Khi nước Nga tham chiến trong chiến tranh The giới thứ nhất quân đội của Nga như thế nào

Mục lục

Mục đích

Đây là một cuộc chiến để lập lại trật tự thế giới mới, nó làm sụp đổ 4 đế chế hùng mạnh của châu Âu và thế giới lúc đó là Đế quốc Nga, Đế chế Đức, Đế quốc Áo-Hung và Đế quốc Ottoman, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của châu Âu và thế giới. Tuy nhiên mặc dù là cuộc chiến đẫm máu và khốc liệt như vậy nhưng cuộc chiến này đã không giải quyết được các mâu thuẫn gốc rễ và "thế giới mới" mà nó tạo ra còn đặt châu Âu và thế giới trước các vấn đề và mâu thuẫn khác còn trầm trọng hơn như phát sinh nhà nước theo Chủ nghĩa Cộng sản tại Nga, Chủ nghĩa quân phiệt và Chủ nghĩa phát xít tại Ý, Đức và Nhật, sự chia cắt, xâm phạm quyền tự quyết của các dân tộc... Những vấn đề đó sẽ dẫn đến bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ hai. Đó là lý do một số nhà nghiên cứu cho rằng Chiến tranh thế giới thứ hai chỉ là sự nối tiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất sau gần 20 năm tạm nghỉ lấy sức.

Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra giữa 2 khối liên minh quân sự được hình thành sau thế kỷ XIX: 1 bên là liên minh 3 đế quốc Anh - Pháp - Nga, hay được gọi là khối Hiệp ước Entente ba bên [trong tiếng Pháp entente có nghĩa là sự đồng thuận, hiệp ước] sau này còn thêm Hoa Kỳ và một số nước khác tham gia; bên kia là phe Liên minh Trung tâm [Central Powers, hay còn gọi là Liên minh 3 nước] gồm Đức, Áo – Hung và Ottoman.

Tuy nhiên sau đó Ý chiến đấu bên phía Entente 3 bên nhưng Liên minh Trung tâm lại có thêm đồng minh là Đế quốc Ottoman và Bulgaria. Trong khi vai trò của các đồng minh chính trong Entente 3 bên khá đồng đều trong việc gánh vác sức nặng chiến tranh thì ở bên phía Liên minh Trung tâm vai trò các đồng minh chính là mờ nhạt hơn, chỉ Đức có vai trò trụ cột vì thực tế mâu thuẫn chủ yếu gây nên chiến tranh là gắn liền với tham vọng chính trị kinh tế của đế quốc Đức lúc đó. Lúc bấy giờ, 2 cường quốc quân sự hùng mạnh nhất của châu Âu là Đức và Anh.[26]

Quy mô, tính chất

Các nước tham chiến tại châu Âu. Hình dáng tiểu bang Illinois nằm ở bên trái để có thể so sánh diện tích.
Khối Trung tâm [Central Powers]
Khối Hiệp ước [Entente Powers]
Các nước trung lập

Về khía cạnh chính trị – quân sự đây là lần đầu tiên thế giới biết đến 1 kiểu chiến tranh tổng lực, chiến tranh toàn diện. Chiến tranh diễn ra không những ác liệt trên bộ, trên không, trên biển mà các bên thực hiện bao vây bóp nghẹt kinh tế của nhau, đánh vào ý chí và bản lĩnh chịu đựng của dân tộc, thử thách tiềm lực kinh tế và sức mạnh tinh thần của đối phương. Các cường quốc như Đế quốc Nga, Đế quốc Áo-Hung và Đế quốc Đức đã thất bại và sụp đổ dù quân đội của họ vẫn còn hiện hữu [đặc biệt quân đội Đức vẫn còn đang trên đất đối phương, và quân địch còn chưa xâm phạm tới lãnh thổ của họ]. Các nước này đã thua trận vì xã hội kiệt sức, không thể kham nổi chiến tranh – 1 kiểu chiến tranh tiêu hao với cường độ cực cao, khiến chính phủ của họ bị các lực lượng trong nước lật đổ.

Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra theo 1 kiểu chiến lược chiến tranh hiện đại. Trước đây châu Âu đã từng có các cuộc chiến theo liên minh nhiều nước như Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, Chiến tranh Kế vị Áo, Chiến tranh Bảy năm, Chiến tranh Napoléon, v.v... Nhưng những cuộc chiến đó có kết quả chiến tranh phụ thuộc vào 1 hoặc vài trận đánh lớn có tính quyết định diễn ra trong 1-2 ngày tại 1 điểm quyết chiến hoặc một vài chiến dịch trong vài tuần hoặc một vài tháng, các hoạt động chiến sự xen kẽ với hoà bình. Kết cục chiến tranh không triệt để: thua trận thì ký hoà ước nhượng bộ, chờ vài năm hồi phục tiềm lực rồi lại tham chiến tiếp [điển hình như các cuộc chiến thời Napoléon I]. Các cuộc chiến đó phụ thuộc rất nhiều, nếu không nói là phần lớn, vào tài thao lược của nhà cầm quân. Còn từ nay, kể từ Thế chiến I, lần đầu tiên nhân loại chứng kiến một kiểu chiến tranh lâu dài, quy mô, huỷ diệt. Chiến sự dàn trải trên khắp chiến trường, khắp cả châu lục. Vai trò cá nhân của thống soái trong chiến tranh bị hạn chế mà tiềm lực kinh tế và ý chí, sức mạnh tinh thần của quốc gia nổi lên là yếu tố quyết định.

Trên chiến trường về khía cạnh thuần tuý quân sự đây là một cuộc chiến tranh đã có các đặc trưng hiện đại: quân đội là quân đội đông đảo. Lần đầu tiên trên thế giới chiến tranh theo chiến thuật đội hình tản mác không còn các khối quân lực xếp hàng tấn công và phòng thủ theo đội hình ô vuông dày đặc rất đặc trưng của mọi cuộc chiến tranh trước đây. Cuộc chiến tranh này đặc trưng áp đảo bởi hình thức chiến tranh trận địa mà điển hình nhất là hệ thống chiến hào trở thành phương tiện phòng thủ chính yếu, thành quách pháo đài đã không còn vai trò phòng ngự quan trọng nữa. Các bên phòng thủ trong chiến hào với hệ thống ụ súng máy, dây thép gai, bãi mìn và trận địa pháo dày đặc với chiến tuyến ngăn đôi giữa 2 phía đối địch. Chiến tranh trận địa hay chiến tranh chiến hào ở thời kỳ đó thường có tính chất là rất khó tấn công và rất dễ phòng thủ nên chiến tranh có diễn biến chậm chạp ít năng động, ít có các chiến thắng quân sự dứt khoát. Kết cục chiến tranh phụ thuộc vào sự chịu đựng dẻo dai của các bên đối kháng đối với gánh nặng chiến tranh tiêu hao tổng lực.

Nguyên nhân, bản chất chiến tranh

Xem bài chính: Vụ ám sát thái tử Áo-Hung.

Sự việc Đại công tước Franz Ferdinand của Áo - Hung bị một phần tử dân tộc chủ nghĩa người Serbia tên là Gavrilo Princip ám sát tại Sarajevo vào ngày 28 tháng 6 năm 1914 được coi là khởi nguồn của cuộc thế chiến này, nhưng thực ra đó chỉ là "giọt nước tràn ly". Vụ ám sát thái tử Áo-Hung chỉ là cái cớ để các bên chính thức khai chiến sau một thời gian dài chạy đua vũ trang nhằm chuẩn bị chiến tranh. Chiến tranh là "phải nổ ra" do mâu thuẫn giữa các quốc gia ở châu Âu đã chín muồi, các bên tham chiến từ trước đó khá lâu đã có các mâu thuẫn đối kháng với nhau, và muốn triệt hạ nhau bằng quân sự để phân chia lại thế giới.

Nguyên nhân và bản chất của chiến tranh này là rất phức tạp, đa diện, nhưng có thể được tổng kết như sau:

Chủ nghĩa đế quốc và sự tranh giành thuộc địa

Lenin và những người Bolshevik, cùng một phần lớn những người xã hội chủ nghĩa của châu Âu phân tích có cơ sở rằng chiến tranh là mâu thuẫn của sự phát triển của các nước chủ nghĩa đế quốc cầm đầu ở châu Âu và chiến tranh có tính chất chiến tranh đế quốc: đó là cuộc chiến nhằm tranh giành, phân chia lại thuộc địa giữa các nước đế quốc, là cuộc chiến tranh phi nghĩa đối với tất cả các phe tham chiến.

Tranh biếm họa về các nước Anh, Đức, Nga, Pháp, và Nhật tranh nhau chiếm thuộc địa ở Trung Quốc. Trong bức tranh, vua nước Đức Wilhelm II [đội mũ chóp nhọn] tỏ thái độ căm ghét rõ ràng với nữ hoàng Anh Victoria

Theo phân tích của Lenin, nguyên nhân chiến tranh bắt nguồn ngay từ giữa thế kỷ XVI: ở thời điểm này, các nước châu Âu bắt đầu hình thành Chủ nghĩa tư bản. Để tìm kiếm tài nguyên và lợi nhuận, các nước thực dân châu Âu bắt đầu bành trướng lãnh thổ, đem quân xâm chiếm các nước châu Á, châu Phi để biến các nước này thành thuộc địa. Đến cuối thế kỷ XIX, về cơ bản thì tất cả châu Á, châu Phi đã bị biến thành thuộc địa. Nhưng sự phân chia thuộc địa giữa các nước châu Âu là rất không đồng đều. Anh-Pháp là 2 nước đã xâm chiếm thuộc địa từ khá sớm nên chiếm được rất nhiều thuộc địa, trong khi các nước châu Âu khác thì chiếm được ít hơn nhiều.

