Is lm là gì

Để bắt đầu, chúng ta hãy trở lại phương trình kế toán đã nghiên cứu trong kinh tế học đại cương và được mô tả ở các bài trước:

Y = C + I + G + NX

Trong đó Y [GDP] là sản xuất hay thu nhập, được gọi là tổng cung; vế trái là tổng cầu với các thành phần là tiêu dùng tư nhân [C], đầu tư tư nhân [I], chi tiêu của chính phủ [G] và cán cân thương mại hay xuất khẩu ròng [NX].

Điểm khác nhau cơ bản trong bài này so với các bài trước là phương trình trên không được xem là phương trình kế toán mà bây giờ nó trở thành điều kiện cân bằng tổng quát giữa tổng cung và tổng cầu trên thị trường hàng hóa và dịch vụ. Vế trái là tổng cung hàng hóa và

Thu nhập ảnh hưởng cầu tiền tệ

Lãi suất ảnh hưởng tiêu dùng và đầu tư

Thị trường hàng

hóa và dịch vụ

Thị trường

tiền tệ

88

dịch vụ; vế phải là tổng cầu hàng hóa và dịch vụ. Về dài hạn, GDP được xác định từ khả năng sản xuất của nền kinh tế, tức là từ tài nguyên thiên nhiên, vốn cố định, lao động, tình trạng công nghệ, trình độ quản lý và năng lực hội nhập kinh tế quốc tế. Nhân tố giá cả sẽ được đưa vào để phản ánh cung danh nghĩa của tiền tệ.

Tiếp theo, chúng ta giả thiết giá cả cố định, trong khi sản xuất được xác định bởi nhu cầu. Đây là giả thiết cơ bản của lý thuyết hay mô hình Keynes. Quan hệ nhân quả đi từ tổng cầu đến tổng cung. Toàn bộ các lập luận trong giả thuyết Keynes dựa trên ý tưởng người sản xuất cung cấp đủ lượng hàng hóa và dịch vụ theo nhu cầu với mặt bằng giá hiện tại [không đổi]. Ở tầm ngắn hạn, mặt bằng giá chung không thay đổi khi cầu thay đổi; tổng cung sẽ bị động thay đổi để đáp ứng đủ tổng cầu.

Câu hỏi đạt ra là giả thuyết Keynes có thể được coi là hợp lý và chấp nhận được không ? Có nhiều lý do khác cho phép tin tưởng ở giả thiết này. Trong thực tế, chúng ta thường quan sát thấy quy mô biến động của giá thường thấp hơn quy mô biến động của sản xuất. Mặt khác, về mặt thực nghiệm, các điều tra thống kê cho thấy trong điều kiện lạm phát thấp hoặc ôn hòa, các doanh nghiệp thường giữ ổn định giá bán trong một khoảng thời gian khá dài, ở nhiều nước có thể là 18 tháng đến 2 năm. Do vậy, các nhà kinh tế thường nói về hiện tượng cứng nhắc hay kém linh hoạt của giá cả.

Theo các nhà kinh tế thuộc trường phái Keynes, có ít nhất ba lý do sau đây để giá cả ổn định ngắn hạn. Thứ nhất, các chi phí liên quan đến thay đổi giá bán khá lớn, được gọi là chi phí thực đơn, bao gồm chi phí quảng cáo, chi phí in ấn lại các tờ thông báo giá và phân phát chúng, chi phí thay đổi niêm yết giá trong các siêu thị, cửa hàng lớn... ; do đó không thể thay đổi giá liên tục được. Thứ hai là quan hệ giữa người bán và khách hàng. Để giữ lòng tin với khách hàng, doanh nghiệp phải giữ giá ổn định trong một khoảng thời gian nhất định; điều này xảy ra ngay cả khi có những biến động khá lớn của cầu và mặt bằng giá cả. Thực tế đã chứng minh, hầu hết các doanh nghiệp đều giữ giá ổn định ngắn hạn trong những thời kỳ kinh tế có nhiều biến động; họ chỉ thay đổi khi tình hình kinh tế tế vĩ mô đã thay đổi về chất và khi sức chịu đựng của họ đã đến mức giới hạn. Thứ ba là vai trò của các hợp đồng. Nhiều doanh nghiệp đã ký kết các hợp đồng mua bán ngắn và trung hạn với một giá định trước nên rất khó khăn nếu muốn đàm phán thay đổi lại giá.

b] Giao điểm Keynes trong nền kinh tế đóng

Mục tiêu tiếp theo ở đây là giải thích quá trình sản xuất cân bằng với tổng cầu trên thị trường hàng hóa và dịch vụ. Trong các bài trước, chúng ta đã xây dựng các hàm cầu cho các thành phần của tổng cầu, cụ thể là:

- Hàm tiêu dùng: C = C[Yd] = C[Y-T]

Trong đó Yd là thu nhập sẵn có của dân cư, bằng tổng thu nhập của nền kinh tế [Y] trừ đi thu nhập của chính phủ [T]. Thuế T được coi là biến ngoại sinh do chính phủ quyết định.

