Học tài thi phận là thành ngữ hay tục ngữ

Sau khi Báo điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải bài viết “Dạy thành ngữ, tục ngữ cho học sinh tiểu học” ngày 14/10/2019, nhiều bạn đọc, đồng nghiệp liên lạc bày tỏ ý muốn được biết thêm về thành ngữ, tục ngữ: chúng khác nhau cơ bản chỗ nào, làm sao phân biệt chúng nhanh nhất?

Quả thực, nhận diện và phân biệt rạch ròi, nhanh chóng thành ngữ với tục ngữ cũng không phải là việc dễ dàng gì, chưa kể, hiện tại chưa phải tất cả mọi người đều thống nhất với khái niệm về hai loại trên.

Có lẽ vì thế, cho nên nhiều nhà nghiên cứu khi soạn sách, để tránh tình trạng bất đồng trong phân biệt 2 khái niệm, đã nhập chung chúng thành một nhóm “thành ngữ - tục ngữ”, mặc dù chúng không hề có mối quan hệ mật thiết với nhau.

Sách về thành ngữ - tục ngữ [Ảnh: tác giả cung cấp].

Trong nhà trường, thành ngữ và tục ngữ được giới thiệu cho học sinh từ cấp tiểu học, lên cấp trung học cơ sở, cả hai đều được dạy thành bài riêng biệt, cụ thể trong chương trình lớp 7, nhưng ở 2 thời điểm và thuộc 2 phân môn khác nhau.

Sách Ngữ văn 7 - Tập 1, trang 144 [Ảnh: tác giả cung cấp].

Thành ngữ được dạy ở tuần 12, trong phân môn “Tiếng Việt” như một loại đơn vị từ vựng, còn tục ngữ thì được dạy ở tuần 18, 19 trong phân môn Văn học với tư cách là những văn bản tác phẩm văn học dân gian.

Phần ghi nhớ trong sách giáo khoa Ngữ văn 7 ghi rõ khái niệm về hai loại trên như sau:

“Thành ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh.

Nghĩa của thành ngữ có thể bắt nguồn trực tiếp từ nghĩa đen của các từ tạo nên nó nhưng thường thông qua một số phép chuyển nghĩa như ẩn dụ, so sánh...”. [1, tr.144]

 “Nhìn chung, tục ngữ có những đặc điểm về hình thức:

- Ngắn gọn;

- Thường có vần, nhất là vần lưng;

- Các vế thường đối xứng nhau cả về hình thức, cả về nội dung;

- Lập luận chặt chẽ, giàu hình ảnh”. [2, tr.5]

Lên cấp trung học phổ thông, trong bài “Khái quát văn học dân gian Việt Nam” ở chương trình lớp 10, riêng tục ngữ được xếp theo thứ tự ở vị trí thứ 7 trong 12 thể loại của văn học dân gian, còn thành ngữ thì không hề thấy. [3, tr.18]

Như vậy, trong sách giáo khoa, việc giải thích để giúp cho các em phân biệt cho thật rõ thành ngữ, tục ngữ chưa được chú trọng, chỉ dừng ở mức độ cung cấp khái niệm của từng loại một cách khái quát chứ chưa đưa ra sự đối sánh, phân biệt thật rạch ròi, có lẽ do dung lượng, thời lượng của từng bài học bị hạn chế, không cho phép nói dài hơn. 

Điểm chung giữa thành ngữ và tục ngữ dễ nhận thấy nhất, là chúng có phần giống nhau về hình thức cấu tạo: đều được cấu tạo từ cùng một loại đơn vị là “từ”.

Chúng đều là những tổ hợp từ cố định, kết hợp với nhau theo một cấu trúc chặt chẽ, có thể có vần điệu và đối xứng [về số lượng tiếng].


Ca dao tục ngữ Việt Nam – một cuốn sách làm ẩu

Có lẽ do tên gọi của hai loại này có vẻ từa tựa giống nhau, thành ngữ - tục ngữ cùng chứa từ tố “ngữ”, nên thoạt nhìn dễ nhầm lẫn, tưởng chúng gần gũi nhau hoặc có quan hệ họ hàng với nhau.