Đến cuối thế kỷ XIX, sự lớn mạnh của Đế quốc Đức sau Chiến tranh Pháp-Phổ đã đẩy mạnh những tham vọng chiếm lĩnh thuộc địa và chia lại thị trường thế giới của nước này. Đến đầu thế kỷ XX, Đế quốc Đức đã vượt qua Anh, Pháp để trở thành cường quốc công nghiệp đứng đầu châu Âu và đứng thứ 2 trên thế giới [sau Mỹ]. Nhưng trong cuộc chạy đua giành giật thuộc địa, Đức lại là nước chậm chân, bởi đến cuối thế kỷ XIX, hầu hết châu Á và châu Phi đã bị Anh, Pháp chiếm làm thuộc địa. Năm 1913, tổng diện tích các thuộc địa của Đức chỉ là 2,9 triệu km2, trong khi nước Anh có tới 34 triệu km2, Pháp có gần 13 triệu km2. Do quy mô thuộc địa không tương xứng với tiềm lực công nghiệp [ít thuộc địa thì tức là có ít tài nguyên và thị trường tiêu thụ], Đức là nước hiếu chiến nhất trong thời kỳ này. Ngoài ra, nước Đức chịu ảnh hưởng sâu sắc của truyền thống quân phiệt Phổ: đề cao chủng tộc Đức, tích cực truyền bá tinh thần kỷ luật quân đội, chạy đua vũ trang. Lenin đã tổng kết đặc trưng của nước Đức thời kỳ này là "Chủ nghĩa đế quốc quân phiệt, hiếu chiến".

Nhưng tham vọng của Đức gặp phải sự phản kháng của các nước "đế quốc già" là nước Anh, Pháp và Nga. Các "đế quốc già" này về cơ bản đã chiếm lĩnh gần hết những thuộc địa bao la khắp thế giới và muốn duy trì quyền thống trị của mình, không muốn "chia phần" cho những thế lực mới nổi như Đức. Đế quốc Áo–Hung và Đế quốc Ottoman từ lâu đã suy yếu, nhưng vẫn muốn có đủ "tư cách" và vai trò để tranh giành ảnh hưởng trong khu vực Trung Âu, Balkan và Kavkaz. Các cường quốc khác can thiệp vào khu vực đó để tranh giành ảnh hưởng với nhau...

Do có cùng mục tiêu tranh giành thuộc địa với Anh-Pháp, nước Đức đã cùng Áo - Hung, Italia thành lập "phe Liên Minh" vào năm 1882 để chuẩn bị chiến tranh chia lại thế giới. Để đối phó, Anh đã ký với Nga và Pháp những Hiệp ước tay đôi hình thành phe Hiệp ước [đầu thế kỷ XX]. Từ đó, ở châu Âu đã hình thành 2 khối quân sự đối đầu nhau. 2 bên ra sức chạy đua vũ trang, chuẩn bị cho chiến tranh. Một cuộc chiến tranh đế quốc nhằm phân chia thuộc địa trên thế giới không thể tránh khỏi.

Sự mâu thuẫn mang tính chất đế quốc chủ nghĩa đòi hỏi một cuộc "chém giết lớn" để phân định lại ngôi thứ và lập lại trật tự thế giới, theo đó các thế lực mới nổi [đứng đầu là Đế quốc Đức] mong muốn đánh bại các thế lực cũ [Anh, Pháp, Nga] để chiếm lấy thuộc địa của kẻ thua.

Mặt khác, việc phát động chiến tranh của các nước đế quốc còn nhằm đối phó với những bất ổn trong nội bộ quốc gia. Đầu thế kỷ XX, phần lớn giai cấp lao động ở các nước bị bóc lột nặng nề, đời sống rất khốn khó [công nhân thường xuyên phải làm việc 12 giờ/ngày, đồng lương lại thấp, việc sa thải diễn ra bừa bãi, trẻ em 12 tuổi đã phải đi làm công nhân phụ giúp cha mẹ...]. Sự áp bức đó tạo ra mâu thuẫn gay gắt giữa người lao động với chủ tư bản, nhiều quốc gia đã tiềm ẩn phong trào cách mạng [đặc biệt là ở Nga, Đức và Áo-Hung]. Việc phát động chiến tranh sẽ kích thích tinh thần ái quốc của người dân, làm họ quên đi các vấn đề trong nước và xoa dịu mâu thuẫn trong lòng các nước đế quốc.

Liên minh quân sự, chạy đua vũ trang, quân phiệt

Từ nguyên nhân mâu thuẫn lợi ích, sự thèm muốn tranh giành thuộc địa đã dẫn tới một nhóm nguyên nhân khác cũng được các nhà nghiên cứu chỉ ra, là hệ thống các liên minh quân sự, sự chạy đua vũ trang và Chủ nghĩa quân phiệt của các đế chế:

  • Liên minh quân sự theo khối: Trong các mâu thuẫn và tương đồng quyền lợi, các quốc gia tìm kiếm lôi kéo các nước có cùng lợi ích để thành lập các hiệp ước liên minh quân sự để tăng cường thế lực, bành trướng ảnh hưởng. Việc này làm cho tình hình thế giới càng trở nên cực kỳ căng thẳng vì bất cứ 1 xung đột quốc gia nào đều có thể trở thành xung đột quốc tế, điều này là rất điển hình cho Thế chiến I. Và thực tế cho thấy từ một sự kiện ám sát có tính dân tộc trong Đế chế Áo - Hung, mâu thuẫn đã được cộng hưởng, khuếch đại và trở thành chiến tranh thế giới.
Lính Áo trên chiến trường
  • Chạy đua vũ trang: điển hình là trước thế chiến, Anh cho hạ thuỷ lớp chiến diệt hạm Dreadnought với các tính năng chiến đấu cách mạng trên biển, tạo nên chạy đua vũ trang quyết liệt giữa Anh và Đức. Việc các quốc gia chạy đua vũ trang để duy trì và giành ưu thế quân sự trên bộ và trên biển dẫn đến sự phản ứng tương ứng của phía đối địch. Kết quả là cả hai phe đều cảm thấy bị đe doạ từ phía bên kia và lại càng chạy đua vũ trang và lại bị đe doạ ở mức độ mới cao hơn. Đây cũng là 1 nguyên nhân gây nên chiến tranh.
  • Chủ nghĩa quân phiệt: tại các quốc gia quân chủ chuyên chế như Đế quốc Nga, Đế chế Đức, Đế quốc Áo - Hung và Đế quốc Ottoman và cả ở các quốc gia khác thì tầng lớp quân nhân, tướng lĩnh có một thế lực và ảnh hưởng rất lớn. Họ không hề bị kiểm soát bởi các thiết chế dân chủ, lại rất gần gũi Hoàng đế và luôn có xu hướng hiếu chiến và tinh thần ái quốc mãnh liệt của Chủ nghĩa Sôvanh [chauvinism].

Chủ nghĩa dân tộc

Sau thế kỷ XIX tại châu Âu khi những giá trị tự do cá nhân và quyền tự quyết của cá nhân được nhận thức thì hiển nhiên nhận thức về quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc đang bị điều khiển bởi các dân tộc cường quốc sẽ trỗi dậy và gặp phải sự ngăn trở của các dân tộc khác. Sự thức tỉnh tình cảm dân tộc thường đi kèm với Chủ nghĩa Sôvanh và trên con đường tìm vị thế của mình các dân tộc nhỏ thường tìm sự bảo trợ của các đồng minh lớn để chống lại các kẻ thù cận kề. Điều đó dẫn đến các xung đột được tích luỹ và chiến tranh là cách giải toả cuối cùng.

Chủ nghĩa dân tộc là nguyên nhân chính của vụ ám sát thái tử Áo-Hung tại Bosnia. Sau cuộc chiến Nga-Thổ 1878, Nga có ảnh hưởng lớn ở Balkan. Áo-Hung lại điều khiển chính phủ ở Bosnia và năm 1908 thì gạt Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi đây, nắm toàn bộ ảnh hưởng ở Bosnia. Nga vận động các nước còn lại trên bán đảo Balkan lập ra Liên minh Balkan hi vọng khối này sẽ đẩy lùi Áo-Hung. Nhưng do những mâu thuẫn trước kia đối với Đế chế Ottoman, khối này đã không chống lại Áo-Hung mà gây Chiến tranh Balkan lần thứ nhất 1912-1913 với Thổ Nhĩ Kỳ. Song do sự phân chia quyền lợi không đều, Chiến tranh Balkan lần thứ hai 1913 lại bùng phát, và Bulgaria là nước bại trận. Đến năm 1914, Thổ Nhĩ Kỳ gần như chỉ có 1 ít ảnh hưởng ở bán đảo này, chủ yếu ở Albania. Áo-Hung lại trở thành kẻ thù lớn của Liên minh Balkan. Serbia, nước theo chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ nhất tại Balkan lúc này đã vận động Chủ nghĩa dân tộc Bosnia là nước có chung đường biên giới với Serbia để đánh đuổi Áo-Hung ra khỏi Balkan. Một phần tử được trợ giúp bởi tổ chức dân tộc Bàn tay đen của Serbia đã ám sát hoàng tử Áo-Hung vào 28 tháng 6 năm 1914. Sau đó, Áo-Hung đe dọa Serbia và 1 tháng sau, Áo-Hung tuyên bố chiến tranh với Serbia vào ngày 28 tháng 7 năm 1914.

