hỗ trợ chi phí, chiết khấu thanh toán; chi báo biếu, báo tặng của cơ quan báo chí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh vượt quá 10% tổng số chi được trừ; đối với doanh nghiệp thành lập mới là phần chi vượt quá 15% trong 3 năm đầu, kể từ khi được thành lập”. Nhưng hiện nay có nhiều ý kiến, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) cho rằng, tỷ lệ khống chế chi phí quảng cáo, khuyến mại hiện hành không còn phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế. Do vậy, cần được điều chỉnh cao hơn so với hiện tại để doanh nghiệp có nguồn tăng cường quảng bá, giới thiệu, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường. Ngoài ra, cũng cần nhận thấy rằng một số khoản chi về bản chất là chi phí tài chính, như chi chiết khấu thanh toán nhưng theo luật hiện hành đang được xếp vào khoản chi quảng cáo, khuyến mại thuộc diện khống chế chi phí cũng không phù hợp, nên cần rà soát để loại bỏ khỏi diện chi phí khống chế[4].

3. Một số kiến nghị góp phần sửa đổi Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp 2008

3.1. Mục tiêu, yêu cầu của việc sửa đổi Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp 2008

Thuế là một trong các nguồn thu cơ bản của NSNN và việc động viên nguồn thu thuế đến mức độ nào cũng là một trong những vấn đề cơ bản quyết định thái độ hoạt động của các chủ thể kinh doanh cũng như sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, việc sửa đổi bất kỳ đạo luật thuế nào cũng phải được tiến hành một cách thận trọng và phải hướng đến những mục tiêu nhất định, phù hợp với yêu cầu phát tiển của nền kinh tế. Trong giai đoạn sắp tới, xuất phát từ những yêu cầu của thực tiễn tình hình kinh tế - xã hội, việc sửa đổi Luật thuế TNDN 2008 một mặt cần phải đảm bảo sự phù hợp của quy định pháp luật với tình hình thực tiễn, mặt khác, cần đảm bảo được nguồn thu đối với NSNN, hạn chế những biến động lớn về tài chính sẽ ảnh hưởng đến các kế hoạch phát triển kinh tế vĩ mô. Từ đó, việc sửa đổi cần chú ý đến các mục tiêu, yêu cầu sau đây[5]:

Thứ nhất, kiên trì mục tiêu dài hạn đã đặt ra khi ban hành Luật thuế TNDN 2008. Cụ thể: Tiếp tục tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh; thực hiện giảm mức thuế suất chung để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tiếp tục cải cách ưu đãi thuế nhằm tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, khuyến khích và thu hút đầu tư có chọn lọc để phát triển các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và một số ít ngành, lĩnh vực quan trọng theo chính sách phát triển của Nhà nước trong giai đoạn tới.

Thứ hai, chỉ tập trung sửa đổi, bổ sung những vấn đề bất cập so với thực tế, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật và có tính ổn định; việc sửa đổi sẽ tác động giảm thu NSNN trong vài năm đầu nhưng phải đảm bảo ổn định và tăng trưởng nguồn thu NSNN trong trung và dài hạn. Đối với những cải cách lớn về thuế TNDN cần có thời gian tổng kết thực tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của các nước và quan trọng nhất, tránh gây ra những biến động lớn về nguồn thu NSNN.

Thứ ba, việc sửa đổi luật phải đảm bảo theo hướng đơn giản, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và góp phần thúc đẩy cải cách hành chính và hiện đại hoá công tác quản lý thuế. Để đạt được điều này, Luật thuế TNDN 2008 cần đặt trong mối quan hệ tương quan với các đạo luật thuế khác và quan trọng nhất là Luật Quản lý thuế đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012 để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

Thứ tư, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh so với các nước trong khu vực, các nước có điều kiện tương đồng với nước ta, phù hợp với xu thế cải cách thuế và thông lệ quốc tế. Về vấn đề này, thuế suất chính là nội dung cơ bản nhất. Việc quyết định áp dụng các mức thuế suất một mặt phải phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam, mặt khác phải tương thích với mặt bằng chung về thuế suất TNDN của các nước trong khu vực Asean cũng như thế giới để đảm bảo sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam cũng như góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.