Thế nhưng, thực ra chúng là hai loại đơn vị khác xa nhau, thuộc hai ngành nghiên cứu riêng biệt là ngôn ngữ và văn học, hoàn toàn khác nhau về phân loại, nội dung ngữ nghĩa và chức năng sử dụng. Cho nên không thể có một câu vừa là tục ngữ vừa là thành ngữ được.

Nhận xét một cách thỏa đáng thì mối quan hệ giữa chúng khá mờ nhạt chứ không hề khăng khít, mật thiết dễ dẫn đến tình trạng nhầm lẫn, khó phân biệt như nhiều người đang lầm tưởng.

Theo định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, “thành ngữ” là “tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó”. [4, tr.882]

Còn “tục ngữ” là “câu ngắn gọn, thường có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống và đạo đức thực tiễn của nhân dân”. [4, tr.1026]

Theo thuật ngữ ngôn ngữ học, tục ngữ là một câu hoàn chỉnh [cho nên viết hoa đầu câu], diễn đạt trọn vẹn một ý có nội dung là một nhận xét về kinh nghiệm đời sống, ví dụ: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, “Ăn vóc, học hay”...

Còn thành ngữ chỉ là một cụm từ cố định [cho nên không viết hoa từ đầu cụm], nêu ra một khái niệm một cách có hình ảnh, chẳng hạn: “đẹp như tiên”, “mẹ tròn con vuông”, “trăm năm hạnh phúc” ...

Có nhiều cách để phân biệt sự khác nhau giữa tục ngữ và thành ngữ, phổ thông nhất chúng ta có thể tạm căn cứ vào hai phương diện sau:


Ngữ liệu sách giáo khoa... cần lựa chọn phù hợp

1. Về hình thức: Tuy cả hai loại đều có vần hoặc không có vần, có nhịp điệu hoặc không có nhịp điệu, nhưng tục ngữ thường là câu nói ngắn gọn, còn thành ngữ chỉ là cụm từ cố định.

Tục ngữ là một câu hoàn chỉnh, còn thành ngữ chưa thành câu, mới chỉ là cụm từ [cho nên chỉ nên nói “câu tục ngữ”, chứ nói “câu thành ngữ” là chưa đúng]

2. Về nội dung: Tục ngữ diễn đạt trọn vẹn một ý, có thể là một nhận xét, một sự đánh giá, một kinh nghiệm, một tâm lý, một phong tục tập quán, một chân lý quen thuộc, nhằm giáo dục khuyên răn, hướng dẫn con người trong ứng xử, cuộc sống; còn thành ngữ, chưa diễn đạt một ý trọn vẹn, chỉ đề cập đến một khái niệm.

Như vậy, thành ngữ là một đơn vị thuộc lĩnh vực ngôn ngữ, còn tục ngữ thuộc lĩnh vực văn học. Tục ngữ thường dùng độc lập, kiểu như “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, “Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”...

Còn thành ngữ chỉ là một vế câu nên thường dùng để tạo câu, chêm xen vào trong câu nói, chẳng hạn: “Chúc hai bạn sống với nhau đến “răng long đầu bạc”, “Chúc chị mẹ tròn con vuông”, “Bạn đừng nên “đứng núi này trông núi nọ”...

Mặc dù thành ngữ và tục ngữ đều chứa đựng và phản ánh tri thức của nhân dân về các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, nhưng chúng khác nhau ở chỗ những tri thức ấy khi được rút lại thành những khái niệm thì tạo nên thành ngữ, còn khi được trình bày thành những nhận xét, đánh giá thì tạo nên tục ngữ.

Qua sự phân tích trên, ta có thể khẳng định sự khác nhau giữa thành ngữ và tục ngữ về cơ bản là sự khác nhau giữa thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ thuộc từ vựng - đối tượng nghiên cứu của khoa ngôn ngữ học [có thể tìm thấy trong từ điển tiếng Việt], khác xa tục ngữ là một đơn vị thuộc thể loại văn học - đối tượng của nghiên cứu văn học [không phải là đơn vị từ vựng, không có mặt trong từ điển tiếng Việt].