Chiến tranh là tất yếu?

Trong các học giả thế giới khi đề cập nguyên nhân chiến tranh có xuất hiện câu hỏi: Liệu có thể tránh được cuộc chiến tranh này không? Với những nguyên nhân khách quan và chủ quan như vậy thì ở tầm quốc tế và lịch sử nhân loại có thể nói: với trình độ giác ngộ chính trị của nhân loại vào đầu thế kỷ XX, khi tư duy chính trị vẫn là tư duy nước lớn, tư duy đế quốc Chủ nghĩa, khi cách tiếp cận các vấn đề quốc tế luôn theo nguyên tắc "tối đa quyền lợi cho mình, tối thiểu cho đối phương" thì Chiến tranh thế giới thứ nhất là "phải xảy ra và không thể tránh được". Cuộc chiến này sẽ cùng với Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ tập cho nhân loại phải suy nghĩ theo kiểu tư duy mới là "cùng tồn tại hoà bình, các bên cùng có lợi". Để nhận thức được như vậy nhân loại phải trả giá gần cả trăm triệu mạng người trong 2 cuộc đại chiến và các cuộc chiến khác trong thế kỷ XX. Đó là bài học chính trị quý giá nhất của đại chiến mà nhiều khi nơi này hay nơi khác bài học đó vẫn còn bị "lãng quên".

Các quan tâm quyền lợi

Các nước tham chiến

  • Anh: Chặn đứng tham vọng tranh giành thuộc địa, chia lại thị trường của Đế chế Đức. Ngăn cản ảnh hưởng của nước này, cố gắng giới hạn Đức trong phạm vi châu Âu không để nước này thành cường quốc đại dương đe dọa quyền lợi thương mại thuộc địa của mình. Hạ cấp Đế quốc Ottoman và Đế quốc Áo - Hung xuống thành những cường quốc hạng 2 để chiếm lĩnh quyền lợi tại khu vực Trung Cận Đông rất nhiều dầu mỏ.
  • Pháp: Cũng giống như Anh nhưng ngoài ra còn để phục thù Chiến tranh Pháp-Phổ 1870-1871 quyết giành lại 2 tỉnh Alsace và Lorraine từ Đức. Hạ bậc Đế quốc Đức để trừ mối hoạ sau này [sau chiến tranh phía Pháp đề nghị trong Hội nghị Versailles một hình thức bồi thường chiến phí khủng khiếp để Đức không bao giờ ngóc đầu dậy được].
  • Nga: Loại bỏ sự can thiệp và ảnh hưởng của Đức tại Ba Lan, Ukraina và vùng Baltic, loại bỏ sự cản trở của Đế quốc Ottoman khỏi Kavkaz và Balkans và loại bỏ sự xuất hiện của Áo-Hung tại Balkan. Xâm chiếm các vùng ảnh hưởng của Ottoman và Áo-Hung.
  • Đức: Thoát khỏi sự kiềm tỏa của Anh-Pháp, đòi hỏi 1 thị trường, thuộc địa tương xứng với tiềm lực cường quốc thế giới của mình. Mở rộng vùng ảnh hưởng của mình về phía Đông tại Ba Lan, Ukraina, Baltic, sau đó là Phần Lan.
  • Áo – Hung: Nỗ lực cuối cùng chứng tỏ mình còn là 1 cường quốc, cố giữ lại những gì còn giữ được trước sự nhòm ngó của các cường quốc khác. 2 địch thủ trước mắt của Áo – Hung là Nga và Ý.
  • Ý: 1 cường quốc đang lên nhưng chưa định hình, muốn có 1 vai trò và tiếng nói lớn hơn ở châu Âu và đặc biệt tại Balkans. Trở lực chính của nước này đầu tiên là Anh sau đó định hướng lại chĩa mũi nhọn đấu tranh vào Áo - Hung.
  • Ottoman: Là 1 đế chế lâu đời và lạc hậu ở Trung Cận Đông bị chèn ép ở Cận Đông [Anh, Pháp] và tại Kavkaz và Balkans [Nga]. Đây là nỗ lực cuối cùng để duy trì đế chế.
  • Nhật Bản: Cũng là 1 cường quốc đang lên. Sau Chiến tranh Nga-Nhật, Nhật Bản trở thành cường quốc và có tham vọng được xâm chiếm cả Trung Quốc, gây ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Sau khi ký kết Hiệp ước Anh-Nhật 1902, Nhật Bản chĩa súng vào Đức và Áo-Hung.

Ngoài ra các đế quốc quân chủ Nga, Đức, Ottoman, Áo-Hung, Nhật Bản muốn dùng chiến thắng trong chiến tranh với tinh thần yêu nước dâng cao để trì hoãn cải cách dân chủ, xã hội trong nước.

Các nước đồng tham chiến khác

  • Hoa Kỳ: Giống như Ý và Nhật, Hoa Kỳ cũng là 1 cường quốc đang nổi. Hoa Kỳ muốn có ảnh hưởng lớn hơn trên thế giới, và yêu cầu các nước tôn trọng quyền lợi của Hoa Kỳ trên toàn cầu, trong đó có cả châu Âu, châu Á và châu Phi. Đức và Anh không ủng hộ lắm về việc này. Ban đầu Hoa Kỳ không tham chiến, chỉ đứng ngoài bán vũ khí thu lợi nhuận. Nhưng đến cuối năm 1917, nhận thấy nếu Đức thắng lợi thì các quyền lợi của Hoa Kỳ ở châu Âu sẽ bị đe dọa, nước này quyết định tham chiến cùng Anh và Pháp.
  • Brazil: Từng là 1 đế quốc, song Brazil vẫn không từ bỏ tham vọng được gây ảnh hưởng trên thế giới. Brazil đã có ý định can thiệp vào chiến tranh từ năm 1914, nhưng phải chờ khi Hoa Kỳ tuyên chiến, thì Brazil mới vào cuộc.
  • Romania: Là 1 quốc gia được Nga giải phóng khổi ách cai trị của người Thổ, Romania có tham vọng được tham chiến cùng Nga trong chiến tranh. Romania muốn có ảnh hưởng ở vùng Transilvania vốn đang bị kiểm soát bởi Áo-Hung và gây ảnh hưởng lên các nước Balkan khác và giành lấy vùng Wallachia khỏi tay người Áo-Hung.
  • Bulgaria: Là nước mạnh nhất vùng Balkan. Bulgaria nung nấu tham vọng phục thù sau Chiến tranh Balkan lần 2 bằng việc đòi lại quyền lợi ở Macedonia và bán đảo Tiểu Á.
  • Hy Lạp: Muốn chiếm lại đảo Síp và cố đô Constantinople-những vùng đất đã mất dưới tay người Thổ.
  • Bồ Đào Nha: Theo Anh, không muốn chia thị trường cho Đức.
  • Bỉ: Có quyền lợi giống như Anh, nhưng do lãnh thổ nhỏ và dân số ít nên chấp nhận trung lập. Song vì Đức xâm lược nên Bỉ tuyên chiến. Ngoài ra Bỉ còn muốn giành lấy phần còn lại của vùng Wallonie khỏi tay Đức.
  • Serbia: Là nước mang nặng Chủ nghĩa dân tộc nhất vùng Balkan. Serbia muốn chiếm toàn bộ Balkan, chủ yếu là Bosnia, Croatia và Slovenia khỏi tay Áo-Hung.

Các nước trung lập có liên quan

  • Tây Ban Nha: Là 1 cựu đế quốc đã suy yếu và khủng hoảng trầm trọng, thậm chí nặng hơn Nga, Tây Ban Nha đã vậy còn thua trận trong chiến tranh với Hoa Kỳ. Khi cận kề chiến tranh, vua Alfonso XIII đã quyết định trung lập. Tuy vậy, Tây Ban Nha dường như khá ủng hộ Đức để phục thù Anh và Hoa Kỳ-những nước có mâu thuẫn gay gắt với Tây Ban Nha trong lịch sử.
  • México: Là quốc gia có biên giới chung với Hoa Kỳ. Sau Chiến tranh Hoa Kỳ-México, México đã bị Hoa Kỳ cướp mất một phần lãnh thổ lớn ở phía Bắc mà ngày nay đã sáp nhập vào Hoa Kỳ. México có tham vọng trả thù Hoa Kỳ nên đã dẫn đến xung đột. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng Mexico đã khiến Mexico lục đục, dẫn đến 2 phe phái thân Mỹ-Anh và thân Đức, trong đó, Pancho Villa, 1 người theo Chủ nghĩa dân tộc, đã ủng hộ Đức chống lại Hoa Kỳ trong khi phe chính phủ của Porfirio Díaz và sau đó là Victoriano Huerta thì ủng hộ Anh-Mỹ.
  • Hà Lan: Là 1 đế quốc già và ốm yếu, nhưng Hà Lan đã tránh xung đột thành công với Đức và sau đó là Anh. Khi gần xảy ra xung đột giữa Anh và Đức, Hà Lan, bất chấp được Anh mời chào, vẫn tuyên bố trung lập.
  • Thụy Điển: Giống Brazil, Thụy Điển là 1 cựu đế quốc, song lại thiếu tham vọng. Khi gần chiến tranh, Thụy Điển cũng tuyên bố trung lập, song thái độ của Thụy Điển, cùng với Tây Ban Nha, lại khá ủng hộ Đức vì lý do: thù địch dai dẳng với Nga trong lịch sử, chủ yếu về lãnh thổ Phần Lan. Thụy Điển đã cho các tàu chiến và tàu ngầm Đức đóng quân tại các căn cứ hải quân của Thụy Điển.
  • Đan Mạch: Năm 1864, liên quân Áo-Phổ đã đưa quân tấn công Đan Mạch và thắng lớn trong Chiến tranh Schleswig lần hai. Từ đó, Đan Mạch liên tục thù hằn Phổ và sau đó là Đức, nên tuy tuyên bố trung lập, song Đan Mạch vẫn ngầm ủng hộ Anh. Thêm nữa là xích mích với Thụy Điển cũng khiến Đan Mạch thêm thù địch với Đức.
  • Na Uy: Là 1 vương quốc độc lập nhưng lệ thuộc Thụy Điển, Na Uy tỏ ra ủng hộ Thụy Điển hơn so với các nước khác. Khi xảy ra nguy cơ chiến tranh, Na Uy và Thụy Điển tuyên bố trung lập, nhưng ủng hộ Đức.
  • Ba Tư: Ba Tư, dưới sự lãnh đạo của triều đại Pahlavi, đã liên tục bị châu Âu chèn ép. Tuy nhiên, triều đình ở đây lại bị chính phủ Thụy Điển, 1 nước thân Đức, khống chế. Ba Tư muốn đòi lại quyền lợi chính đáng, song do bị Thụy Điển kiểm soát nên liên tục gặp khó khăn.