3.2. Những đề xuất góp phần hoàn thiện Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp 2008

Thuế suất: Mục tiêu chính hiện nay của thuế TNDN là khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh, nên việc giảm thuế suất thuế TNDN là một yêu cầu tất yếu. Vấn đề là giảm thuế suất hiện hành xuống như thế nào là tối ưu nhất. Tại Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN, Bộ Tài chính đã đề xuất giảm thuế suất chung từ mức 25% hiện hành xuống còn 23%, riêng doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ được áp dụng mức thuế suất 20%[6]. Theo Luật thuế TNDN 2008, mức thuế suất phổ thông là 25% được áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp, không phân biệt giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Thực tế, đây là mức thuế suất trung bình so với nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực. Tuy nhiên, để giảm chi phí cho doanh nghiệp, giúp cộng đồng doanh nghiệp vượt qua khó khăn, nhất là cộng đồng doanh nghiệp vừa và nhỏ đã phải chịu nhiều áp lực trong kinh doanh suốt hai năm qua, Bộ Tài chính đã quyết định kiến nghị đẩy sớm lộ trình giảm thuế TNDN. Điều này cũng phù hợp với xu thế hội nhập của tài chính Việt Nam; phù hợp với lộ trình trong Chiến lược cải cách thuế với mục tiêu đặt ra đến năm 2020 là thuế suất chỉ còn 20%.

Từ khi ban hành Luật thuế TNDN đến nay, thuế suất thuế TNDN liên tục được Bộ Tài chính và Chính phủ kiến nghị điều chỉnh theo hướng ngày một hạ thấp. Nếu như thuế suất thuế TNDN của năm 1997 là 32% áp dụng đối với các doanh nghiệp trong nước và thuế suất 25% áp dụng đối với các doanh nghiệp FDI thì đến năm 2003, thuế suất thuế TNDN đã được áp dụng thống nhất một mức là 28% đối với cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI; đến năm 2008, thuế suất thuế TNDN tiếp tục được điều chỉnh giảm từ 28% xuống mức 25%, áp dụng thống nhất với cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.

Việc điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN về 20 - 23%, theo các chuyên gia kinh tế là phù hợp với xu hướng cải cách thuế trên thế giới và nhất là phù hợp với bối cảnh kinh tế nước ta. Một là nền kinh tế bị ảnh hưởng lớn của khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu đang cần phải phục hồi để phát triển mạnh trong các năm sắp tới theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã được Đại hội XI của Đảng đề ra. Theo nguyên lý thông thường, một trong những giải pháp quan trọng để phục hồi nền kinh tế đang suy giảm là giảm thuế. Vì vậy, kiến nghị giảm mức thuế suất thuế TNDN như nói trên là kịp thời và rất phù hợp. Vì vậy, khi thuế TNDN về mức 20 - 23%, Việt Nam sẽ tăng thêm tính cạnh tranh trong thu hút đầu tư cả với doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp FDI. Thuế suất 20% cũng là tương đồng với nhiều nước đang phát triển. Thông qua việc giảm thuế TNDN về 20 - 23%, còn góp phần ngăn chặn việc chuyển lợi nhuận qua giá. Nếu Việt Nam thực hiện giảm thuế suất thuế TNDN, một số doanh nghiệp liên kết sẽ ngừng các giao dịch liên kết, qua đó, vừa hạn chế được việc chuyển lợi nhuận qua giá, vừa giúp các cơ quan quản lý có thể phân tích tìm ra một số doanh nghiệp liên kết để theo dõi và ngăn ngừa các hành vi chuyển lợi nhuận qua giá trong tương lai.

Một vấn đề đặt ra là giảm thuế suất thuế TNDN từ 25% xuống 20 - 23% có làm giảm số thu của NSNN không? Thực tế đã chứng minh và sẽ khẳng định việc giảm suất thuế TNDN từ 25% xuống 20 - 23% sẽ không dẫn đến giảm số thu thuế TNDN. Bởi vì việc giảm thuế sẽ thu hút thêm được nhiều doanh nghiệp trong nước thành lập mới và doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam; khuyến khích các doanh nghiệp đang kinh doanh đẩy mạnh sản xuất, tăng thêm doanh thu và thu nhập, cho nên diện nộp thuế và số thuế nộp đều có cơ hội tăng lên cao hơn. Việc giảm mức thuế suất cũng trực tiếp góp phần làm cho công tác thu nộp thuế trở nên dễ chịu hơn, số vi phạm và số thuế gian lận, nợ đọng cũng vì thế mà có xu hướng giảm bớt, dẫn đến số thu thuế vào NSNN có điều kiện tăng cao hơn.