Suy cho cùng, hiểu biết nội dung ý nghĩa và phân biệt được những đơn vị thành ngữ, tục ngữ để sử dụng phù hợp với ngữ cảnh, đạt hiệu quả cao, cũng chính là trân trọng tiếng mẹ đẻ - một biểu hiện tôn trọng nét đẹp truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc.

Tài liệu tham khảo:

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo [2007], Ngữ văn 7, Tập 1, NXB Giáo Dục.

[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo [2007], Ngữ văn 7, Tập 2, NXB Giáo Dục.

[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo [2010], Ngữ văn 10, Tập 1, NXB Giáo Dục.

[4] Hoàng Phê chủ biên [1995], Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

Đỗ Thành Dương

* Từ đang tìm kiếm [định nghĩa từ, giải thích từ]: học tài thi phận

Sự khác biệt giữa các kỳ thi xưa và nay

     Học tài thi phận là kinh nghiệm được ông cha đúc rút qua những kỳ thi ngày xưa. Ngày nay, học tài thi phận được chúng ta gắn cho kỳ thi vào các trường đại học được tổ chức hàng năm.

     Để biết việc sử dụng này có phù hợp hay không, chúng ta hãy xem sự khác biệt giữa các kỳ thi ngày xưa và ngày nay:

     - Về mục đích mở kỳ thi: Các kỳ thi ngày nay là để các trường đại học tuyển sinh để dạy còn ngày xưa là để triều đình tuyển người tài để giao việc quốc gia.

     - Về mục đích dự thi: Thí sinh ngày nay dự thi để học ngành nghề muốn theo trong tương lai khi được trúng tuyển. Còn sĩ tử ngày xưa đã xác định con đường khoa bảng ngay từ khi bắt đầu và kết quả của kỳ thi là thước đo mức độ trưởng thành của họ.

     - Sự khác biệt trước và sau kỳ thi: Sự khác biệt của thí sinh ngày nay sau kỳ thi đại học là sự chuyển biến từ việc tích lũy kiến thức cơ bản, phổ thông chuyển sang tích lũy kiến thức chuyên môn theo lĩnh vực được lựa chọn. Còn sĩ tử ngày xưa thì chuyển từ quá trình học tập tích lũy kiến thức sang việc ứng dụng vào xây dựng cuộc sống tùy theo kết quả đạt được trong kỳ thi.

     -Sự khác biệt về thời điểm tham gia kỳ thi: Trong khi kỳ thi ngày nay là điểm mốc đánh dấu cho khởi đầu còn kỳ thi ngày xưa lại là điểm cuối của một quá trình với cùng mục đích là để xây dựng cuộc sống dựa trên kiến thức tích lũy được trong quá trình đó của người học.

       Như vậy kỳ thi được nói tới trong câu tục ngữ học tài thi phận là kỳ thi để làm việc, để xây dựng cuộc sống và sĩ tử là những người tài giỏi đã đạt ngưỡng phát triển cao nhất của bản thân trong quá trình học tập. Còn kỳ thi ngày nay là kỳ thi của những học sinh để bắt đầu một quá trình tích lũy kiến thức theo lĩnh vực nào đó trong cuộc sống.

     Sự khác biệt hoàn toàn giữa xưa và nay khiến cho việc dùng câu học tài thi phận cho những kỳ thi đại học ngày nay trở nên không còn phù hợp nữa. Và chính điều này đã làm nảy sinh hoài nghi về kinh nghiệm mà ông cha muốn truyền đạt lại qua câu tục ngữ trên do việc sử dụng nó lại không thể lý giải được kết quả của các kỳ thi ngày nay. Để hiểu được học tài thi phận là như thế nào ta phải xem nó trong kỳ thi ngày xưa.