Trình tự tham chiến

  • 28 tháng 7, 1914: Áo-Hung tuyên chiến với Serbia
  • 29 tháng 7, 1914: Nga kéo quân vào Áo-Hung
  • 1 tháng 8, 1914: Đức tuyên chiến với Nga
  • 3 tháng 8, 1914: Đức tuyên chiến với Pháp
  • 4 tháng 8, 1914: Đức kéo quân vào Vương quốc Bỉ
  • 4 tháng 8, 1914: Anh tuyên chiến với Đức
  • 23 tháng 8, 1914: Nhật Bản tuyên chiến với Đức
  • 29 tháng 10, 1914: Ottoman tấn công Nga
  • 23 tháng 5, 1915: Ý tuyên chiến với Áo-Hung
  • 14 tháng 10, 1915: Bulgari tuyên chiến với Serbia
  • 9 tháng 3, 1916: Đức tuyên chiến với Bồ Đào Nha
  • 6 tháng 4, 1917: Mỹ tuyên chiến với Đức

Diễn biến

Bài chi tiết: Diễn biến Chiến tranh thế giới thứ nhất
Quân Đức tiến công Bỉ năm 1914

Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra chủ yếu trên 3 chiến trường chính: Mặt trận phía Tây, Mặt trận phía Đông và Mặt trận phía Nam. Trong đó mặt trận phía Tây giữa liên quân Pháp – Anh chống lại quân Đức có vai trò chính yếu quyết định số phận chiến tranh vì ở đây tập trung binh lực lớn nhất có chất lượng cao nhất của cả hai phía. Mặt trận phía Đông là chiến trường giữa quân Nga chống Đức và Áo – Hung, mặt trận này có quy mô và tầm quan trọng không bằng mặt trận phía Tây và quân Nga thường thất bại trước quân Đức nhưng luôn làm quân đội Đức, Áo - Hung phải chiến đấu trên hai mặt trận không thể huy động tổng lực lực lượng khả dĩ cho 1 chiến thắng quyết định trong chiến tranh. Mặt trận phía Nam có tầm quan trọng thấp chủ yếu với 1 lực lượng quân đội nhỏ bé và chỉ có ý nghĩa khu vực. Mặt trận phía Nam lại phân nhỏ thành các chiến trường: Mặt trận Ý-Áo – đối chọi của quân Ý – Áo tại vùng biên giới hai nước; chiến trường Balkan: liên quân Đức, Áo – Hung, Bulgaria chống Serbia và về sau có trợ giúp của Anh, Pháp cho Serbia; chiến trường Trung Cận Đông: Liên quân Anh, Pháp chủ yếu là Anh chống Ottoman; chiến trường Kavkaz: Nga chống Ottoman.

1914: Đức phải chiến đấu trên 2 mặt trận

Ngày 1 tháng 8 năm 1914, Đức tuyên chiến với Nga, ngày 3 tháng 8 với Pháp; ngày 4 tháng 8 Anh tuyên chiến với Đức và đổ bộ vào lục địa. Chiến tranh lớn đã nổ ra.

Mặt trận phía Tây

Bài chi tiết: Mặt trận phía Tây [Chiến tranh thế giới thứ nhất]

Ngày 2 tháng 8 năm 1914, quân Đức chiếm Luxembourg và 2 ngày sau tràn vào Bỉ, vi phạm tình trạng trung lập của nước này để lấy đường tiến vào miền Bắc nước Pháp. Kế hoạch Schlieffen của bộ tổng chỉ huy Đức tính toán rằng: cuộc tấn công bất ngờ qua Bỉ đánh thẳng vào Bắc nước Pháp, là khu vực ít bố phòng, sẽ nhanh chóng loại nước này ra khỏi chiến tranh trong vòng 40 ngày, trước khi quân đội Nga kịp tổng động viên và tập hợp; sau khi đánh tan quân Pháp thì Đức sẽ điều quân quay sang mặt trận phía Đông giải quyết quân Nga và kết thúc chiến tranh.

Khi quân Đức xâm chiếm Bỉ, vì lo ngại sự kháng cự của người Bỉ, đặc biệt là từ các tay súng bắn tỉa [franc-tireurs], quân Đức ngay từ ngày đầu tiên ở Bỉ đã mạnh mẽ chống lại người dân bản địa. Ngay từ ngày 05/08, người Đức không chỉ bắt đầu bắn giết thường dân mà còn hành quyết có chủ ý các linh mục người Bỉ, những người mà Bộ Tuyên truyền Đức khẳng định là đã khuyến khích hoạt động bắn tỉa. Tư lệnh Đức Helmuth von Moltke viết cho người đồng cấp ở Áo của ông, Conrad von Hotzendorff, vào ngày 5 tháng 8: “Quá trình tiến quân của chúng ta ở Bỉ chắc chắn là rất tàn bạo. Nhưng chúng ta đang chiến đấu cho sinh mạng của mình và tất cả những ai cản đường phải chịu hậu quả.” Tổng cộng trong gia đoạn tiến công đầu tiên, quân Đức đã giết 5.521 thường dân ở Bỉ và 896 người ở Pháp, cũng vì thế quân Đức bị người Bỉ thù hận và còn làm hại hình ảnh nước Đức trong con mắt của nhiều nhà quan sát nước ngoài.

Kế hoạch Schlieffen là quá sức với Đức: ban đầu quân Đức giành được lợi thế trong các trận đánh biên giới và tiến nhanh về phía Paris hòng đánh chiếm thủ đô nước Pháp, và người Đức sắp sửa giành được chiến thắng lớn nhằm quyết định kết cục chiến tranh. Nhưng khi đi sâu vào đất Pháp, lực lượng Đức dần bị dàn mỏng khiến các chỉ huy quân Đức bắt đầu mắc sai lầm. Ở phía đông, quân Nga cũng bắt đầu tấn công lãnh thổ Đức vào ngày 17 tháng 8, sớm hơn nhiều so với dự kiến của Đức là 40 ngày. Điều này khiến Đức phải rút bớt quân từ mặt trận Pháp để chuyển sang phía đông chặn đánh quân Nga, làm yếu đi lực lượng xung kích đang tấn công vào Pháp.

Thế rồi, trong trận sông Marne lần thứ nhất vào tháng 9 năm 1914 quân Đức đánh bất phân thắng bại với liên quân Pháp - Anh. Quân Đức phải lui binh về cố thủ, quân Pháp quá kiệt quệ nên không thể truy kích, nên cả hai đoàn quân không bên nào có thể giành thế thượng phong. Chiến tranh trên mặt trận phía Tây dần đi vào hình thức chiến tranh chiến hào [Stellungskrieg], và tình hình cứ thế trong suốt 4 năm chiến tranh.[27][28][29] Trận đánh kế tiếp tại Aisne còn khốc liệt hơn cả trận sông Marne, diễn ra từ 13-28 tháng 9 năm 1914. Cả hai bên đều mất hàng chục ngàn binh sĩ, nhưng rồi đây vẫn là 1 trận chiến bất phân thắng bại.[30]

Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Đức như vậy là đã bị phá vỡ.

Mặt trận phía Đông

Bài chi tiết: Mặt trận phía Đông [Chiến tranh thế giới thứ nhất]
Lính Nga tại Warszawa, nay là thủ đô Ba Lan năm 1914

Để giúp đồng minh đang khó khăn tại mặt trận Pháp – Bỉ, đầu tháng 9 năm 1914 quân đội Nga tổng tấn công trên 2 hướng: Galicia đối đầu với Áo-Hung và đặc biệt là tấn công rất nhanh, mạnh vào Đông Phổ thuộc Đức. Vào ngày 17 tháng 8 năm 1914, quân đội Đức đánh thắng quân Nga trong trận đánh mở đầu tại Stallupönen - 1 chiến thắng nhỏ nhưng có tầm quan trọng về chiến lược.[31] Các cuộc tấn công sau đó của quân Nga đã thắng lợi nhưng thiệt hại nặng về nhân mạng: đánh lui quân đội Đức trong trận Gumbinnen và quân đội Áo – Hung tại Galicia.[32] Đông Phổ có nguy cơ mất vào tay Nga.