Điều này cũng đã được kiểm nghiệm trong thực tế hơn 20 năm qua. Từ năm 1990 đến năm 2010, Việt Nam liên tục điều chỉnh giảm thuế suất thuế TNDN nhưng số thu thuế TNDN vào NSNN luôn hoàn thành vượt mức được giao, số thu năm sau tăng cao hơn năm trước. Số thu thuế TNDN nộp vào NSNN năm 2001 là 14.128 tỷ đồng, năm 2002 là 16.585 tỷ đồng (tăng so với năm trước là 17,4%); năm 2003 là 19.539 tỷ đồng (tăng 17,8%); năm 2004 là 23.322 tỷ đồng (tăng 19,4%); năm 2005 là 29.000 tỷ đồng (tăng 25%); năm 2006 là 36.000 tỷ đồng (tăng 23,6%); năm 2007 là 41.700 tỷ đồng (tăng 15,7%), năm 2008 là 66.000 tỷ đồng (tăng 59%), năm 2009 là 57.600 tỷ đồng (giảm 13%) và năm 2010 là gần 80.000 tỷ đồng (tăng 38,7%). Số thu năm 2010 gấp gần 3 lần số thu năm 2005 và gấp gần 6 lần số thu năm 2001[7]. Do vậy, việc kiến nghị giảm mức thuế suất thuế TNDN từ 25% xuống 20 - 23% trong tình hình hiện nay vẫn có thể kỳ vọng tăng thu cho NSNN trong tương lai.

Chính sách ưu đãi thuế: Vấn đề quy định miễn giảm đối với đơn vị mới thành lập đã bị một số chủ thể kinh doanh lợi dụng. Khi thời hạn hưởng chế độ miễn giảm thuế kết thúc, họ chuyển sang kê khai không có lãi hoặc thành lập doanh nghiệp mới. Luật thuế TNDN 2008 mặc dù có quy định không áp dụng miễn giảm thuế đối với các cơ sở sáp nhập, chia tách, chuyển đổi hình thức hoạt động nhưng vẫn bị lách bằng hình thức thành lập mới.

Thuế TNDN có nhiều quy định khuyến khích, hỗ trợ thông qua chế độ miễn giảm, nhưng đồng thời cũng dùng biện pháp giảm thuế suất để ưu đãi đầu tư. Điều đó dẫn đến tình trạng phức tạp, chồng lấn giữa chế độ miễn giảm và chế độ ưu đãi bằng thuế suất. Quy định như vậy vừa gây khó khăn cho việc áp dụng, vừa làm giảm hiệu quả thu ngân sách. Ngoài ra, ưu đãi và miễn, giảm thuế TNDN được quy định trong nhiều văn bản như Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng dẫn nên có sự trùng lắp và không nhất quán trong việc thực hiện chính sách điều tiết.

Vì vậy, cần phải có sự thống nhất chế độ miễn giảm thuế bằng cách chỉ quy định chế độ miễn giảm trong Luật thuế TNDN. Ở các luật chuyên ngành khác như Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước chỉ nên ghi nguyên tắc ưu đãi, hoặc chỉ đơn giản là danh mục các ngành nghề cần ưu đãi. Loại bỏ quan điểm như lâu nay là nếu đầu tư bị giảm sút, hoặc khi ban hành luật chuyên ngành lại có quy định ưu đãi riêng. Điều đó làm mất đi ý nghĩa của chế độ miễn giảm, mục đích điều tiết của thuế TNDN và cào bằng ưu đãi. Do vậy, cần rà soát lại văn bản luật thuế TNDN hoặc những luật chuyên ngành liên quan để loại bỏ những nội dung trùng lắp này, đảm bảo sự thống nhất về mặt hình thức và logic hơn về mặt nội dung.

Mặt khác, chúng ta cần cân nhắc và chọn lựa nội dung miễn giảm thuế TNDN. Các nước Đông Nam Á (Indonesia, Malaysia, Thái Lan) đã chứng minh rằng việc điều tiết hoạt động đầu tư thông qua chế độ miễn giảm là rất khó khăn và hạn chế, vì thực tế miễn giảm chỉ có ý nghĩa khi có thu nhập[8]. Do đó, miễn giảm là yếu tố hấp dẫn nhưng không phải là yếu tố quyết định đầu tư. Như vậy, thay vì hỗ trợ các doanh nghiệp mới thành lập bằng biện pháp miễn giảm thuế, ta nên chuyển sang biện pháp hỗ trợ tài chính khác. Ngoài ra, cần có sự phối hợp giữa cơ quan chức năng đặc biệt là cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế trong việc kiểm soát các doanh nghiệp mới thành lập, tránh tình trạng lợi dụng quy định miễn thuế cho doanh nghiệp mới thành lập, hoặc thành lập ở những vùng kinh tế ưu đãi nhưng thực tế mọi hoạt động lại diễn ra trên địa bàn các địa phương khác để trốn tránh thuế.