Bản chất của học tài thi phận

     Các sĩ tử ngày xưa có sự khác biệt rất lớn giữa trước và sau kỳ thi. Từ một nho sinh áo vải chăm chỉ đèn sách trở thành một vị quan làm việc nước, việc dân. Sự biến đổi này được ví như cá chép hóa rồng và mỗi kỳ thi lại được ví như vượt vũ môn.

     Sự khác biệt này là kết quả của quá trình biến đổi của kiến thức diễn ra trong kỳ thi. Các đạo lý học được từ sách vở và thực tế trải qua từng bước sát hạch mà chuyển dần sang ứng dụng để xây dựng cuộc sống. Sĩ tử làm bài thi thể hiện tài học của mình còn người chấm thi lại tìm cuộc sống được xây dựng trong đó. Đây là kỳ thi để xây dựng cuộc sống chứ không phải là kỳ thi để thể hiện sự hiểu biết. Chính vì không nhận ra sự khác biệt trong quan điểm được sử dụng để đánh giá kiến thức được thể hiện trong bài thi đã khiến cho kết quả của những sĩ tử không giống như những đánh giá trước đó trong quá trình học tập. Tùy theo việc sử dụng tài năng để xây dựng cuộc sống mà có số phận khác nhau. Học tài thi phận là đây. Khi không hiểu được điều này sẽ khiến cho kết quả đạt được của những sĩ tử tạo ra sự bất công và gợi lên cảm xúc bi quan cũng như cảm giác bất lực khi mọi thứ đã được an bài từ trước.

Lời khuyên của cổ nhân cho những người không đỗ

     Những cao nhân thời xưa chỉ cần xem thái độ, lời nói hay nhìn nét chữ là biết được kết quả thi cử cũng như thành tựu của một người. Họ không khuyên học cho chăm, không khuyên tìm thầy giỏi. Chỉ để lại một lời khuyên là sửa tâm. Và trong các câu chuyện được lưu truyền lại từ xa xưa, có biết bao người đã thay đổi được số phận của mình khi làm theo lời khuyên này.

     Sửa tâm trong lời khuyên của người xưa thực ra là sửa cuộc sống mà ta muốn xây dựng. Quá trình đó chính là một cuộc thi lâu dài mà ta tự đề ra để tìm tòi, học tập rồi tự mình trải nghiệm mà lĩnh hội những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Đó cũng chính là quá trình biến đổi bản chất khiến cho cá chép vượt lên mà từ từ chuyển hóa sang hình hài một con rồng. Tùy theo thành tựu đạt được trong kỳ thi này mà mỗi người lại có số phận khác nhau. Dụng tâm học thì thành tài, dụng tâm làm thì ra phận.

Ý nghĩa ngày nay của câu học tài thi phận

      Ngày nay, các kỳ thi giống như hồi xưa không còn khiến cho việc sử dụng câu tục ngữ học tài thi phận cho các trường hợp đã không đúng nữa. Khi so sánh với kỳ thi ngày xưa, tự nhiên sẽ thấy kỳ thi đại học chẳng nói lên được điều gì. Nó chỉ là khởi đầu cho việc chuyển đổi mục đích học tập nhằm lựa chọn kiến thức để xây dựng cuộc sống trong tương lai. Việc thi đỗ hay trượt chẳng quá quan trọng tới mức quyết định cuộc sống của một người.

      Khi loại đi sự khác biệt của các kỳ thi để hướng đến xây dựng cuộc sống thì câu tục ngữ trên vẫn còn nguyên giá trị. Đồng thời, lời khuyên của người xưa giúp cho ta thấy được mối quan hệ giữa tài năng và số phận để có những lựa chọn của riêng mình. Đó là cùng một nguyên nhân ban đầu là kiến thức nhưng được sử dụng cho các mục đích khác nhau sẽ tạo ra kết quả là những số phận khác nhau tùy theo lựa chọn của mình. Lúc này, câu tục ngữ học tài thi phận chẳng những không gây ra sự lo lắng, bi quan mà nó lại trở thành động lực tiếp thêm tự tin cho những nỗ lực trong việc xây dựng cuộc sống.    

Video liên quan

Chủ Đề