Để cứu nguy cho tập đoàn quân số 8 của mình đang phòng thủ Đông Phổ, Đức phải điều bớt những lực lượng xung kích từ phía Tây sang Đông Phổ và kết quả là trong nửa cuối tháng 8, quân Đức do vị tướng Paul von Hindenburg chỉ huy đã đánh tan quân Nga ở trận Tannenberg,[33] Nga mất 30.000 lính và bị bắt 95.000 tù binh, phía Đức chỉ mất 3.436 người chết và 6.800 bị thương. Trận thắng này đã chặn đứng tập đoàn quân số 1 và bao vây tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn quân số 2 của phương diện quân Tây Bắc của Nga, tư lệnh tập đoàn quân số 2 là tướng Aleksandr Samsonov buộc phải tự sát, quân Nga bị đuổi khỏi Đông Phổ. Đây là 1 chiến thắng lớn của quân lực Đức trong suốt Đại chiến thứ nhất,[34] có ảnh hưởng lớn đến tinh thần của dân tộc Đức, là trận đánh đáng ghi nhớ trong lòng toàn dân Đức thời đó.[35] Quân Đức cũng đánh bại quân Nga trong trận Lyck vài ngày sau đó.[33] Tuy nhiên, về mặt chiến lược thì cuộc tấn công của Nga đã diễn ra sớm hơn nhiều so với dự tính của Đức, khiến Đức phải rút bớt những lực lượng xung kích từ mặt trận Pháp, qua đó góp phần phá vỡ chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của Đức và giảm bớt gánh nặng cho quân Anh-Pháp đang bị Đức áp đảo.

Ở phía đông nam thì quân Áo – Hung lại để quân Nga đánh tan nát ở Trận Lemberg [1914]. Quân đội Áo - Hung thất bại nặng nề với 450.000 thương vong [100.000 chết, 220.000 bị thương và 130.000 bị bắt làm tù binh], trong khi Nga bị tổn thất khoảng 240.000 người [bao gồm 40.000 bị bắt làm tù binh]. Một số người Tiệp Khắc và người Slav không chịu chiến đấu cho quân đội Áo-Hung nên đã ra đầu hàng hàng loạt.[36] Kết thúc năm 1914 tại chiến trường Đông Âu, quân Nga chiếm lĩnh toàn bộ vùng phía đông của Galicia chạy dài tới chân núi Carpathian. Người Nga suýt nữa đã tiến được đến bình nguyên Hungary vào cuối tháng 9 nhưng họ đã dừng tiến quân vì hậu cần gặp khó khăn và bị tổn thất nặng.[37]

Quân Nga rõ ràng chưa chuẩn bị tốt cho chiến tranh, trình độ sĩ quan và binh lính lạc hậu nên không thể chống lại các cuộc tấn công có tổ chức tốt của Đức, nhưng Đức lại phải chống chân cho Đế quốc Áo-Hung bị coi là "bất tài". Quân đội Nga phải chuyển sang phòng ngự. Quân Đức cũng không tấn công thêm, mặt trận phía Đông đi vào ổn định. Chỉ trong 1 năm 1915, hơn 1 triệu quân Nga bị liên quân Đức - Áo bắt giữ, nhưng hơn 1 triệu lính Áo-Hung và Đức cũng đã bị Nga bắt giữ làm tù binh.[38]

Như vậy Quân đội Đức đã phải bị động đánh nhau trên 2 mặt trận và kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của nước này đã thất bại. Các bên tham chiến đi vào chiến tranh chiến hào. Thực chất, đây không phải là lần đầu tiên người Đức phải chiến đấu trên 2 mặt trận: trong cuộc Chiến tranh Bảy năm [1756 - 1763], Vương quốc Phổ dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Friedrich II Đại Đế [1712 - 1786] cũng đã lâm vào tình trạng "lưỡng nan thọ địch" [người Phổ đã chiến thắng cuộc chiến tranh này do nữ hoàng Nga qua đời đột ngột khiến liên quân Nga-Áo-Pháp bị mâu thuẫn nội bộ].[39][40]

Diễn biến ở các chiến trường khác trong năm 1914

Đế quốc Nhật Bản lợi dụng việc các cường quốc đang tham gia cuộc chiến tranh ở Châu Âu đã quyết định thực hiện kế hoạch bành trướng ở Viễn Đông. Ngày 15 tháng 8 năm 1914, Nhật Bản gửi tối hậu thư cho Đức đòi nước này chuyển cho Nhật Bản vùng Giao Châu [Trung Quốc] và hạn cho Đức phải trả lời trong 8 ngày. Đức không trả lời tối hậu thư của Nhật Bản nên ngày 23 tháng 8 năm 1914, Nhật Bản tuyên chiến với Đức và nhanh chóng chiếm Giao Châu và tuyến đường sắt Thanh Đảo-Tế Nam [Trung Quốc] và 1 loạt hòn đảo là thuộc địa của Đế chế Đức tại Thái Bình Dương. Ngày 11 tháng 11 năm 1914, Thanh Đảo, thuộc địa của Đức ở Trung Quốc, đã đầu hàng Nhật Bản sau 43 ngày bị bao vây. Sau những hoạt động quân sự này, Nhật Bản không có hoạt động nào khác tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

Ngày 21 tháng 9 năm 1914, quân Úc chiếm New Guinea là thuộc địa của Đế chế Đức ở Thái Bình Dương. Ngày 5 tháng 11 năm 1914, quân Đức chiến thắng quân Anh ở Đông Phi thuộc Đức [nay là Tanzania]. Năm ấy,Sultan Ottoman là Mehmed V phản đối liên minh Đức - Ottoman. Nhưng rồi, theo lời khuyên của Bộ trưởng Chiến tranh Ismail Enver, Mehmed V với tư cách là Sultan kiêm Khalip phát động Thánh chiến [Jihad] chống phe Entente.[41]

1915 – 1916: Đức chủ động tấn công

Sau thất bại của kế hoạch năm 1914 nhằm loại Pháp ra khỏi vòng chiến, nước Đức đã rơi vào thế bị động: tiềm năng kinh tế quân sự không bằng liên minh Anh – Pháp – Nga mà lại thực tế phải một mình đối đầu trên 2 mặt trận. Tình trạng này càng kéo dài thì càng bất lợi cho Đức. Để thoát thế kẹt trên 2 mặt trận, năm 1915 Đức tấn công quy mô lớn ở phía Đông để loại Nga ra khỏi chiến tranh và năm 1916 tổng tấn công để loại Pháp nhưng đều không thành. Trong 2 năm này đánh nhau rất to, thương vong của 2 bên là cực lớn, nhất là năm 1916 tại mặt trận phía Tây.

Mặt trận phía Đông 1915 – 1916

Năm 1915, nước Đức quyết định tập trung lực lượng tấn công để loại Nga ra khỏi vòng chiến, xoá bỏ mặt trận phía Đông. Quân Đức trên mặt trận phía Tây chủ động chuyển sang phòng ngự trước liên quân Anh, Pháp và từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1915 để dồn binh lực sang mặt trận phía Đông, đánh đòn tiêu diệt đối với quân đội Nga.

Sau hơn nửa năm chiến tranh, điểm yếu của Nga lộ rõ: Quân Nga không chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc chiến tiêu hao lâu dài. Nền công nghiệp Nga khi đó có quy mô nhỏ hơn so với Anh, Pháp và Đức, do vậy sản xuất vũ khí đạn dược không theo kịp nhu cầu của chiến tranh. Quân Nga lâm vào cảnh thiếu súng đạn [Tháng 12 năm 1914, quân đội Nga có 6.553.000 quân nhưng chỉ có 4.652.000 khẩu súng trường, đến cuối cuộc chiến thì quân Nga phải sử dụng tạp nham 10 loại súng trường nhập khẩu khác nhau, mỗi thứ bắn một loại đạn, trong khi đạn pháo thì liên tục thiếu hụt]. Năm 1914. cả quân đội Nga chỉ có không hơn 679 ô tô vận tải và hai xe ô-tô cứu thương. Hệ thống liên lạc thì lạc hậu: Quân đoàn 2 của Samsonov có 130.000 quân mà chỉ có 25 điện thoại, một vài máy mã hóa thường trục trặc giữa chừng, và kết quả là chỉ huy Nga thường phải cưỡi ngựa đi thị sát tình hình giống như hồi đầu thế kỷ 19. Mặt khác, tình trạng lạc hậu của nước Nga thời đó ảnh hưởng xấu đến chất lượng quân đội: 60% các hạ sỹ quan xuất thân từ nông dân, rất ít người có trên 4 năm học vấn và gần như chưa ai trải qua đào tạo quân sự bài bản, phần lớn lính Nga thì bị mù chữ, nhiều người thậm chí không biết lắp đạn súng trường, do vậy khó có thể đào tạo họ sử dụng hiệu quả các loại vũ khí phức tạp trong chiến tranh hiện đại. Đội ngũ sĩ quan cao cấp Nga thì phần lớn được bổ nhiệm theo kiểu cách quý tộc giống như thế kỷ XIX, nghĩa là dựa vào xuất thân quý tộc và lòng trung thành với Sa hoàng hơn là thành tích chiến trường [ví dụ như Đại Công tước Nikolai được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh quân đội Nga bởi vì là chú ruột Nga hoàng, dù thực tế ông ta chưa bao giờ chỉ huy 1 tiểu đoàn và cũng chưa từng tham gia một cuộc chiến nào]. Nhiều sĩ quan quý tộc này chẳng những bất tài mà còn đố kỵ, không chịu hợp tác với những chỉ huy có năng lực cao hơn họ.