Xác định chi phí khấu trừ để tính TNCT: Căn cứ xác định chi phí là điểm dễ bị lợi dụng để tránh thuế hay ảnh hưởng đến nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp. Hoàn thiện nội dung pháp luật về xác định chi phí tính thu nhập phải giải quyết được mối quan hệ giữa nội dung kinh tế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động thu ngân sách nhà nước. Hiện nay nhà nước quản lý các khoản chi bằng hình thức khống chế mức chi. Điều này dễ trở nên chủ quan và mang tính áp đặt, không thể áp dụng linh hoạt giữa các ngành nghề khác nhau (như chi phí tiếp thị, quảng cáo). Nếu quy định chi tiết thì gây phức tạp, không tránh khỏi bất hợp lý. Vì vậy, thay vì đưa ra mức khống chế, chúng ta nên đưa ra nguyên tắc nhất định phù hợp với mỗi loại chi phí. Bất kỳ chủ thể kinh doanh nào cũng muốn tìm lợi nhuận, muốn đánh giá được hiệu quả kinh doanh thì phải phản ánh trung thực trên báo cáo tài chính. Như vậy muốn biết khoản chi của doanh nghiệp có là hiện thực hay không có thể căn cứ vào sổ sách, chứng từ kế toán. Để làm được điều này trong thời điểm hiện nay, nên áp dụng các biện pháp sau đây:(i)tăng mức độ xử phạt để đủ sức răn đe đối với hành vi vi phạm về thuế; (ii) tăng cường quản lý số tiền mua bán được thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng. Muốn vậy phải có cơ chế khuyến khích, ràng buộc các chủ thể mở và thanh toán qua ngân hàng (mới được quyết toán thuế, hoàn thuế, nhận tiền…); (iii) áp dụng thống nhất phương pháp tính thuế, tiến tới không còn hình thức khoán thuế để tránh trường hợp một số hóa đơn chứng từ của chủ thể kinh doanh áp dụng hình thức khoán thuế không cần sử dụng và sẽ chuyển cho đối tượng nộp thuế theo phương pháp thông thường dùng để kê khai chi phí; (iv) cần có cơ chế khuyến khích người mua hàng là người tiêu dùng nhận hóa đơn mua hàng. Có ý kiến nên mở số trúng thưởng trên số seri của tờ hóa đơn. Đây có thể xem là một cách khuyến khích nhưng không giải quyết được căn nguyên của vấn đề. Các quy định nghĩa vụ thuế phải có cơ chế tác động tiêu cực đến lợi ích vật chất của người tiêu dùng nếu họ không lấy hóa đơn mua hàng. Có như thế, người tiêu dùng mới nhận thức được sự cần thiết của việc tập hợp hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ. Ở các nước phát triển, hóa đơn chứng từ là cơ sở tính chi phí sinh hoạt, tiêu dùng được chước giảm khi tính thuế thu nhập cá nhân. Vì vậy, nên xem xét đưa quy định này vào nội dung của Luật Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; (v) cần nghiên cứu đưa thêm một số khoản lỗ và chi phí vào danh mục chi phí được khấu trừ để bảo vệ quyền lợi của các chủ thể nộp thuế: như chi phí thu tiền phạt, chi phí mua bán chứng khoán, chi phí cho hoạt động liên doanh, chi phí mua bán ngoại tệ, lỗ do chuyển nhượng tài sản cố định …/.


[1]Trong bài viết này, tác giả có sử dụng một số dữ liệu trong Báo cáo thực tập tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Đức Phú Quý (K09502 Trường Đại học Kinh tế - Luật).


[1] Khoản 1 Điều 10 Luật Thuế TNDN 2003 quy định: “Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với cơ sở kinh doanh là 28%”.

[2] Bộ Tài chính, “Dự thảo Báo cáo kinh nghiệm cải cách chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp của một số nước trên thế giới”, tháng 11/2012.

[3] Xem thêm: Bộ Tài chính, “Thông tin báo chí về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN”, Hà Nội, 13/12/2012.

[4] Xem thêm: Bộ Tài chính, “Báo cáo tổng kết đánh giá tình hình thực hiện Luật Quản lý thuế”, Hà Nội, 27/02/2012.

[5] Xem thêm: Bộ Tài chính, “Thông tin báo chí về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN”, Hà Nội, 13/12/2012.

[6] Khoản 6 Điều 1 Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN.

[7] Xem thêm: Bộ Tài chính, “Báo cáo tổng kết đánh giá tình hình thực hiện Luật Quản lý thuế”, Hà Nội, 27/02/2012.

[8] Phan Thị Thành Dương, “Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật thuế TNDN”, Tạp chí Khoa học pháp lý (Trường ĐH Luật TP. HCM), tháng 12/2012.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 8(240), tháng 4/2013)