- Hàm đầu tư: I = I[ r ]

89

Đồng thời Keynes cũng giải thiết chi tiêu chính phủ [G] là biến ngoại sinh do chính phủ kiểm soát. Theo giả thuyết Keynes, cầu sẽ xác định sản xuất, tức là sản xuất được điều chỉnh để thực hiện cân bằng trên thị trường hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên mô hình này vẫn có quan hệ ngược từ cung tới cầu thông qua các thành phần C, I. Khi đó chúng ta có phương trình xác định tổng nhu cầu hàng hóa và dịch vụ ngắn hạn dự kiến hay nhu cầu chi tiêu xã hội ngắn hạn dự kiến [E] làm cơ sở để các doanh nghiệp bố trí phương án sản xuất kinh doanh phù hợp, như sau:

E = C + I + G

Thay các phương trình trên vào E, chúng ta có: E = C[Y-T] + I[ r ] + G

Đây là hàm tăng theo Y vì các lý thuyết và thực tiễn đều khẳng định thu nhập tăng lên sẽ làm tiêu dùng tăng lên.

Độ dốc của đường này chính là xu hướng tiêu dùng cận biên [mpc = ∆C/∆Y], tức là khi thu nhập tăng thêm 1 đồng thì tiêu dùng sẽ tăng lên mpc đồng.

Vì giá cố định, tỷ lệ lạm phát bằng 0 nên lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực [i = r]. Do đó trong phương trình trên, có thể thay lãi suất thực [r] bằng lãi suất danh nghĩa [i].

Khi nền kinh tế ở trạng thái cân bằng thì thu nhập = chi tiêu, tức là: Y = E Nghĩa là: chi tiêu thực tế [GDP thực] = Chi tiêu dự kiến [kế hoạch]

Hình 5.2 mô tả phản ứng của tổng cầu mong muốn trước các biến động của sản xuất. Đường cầu mong muốn có độ nghiêng dương. Khi GDP [thu nhập] tăng lên, tiêu dùng và đầu tư cũng sẽ tăng lên; do vậy tổng cầu cũng sẽ tăng. Vì sản xuất luôn luôn đáp ứng đủ cầu nên nói chung, cầu sẽ tăng theo GDP nhưng với tỷ lệ thấp hơn. Do đó độ nghiêng của đường tổng cầu thấp hơn đường thẳng 45° đi qua gốc tọa độ. Đường 45° là đường cân bằng cung cầu dài hạn.

90

- Khi bổ sung đường chi tiêu dự kiến E nêu trên, hai đường sẽ cắt nhau. Giao điểm cắt nhau tại A được gọi là giao điểm Keynes.

 Giao điểm Keynes là phương thức xác định thu nhập Y tại mỗi mức đầu tư I dự kiến với chính sách tài khóa [thuế T và chi tiêu chính phủ G] định trước. Khi một trong các nhân tố này thay đổi thì thu nhập sẽ thay đổi.

A là điểm biểu thị trạng thái cân bằng vì tại đó các doanh nghiệp bán được lượng hàng mà họ muốn bán, trong khi mọi người tiêu dùng đều mua được lượng hàng mình cần mua. Khi đó cả 2 bên đều không thay đổi hành vi của mình.

Trường hợp mất cân bằng: Cơ chế cân bằng tự động được thể hiện qua hình 5.2 như sau. Ví dụ điều gì sẽ xảy ra nếu tổng cầu không cân bằng với tổng cung sẵn có ? Trong trường hợp cầu vượt cung, các nhà sản xuất sẽ mở kho dự trữ các hàng hóa và dịch vụ đã sản xuất ở kỳ trước nhưng chưa tiêu thụ được để đáp ứng cầu. Bên cạnh đó, họ còn có thể giảm mức tích lũy để đáp ứng với cầu. Nếu cung vẫn không đủ, họ sẽ mở rộng sản xuất để đáp ứng đủ cho cầu. Lưu ý trong trường hợp sản xuất cao hơn cầu thì họ sẽ tăng tích lũy hàng tồn kho để có thể sẵn sàng đối phó với trường hợp cầu bất ngờ tăng lên nhanh. Dây truyền quan hệ phụ thuộc như sau

Tại Yb: Yb < Eb; cung không đáp ứng đủ cầu  các nhà sản xuất sẽ mở kho dự trữ  tình trạng giảm tồn kho ngoài dự định  DN tăng sản lượng để bù đắp số dự trữ giảm  thuê thêm công nhân  thu nhập và nhu cầu tăng Y, E tăng lên Y1.

Tại mức sản xuất Ya: Ya > Ea; cung vượt cầu  tình trạng tăng tồn kho ngoài dự định  DN sẽ giảm sản lượng  thất nghiệp tăng  thu nhập giảm, nhu cầu giảm Y, E đều giảm về Y1

c]Xây dựng đường IS

[i] Từ sơ đồ giao điểm Keynes của thị trường HH&DV

Để hợp nhất các quan hệ giữa khu vực kinh tế thực và khu vực kinh tế tiền tệ, bước đầu tiên phải làm là phân tích ảnh hưởng của lãi suất [của khu vực tiền tệ] tới các biến kinh tế vĩ mô, đặc biệt là thu nhập, vì theo Keynes, lãi suất là trung gian nối hai khu vực [tiền tệ  lãi suất  đầu tư].

Giao điểm Keynes cho thấy các nhân tố ảnh hưởng tới thu nhập tại mỗi mức đầu tư định trước [Ī].

Tuy nhiên trên thực tế, đầu tư dự kiến là một đại lượng thay đổi. Đầu tư dự kiến phụ thuộc vào lãi suất [thực] r:

I = I[r] với I’

Chủ Đề