Vì các nguyên nhân trên, cuộc tấn công của Đức diễn ra thuận lợi và thành công lớn: trong Chiến dịch Gorlice-Tarnów phía nam Ba Lan, liên quân Đức - Áo-Hung tấn công như vũ bão, quân Nga thua lớn, mất khoảng 350.000 binh sĩ và phải rút lui trên toàn chiến tuyến[42] Họ thực hiện cuộc đại rút lui: bỏ Galicia, bỏ Ba Lan và sau đó phải bỏ cả một phần vùng Baltic. Thượng tướng August von Mackensen của Đức, với sự giúp đỡ tài tình của Đại tá Hans von Seeckt, đã làm nên chiến thắng lớn, khiến ông được thăng hàm Thống chế.[43] Chiến dịch Gorlice–Tarnów là một trong những chiến thắng lớn nhất của lực lượng Quân đội Đức trong suốt cuộc Đại chiến thứ nhất này.[44] Tuy thắng lợi to lớn, chiếm được một vùng rộng lớn đất đai của Đế quốc Nga nhưng Đức cũng bị tổn thất nhiều [mất 87.000 quân[45], chưa kể quân Áo-Hung] và vẫn không thể đạt mục tiêu cuối cùng là buộc Nga ra khỏi chiến tranh. Nga hoàng Nikolai II vẫn quyết tâm theo đuổi chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Và đến cuối năm 1915 thì binh lực của nước Đức ở phía Đông cũng đã cạn, không thể tấn công thêm nữa. Mặt trận phía Đông đến cuối năm 1915 lại đi vào ổn định của chiến tranh chiến hào.

Sĩ quan Đức đang chuẩn bị nạp đạn pháo 250 mm Minenwerfer

Tuy thất bại trong mục tiêu loại Nga ra khỏi chiến tranh, quân Đức vẫn chiếm được nhiều vùng lãnh thổ với 23 triệu dân, trong đó có các vùng kinh tế quan trọng của Nga, khiến sản lượng kinh tế của Nga sụt giảm nghiêm trọng. Đây là một nhân tố sẽ góp phần tạo ra cách mạng lật đổ Nga hoàng sau này.

Từ tháng 6 đến cuối tháng 8 năm 1916, quân đội Nga [phương diện quân Tây Nam, tư lệnh Aleksei Alekseevich Brusilov lại một lần nữa lợi dụng quân Đức đang mải bận đánh trận Verdun bên Pháp tiến hành tấn công thắng lợi lớn tại Galicia, đánh tan tác liên quân Đức và Áo - Hung, bắt được hàng trăm ngàn binh sĩ đối phương[46]. Trong vòng 48 giờ, quân Nga đã xuyên thủng hàng phòng ngự của Áo - Hung dọc theo chiến tuyến dài 80km, bắt sống hơn 40.000 tù binh. Sau 2 tháng, hơn phân nửa lực lượng Áo- Hung Mặt trận phía Đông bị đánh tan tác, và tướng Conrad, Thạm mưu Trưởng Áo, bắt đầu nghĩ đến việc nghị hòa. Tổn thất nặng nề trong chiến dịch này đã thực sự làm quân đội Áo - Hung mất khả năng tiến hành các chiến dịch lớn chống lại khối Hiệp ước. Chiến dịch Brusilov được xem là chiến thắng vẻ vang nhất của quân Nga và phe Hiệp ước trong cuộc chiến. Hơn 1,3 triệu quân Đức, Áo - Hung đã bị tiêu diệt trong chiến dịch này [trong đó hơn 500.000 bị bắt], quân Nga chiếm lại một phần Ukraina và Belarus, khiến Brusilov trở thành người anh hùng của phe Entente trên Mặt trận phía Đông.[46] Tham mưu trưởng Đức, tướng Ludendorff đã gọi đây là ‘cuộc khủng hoảng phía Đông’.

Tuy thắng lớn nhưng quân Nga lại không thể thừa thắng xông lên tiêu diệt hoàn toàn quân đội Áo - Hung. Điều này bởi nhiều nguyên nhân: quân Nga đã cạn nguồn lương thực và đạn dược, lại phải điều bớt quân sang giúp đồng minh Rumani, ngoài ra còn có thái độ ganh ghét của các tướng Nga khác với thành công của Brusilov khiến đội quân của ông không nhận được sự hỗ trợ cần thiết. Đầu tháng 7, Tổng chỉ huy Nga chuyển Đội Vệ binh Hoàng gia ưu tú đến hỗ trợ Brusilov. Nhưng chỉ huy của Đội Vệ binh là Tướng Bezobrazov, một quý tộc kiêu ngạo, ông ta không tuân lệnh Brusilov mà cứ ra lệnh cho Đội Vệ binh tấn công qua một đầm lầy lộ thiên, để rồi bị thiệt hại nặng bởi máy bay Đức không kích. Chỉ trong một mệnh lệnh ngu ngốc, Đội Vệ binh tinh nhuệ nhất của nước Nga đã bị tiêu diệt. Trong khi đó, nếu 2 tướng Nga là Evert và Kuropatkin giữ lời hứa tiến quân đồng bộ với Brusilov, mở cuộc tấn công ở phía Tây và Tây-Bắc, thì tiến trình chiến tranh đã đổi chiều hoàn toàn và quân Nga có thể đi đến thắng lợi cuối cùng. Hindenburg sau đó thú nhận rằng nếu Nga mở cuộc tấn công thứ hai thì ‘Chúng tôi ắt hẳn đã đối diện với một sự sụp đổ hoàn toàn’. Một lần nữa, quân đội Nga lại lãng phí thời cơ quý giá vì những điểm yếu gây ra bởi những chỉ huy quý tộc. Tướng Brusilov sau này rằng có nhận xét cay đắng là ‘Nước Nga không thể thắng cuộc chiến với thể chế chính quyền hiện thời.’

Để cứu vãn tình hình mặt trận phía đông, nước Đức lại phải kéo quân từ mặt trận phía Tây về can thiệp và chặn đứng quân Nga. Quân Nga lại phải rút lui nhưng sau đó Đức phải chuyển quân sang phía Tây, hai bên lại đi vào cầm cự trong chiến hào cho đến khi Nga ra khỏi chiến tranh cuối năm 1917 vì sụp đổ trong phong trào cách mạng.

Mặt trận phía Tây 1915 - 1916

Phút giải lao của binh sĩ Anh trong chiến hào - Chiến trường Sông Somme 1916

Trong các năm 1915, 1916 mặt trận phía Tây đánh nhau cực kỳ quyết liệt nhưng không có nhiều đột biến: các chiến dịch tại Ypres [bắc Bỉ], Champagne và Artois [bắc Pháp] quân hai bên nhiều lần cố gắng chọc thủng phòng tuyến của nhau nhưng đều thất bại. Tại đây đầu tiên là quân Đức đã sử dụng vũ khí hoá học sau đó quân Entente đáp trả gây chết ngạt rất nhiều cho quân sĩ hai bên. Năm 1916, diễn ra trận Verdun nổi tiếng nhất trong thế chiến này, diễn ra trên đất Pháp [từ 21 tháng 2 đến 18 tháng 12 năm 1916] đây là nỗ lực của Đức tấn công đánh bại quân Pháp chiếm Paris loại Pháp ra khỏi chiến tranh: quân Đức tấn công rất mãnh liệt thành cổ Verdun để hướng về Paris và quân Pháp cố thủ đến cùng, hai bên tranh chấp chiến tuyến vô cùng ác liệt, chết vô số nhưng chiến tuyến chỉ dịch chuyển lên xuống được dưới 10km. Sau này Verdun vì số lượng thương vong quá lớn được gọi là "cối xay thịt". Quân Pháp kiệt quệ và cả hai phe đều không thể thắng được trận đại chiến Verdun này.[17]

Để phản công giải nguy cho Verdun, tháng 9 năm 1916, quân Anh đã tấn công tại trận sông Somme nhưng cũng không có kết quả rõ rệt. Trận này lần đầu tiên trong lịch sử quân sự thế giới quân Anh đã sử dụng xe tăng tấn công và đã đạt hiệu quả chiến thuật rất cao. Nhưng nỗ lực của liên quân Anh - Pháp coi như thất bại, thương vong của 2 bên trong chiến dịch này còn cao hơn cả trận Verdun[17]

Tại các mặt trận phía Nam 1915 – 1916

Ngày 23 tháng 5 năm 1915, Ý gia nhập khối Đồng minh ba bên [Anh- Pháp- Nga] để chống Áo. 14 tháng 10 năm 1915 Bulgaria tham gia vào phe liên minh Đức - Áo để chống Serbia. Mặt trận phía Nam tuy quy mô nhỏ nhưng sôi động hẳn lên.

  • Chiến trường Ý – Áo: tháng 5 năm 1915 quân Ý mở chiến dịch Isonzo chống quân Áo nhưng thất bại và bị Áo phản công chiếm Gorizia sau lợi thế nhỏ bé này mặt trận Ý – Áo đi vào ổn định cho đến tận cuối năm 1917.
  • Chiến trường Balkans: Chiến thắng vẻ vang của quân Đức trong Chiến dịch Gorlice–Tarnów trên Mặt trận phía Đông tạo điều kiện cho Bulgaria nhảy vào tham chiến.[44] Tại Balkan tháng 10 năm 1915 liên quân Đức – Áo – Bulgaria đánh tan quân Serbia tại Novo Brdo và quân Serbia phải rút lui sâu vào Albania và Hy Lạp. Để cứu nguy cho Serbia và gây áp lực lên Hy Lạp tham gia chống Liên minh Trung tâm, cuối năm 1915 liên quân Anh, Pháp tiến hành chiến dịch đổ bộ lên Salonica của Hy lạp nhưng nước này không tham gia chống Đức, Áo, Bulgaria. Chiến sự tại mặt trận Balkans tại Salonica ổn định, yên tĩnh lạ thường và các bên dường như không muốn đánh nhau cho đến tận cuối chiến tranh. Người ta gọi mặt trận Salonica là "trại tù binh lớn".
  • Chiến trường Trung Cận Đông: từ tháng 2 năm 1915 đến tận tháng 1 năm 1916 liên quân Anh, Pháp mở chiến dịch hải quân đổ bộ rất lớn trong lịch sử chiến tranh thế giới – chiến dịch Dardanelles đổ bộ gần 60 vạn quân để chiếm hai eo biển Dardanelles, Bosporus và thủ đô Istanbul để buộc Đế quốc Ottoman ra khỏi chiến tranh. Người anh hùng dân tộc Mustafa Kemal Atatürk đã xuất binh đập tan tác quân Entente, làm thất bại chiến dịch của địch.[47] Nhờ đó, Đế quốc Ottoman vẫn đứng vững và giáng trả hiệu quả, Entente ba bên phải di tản quân về Hy Lạp.
  • Chiến trường Kavkaz: Tại vùng Kavkaz, quân Nga có lực lượng nhỏ hơn nhưng đã đại thắng quân Ottoman tại trận Sarikamis [từ 29 tháng 12 năm 1914 đến 4 tháng 1 năm 1915] sau đó trong năm 1915, 1916 và cho đến tận cuối năm 1917 khi Nga sụp đổ vì cách mạng, quân Nga tại Kavkaz liên tiếp đánh lui quân Ottoman, tiến lên chiếm xứ nay là Armenia. Vì người Armenia theo Chính thống giáo có cảm tình với Nga nên chính quyền Đế quốc Ottoman đã thi hành chính sách diệt chủng người Armenia làm gần 1 triệu người Armenia chết, chấn động trong dư luận châu Âu và thế giới về Thế chiến I.

1917: Năm bản lề

Năm này là năm bản lề của chiến tranh: Tại mặt trận phía tây, liên quân chuyển sang tấn công. Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế trên biển, Hoa Kỳ tham chiến chống Đức. Cách mạng tại Nga làm nước này rời bỏ chiến tranh.

Quân Anh-Pháp-Nga chuyển sang tấn công

Trong năm 1917 lợi thế đã nghiêng sang phía Anh-Pháp-Nga ba bên, vòng vây trên biển siết chặt kinh tế Đức của Hải quân Hoàng gia Anh đã cho thấy các kết quả. Liên quân Pháp-Anh liên tục mở các cuộc tấn công lớn trên tất cả các mặt trận.

Một quân đoàn súng máy của đế quốc Ottoman tại tuyến phòng thủ Tel esh Sheria và Gaza vào năm 1917
  • Chiến trường Trung Cận Đông: quân Anh liên tiếp chiến thắng quân Ottoman và chiếm Baghdad [Iraq] tháng 3 năm 1917 và tổ chức thành công chiến dịch Sinai và chiến dịch Palestine chiếm Jerusalem vào tháng 12 năm 1917.
  • Chiến trường Ý – Áo: tại chiến trường này cuối năm 1917 khi cách mạng nổ ra ở Nga, không còn mặt trận phía Đông, quân Đức – Áo được tiếp viện một lực lượng hùng hậu trong đó có các đơn vị xung kích của Đức làm nòng cốt, đã tổ chức chiến dịch Caporetto [26 tháng 10 năm 1917] và đã thắng lợi vang dội tiêu diệt 6 vạn và bắt gần 30 vạn quân Ý. Quân Anh, Pháp phải cứu viện lập phòng tuyến cố thủ tại sông Piave. Và thế trận dừng lại ở đây cho đến hết chiến tranh. Tuy thắng lợi của Đức, Áo tại Caporetto rất to lớn nhưng vai trò thứ yếu của mặt trận Ý – Áo không làm đảo lộn thế chiến lược của chiến tranh và thực lực của phe Trung tâm cũng không cho phép phát triển thành quả.
Lính Úc trên mặt trận phía tây - Ypres 1917, họ đeo mặt nạ chống hơi ngạt
  • Mặt trận phía Tây: Liên quân Anh, Pháp đã nắm quyền chủ động chiến trường, trong năm 1917 tại mặt trận này chỉ có họ tấn công nhưng không thể chọc thủng nổi tuyến phòng thủ rắn chắc của quân Đức. Các cuộc tấn công tại Verdun, Ypres, Cambrai với sử dụng ồ ạt xe tăng đều thất bại. Đặc biệt từ 9 tháng 4 đến 5 tháng 5 năm này quân đội Pháp mở chiến dịch Nivelle [theo tên của Tổng tư lệnh quân đội Pháp Robert Georges Nivelle – người soạn thảo kế hoạch] với số lượng áp đảo gấp 2 lần quân Đức, kết quả: với số thương vong 50 vạn và đã thất bại và ngày nay trận này được gọi là "lò mổ của Nivelle". Đến cuối năm 1917 phòng tuyến Đức tại mặt trận phía Tây vẫn chưa thể phá vỡ nổi.

Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế

Sau này nhiều nhà nghiên cứu Anh đã công nhận Anh thực tế đã trên nguy cơ thua trận nếu chiến tranh tàu ngầm của Đức hiệu quả hơn nữa. Ban đầu Đức trông cậy vào hạm đội tàu nổi của mình nhưng hạm đội Đức không thể đua tranh được với hạm đội hùng hậu của Hải quân Hoàng gia Anh nên nhiệm vụ bóp nghẹt kinh tế Anh được giao cho hạm đội tàu ngầm rất nổi tiếng của Đức. Đức chạy đua với thời gian xây dựng lực lượng tàu ngầm và sử dụng chúng hiệu quả để đánh phá tuyến vận tải biển quan trọng sống còn đối với Anh.

Tàu hàng Andex của Anh trúng ngư lôi của tàu ngầm Đức. Để tăng hiệu quả áp lực lên Anh tháng 2 năm 1917 Tổng tham mưu trưởng Đức Erich Ludendorff thuyết phục được Thủ tướng Đức [Chancellor] tuyên bố chiến tranh tàu ngầm không hạn chế chống mọi tàu của mọi quốc tịch chuyên chở tiếp tế cho Anh. Lượng trọng tải tàu bị đánh chìm tăng lên nhanh chóng đạt mức trung bình 500.000 tấn/tháng và đạt đỉnh trong tháng 4 năm 1917 là 860.000 tấn. Nước Anh trước nguy cơ bại trận: tình hình rất nghiêm trọng, đã có nạn đói trong nước. Từ tháng 8 năm 1917 Anh áp dụng chiến thuật vận tải mới là hạm đội áp tải để vô hiệu hoá đòn đánh của tàu ngầm và chiến thuật này là cực kỳ hiệu quả và nước Anh đã thoát hiểm hoạ chết đói. Nhưng để đối phó lại, tàu ngầm Đức áp dụng chiến thuật "nổi lên đánh đêm": hạm đội Anh chỉ hiệu quả chống tàu ngầm khi chúng bị phát hiện dưới mặt nước hoặc bị nổi lên ban ngày. Khi vào ban đêm tàu ngầm Đức nổi lên bơi lẫn vào đoàn tàu vận tải thì Hải quân Anh không biết cách làm thế nào. Đây là chiến thuật rất hiệu quả của Đức và nếu chiến tranh kéo dài chưa biết kết quả sẽ thế nào: Các tàu ngầm Đức luôn theo sát các đoàn convoy của Anh nhưng thay vì tấn công, chúng chờ đến đêm nổi lên bơi lẫn vào đoàn tàu vận tải, áp mạn ở cự ly gần và dùng pháo lần lượt tiêu diệt từng chiếc một. Một thảm hoạ cho hình thức convoy của Anh.

Hoa Kỳ tham chiến

Hoa Kỳ từ đầu thế kỷ XX theo đuổi chính sách không can thiệp và giữ trung lập trong chiến tranh. Nhưng do phần lớn người Mỹ là con cháu của những người Anh di cư sang nên tâm lý nhân dân và chính giới Hoa Kỳ luôn giành tình cảm cho người Anh nên dù vẫn giữ quan hệ với Đức, Hoa Kỳ luôn dành cho Anh những thuận lợi để duy trì chiến tranh.

Quân Mỹ tham chiến ở miền Bắc nước Pháp trong năm 1918

Ban đầu, Hoa Kỳ không muốn tham gia chiến tranh, họ chỉ muốn đứng ngoài thu lợi từ các hợp đồng xuất khẩu hàng hóa cho các nước tham chiến. Các khoản chi phí quân sự cực lớn của các nước châu Âu đã đem lại lợi nhuận cực kỳ lớn cho các công ty Mỹ [bằng việc bán lương thực, đồ dùng và cho vay nặng lãi đối với các nước tham chiến]. Đến năm 1917, xuất khẩu của Mỹ đã tăng 2,5 lần so với mức trước chiến tranh [từ 825 triệu USD lên 2,25 tỷ USD], chủ yếu là nhờ xuất khẩu hàng hóa sang châu Âu. Giữa năm 1914 và 1917, sản xuất công nghiệp Mỹ tăng 32% và GNP tăng gần 20%, trái ngược hẳn với tình trạng suy thoái trước chiến tranh. Riêng hãng thép Bethlehem Steel đã xuất khẩu 500.000 tấn vỏ thép và 20,1 triệu viên đạn pháo cho Anh và Pháp trong giai đoạn 1914-1917.

Các khoản cho vay từ các tổ chức tài chính Mỹ đến các nước châu Âu cũng gia tăng mạnh trong thời chiến tranh. The House of Morgan cung cấp kinh phí cần thiết cho chiến phí của Anh và Pháp. Từ năm 1914 trở đi, các ngân hàng Morgan ở New York, được chỉ định là đại diện tài chính cho chính phủ Anh, và sau đó đóng một vai trò tương tự đối với Pháp.

Trong khi thế giới tập trung chú ý vào chiến trường châu Âu, Hoa Kỳ ngày càng lo ngại rằng Đức có thể giành chiến thắng. Vào đầu thế kỷ XX, với tham vọng đánh chiếm thuộc địa ngày càng tăng, sự hiện diện của Đức ở Haiti gia tăng. Năm 1915, tổng thống Woodrow Wilson từng phải gửi Thủy quân lục chiến Mỹ tới Haiti, nhằm bảo vệ các tài sản của Mỹ trong khu vực và ngăn chặn một cuộc xâm lược của Đức và lãnh thổ này. Đầu năm 1917, Đế quốc Nga sụp đổ còn Đế quốc Anh thì đang tổn thất nặng do tàu ngầm Đức, chiến sự đảo chiều có lợi cho phe Đức. Nếu Đức chiến thắng trong thế chiến, nước này sẽ là bá chủ châu Âu, và mục tiêu tiếp theo của Đế quốc Đức chắc chắn sẽ là các thuộc địa ở Nam Mỹ, vùng mà Hoa Kỳ vẫn luôn coi là khu vực ảnh hưởng quan trọng nhất của mình. Ngoài ra, 3 tỷ USD [tương đương 50 tỷ USD thời giá 2015] mà Mỹ đã cho Anh, Pháp vay để làm chiến phí sẽ mất trắng. Do đó, Mỹ ngày càng muốn tham gia vào chiến tranh để hỗ trợ cho Anh và Pháp.

Với việc Đức tuyên bố chiến tranh tàu ngầm không hạn chế đánh cả vào tàu Mỹ, lại cộng thêm sự kiện bức điện Zimmermann đã làm dư luận Hoa Kỳ hết kiên nhẫn, họ đòi chính phủ tham chiến chống Đức. Ngày 6 tháng 4 năm 1917, Hoa Kỳ cắt mọi quan hệ và tuyên bố chiến tranh với Đức. Vào cuối năm 1918 khi Đức đầu hàng, lực lượng viễn chinh Hoa Kỳ tại châu Âu chưa thật lớn và Quân đội Hoa Kỳ không đóng vai trò chủ đạo trong việc đánh thắng quân Đức trên chiến trường, nhưng rõ ràng với tiềm lực kinh tế rất lớn của mình giúp cho Entente và các mối ràng buộc chính trị, kinh tế nhất là các khoản cho vay với Đức bị dứt bỏ thì sự tham chiến của Hoa Kỳ là một yếu tố cực mạnh có lợi cho Đồng Minh.

Sau chiến tranh, Hoa Kỳ là nước thu lợi lớn trong khi các nước châu Âu thì tổn hại nghiêm trọng. Hoa Kỳ tổn thất gần 50.000 lính tử trận, con số này rất nhỏ so với tổn thất của các nước Anh, Pháp, Đức, Nga. Các nước châu Âu đều bị tàn phá nặng, trong khi lãnh thổ Hoa Kỳ không bị tổn hại gì, lại còn thu được lợi nhuận khổng lồ từ các hợp đồng xuất khẩu hàng hóa cũng như các khoản bồi thường chiến phí từ các nước bại trận. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn chiếm thêm được một số thuộc địa từ tay Đế quốc Đức ở khu vực Thái Bình Dương.

Những nguyên nhân nói trên đã giúp kinh tế Hoa Kỳ vượt qua các nước châu Âu kể từ sau thế chiến 1. Trước chiến tranh, Đế quốc Anh sở hữu hơn một nửa trọng tải tàu biển trên thế giới, trong khi Hoa Kỳ chỉ chiếm 5%, nhưng vào cuối Thế chiến, vị thế đó đã được thay đổi. Nước Anh chỉ còn chiếm không quá 35% trong khi Hoa Kỳ sở hữu 30% trọng tải vận chuyển đường biển trên thế giới. Tương tự như vậy, Hoa Kỳ đã đạt được sự thống trị với thị trường than, điều mà Anh đã đánh mất. Vào cuối cuộc chiến tranh, kinh tế các nước châu Âu tham chiến đều bị "hút máu" đến cạn kiệt và lâm vào nợ nần với chủ nợ là Hoa Kỳ. Gần một nửa số vàng dự trữ của thế giới đã chuyển sang nằm trong tay của Hoa Kỳ, các khoản nợ tích lũy của châu Âu với Mỹ đã lên tới trên 18 tỷ USD [tương đương hơn 300 tỷ USD thời giá 2015].

Cách mạng tại Nga, Nga ra khỏi chiến tranh

Tướng Nga Brusilov năm 1917

Nền kinh tế Nga không chịu nổi sức nặng chiến tranh, dân chúng khốn cùng, thất nghiệp, chết đói... Lại cùng những thất bại nặng nề trước quân Đức trên mặt trận, tất cả những cái đó gây bất mãn cao độ trong nhân dân và quân đội. Quân lính đã quá khổ vì chiến tranh lại căm thù tầng lớp sĩ quan quý tộc, không còn lòng ái quốc ban đầu khi mới chiến đấu. Mâu thuẫn nội bộ của quân đội Nga cũng là quá lớn: thậm chí chiến dịch tấn công của tướng Brusilov tháng 6 năm 1916 chống quân Áo – Hung tại Galicia cũng bị các sĩ quan cao cấp khác ghen ghét, không chịu hợp tác.

Nền kinh tế Đế quốc Nga vốn yếu hơn Đức, Anh, Pháp nên không chịu được cường độ cao của cuộc chiến tranh. Lệnh tổng động viên 10 triệu người tham gia nhập ngũ đã làm cho sản xuất nông nghiệp thiếu nhân lực nghiêm trọng nên ngày càng suy thoái. Từ năm 1916 đến 1917, sản lượng lương thực giảm 20%. Nạn mất mùa, đói kém xảy ra khắp nơi. Sản xuất công nghiệp cũng đình đốn trong chiến tranh nên nạn thất nghiệp tăng nhanh. Nền tài chính nước Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng. Từ tháng 8 năm 1914 đến tháng 3 năm 1917, triều đình Nga hoàng đã chi vào cuộc chiến 29,6 tỷ Rupee, cao gấp 3 lần tổng thu quốc khố. Để có tiền chi dùng cho cuộc chiến, triều đình liên tục trưng thu những loại thuế mới và tổ chức bán quốc trái trong nhân dân. Tổng số quốc trái tính từ đầu 1914 là 8,8 tỷ Rupee đã tăng lên 36,6 tỷ Rupee vào năm 1917.

Mặt hàng quan trọng nhất là ngũ cốc, các phú nông và thương buôn đã đầu cơ, tích trữ lương thực: giá lương thực tăng cao hơn so với bất kỳ loại hàng hóa khác trong chiến tranh. Năm 1916, giá lương thực tăng cao hơn so với mức lương 3 lần, mặc dù vụ mùa bội thu trong cả hai năm 1915 và 1916. Giá ngũ cốc từ 2,5 rúp được dự đoán sẽ tăng lên đến 25 rúp. Với giá lương thực đắt đỏ, trong suốt năm 1916, người lao động ở đô thị Nga chỉ ăn trung bình khoảng từ 200 đến 300 gram lương thực cho mỗi ngày. Năm 1917, dân cư ở các đô thị của Nga được phép mua chỉ 450 gram bánh mỳ cho mỗi người lớn mỗi ngày. Tới mùa thu năm 1917, nước Nga đã lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị hết sức trầm trọng. Sản xuất công nghiệp chỉ bằng 36,4% so với năm trước. Giao thông vận tải hầu như bị tê liệt. Nạn đói đã xảy ra ở nhiều vùng trong nước, nhất là ở các thành phố. Các mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt.

Lenin diễn thuyết kêu gọi nhân dân đứng lên làm cách mạng, tháng 5/1917

Đến năm 1917, người dân Nga đã quá căm giận nhà cầm quyền và không thể chịu nổi gánh nặng chiến tranh, nhất là khi quân Đức chỉ còn cách Thủ đô hơn 100km. Mặt khác những người Cộng sản Nga [Bolshevik] đã kêu gọi người dân chống chiến tranh đế quốc, "Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng". Nhân dân và binh sĩ đã không thể chịu nổi và muốn theo Đảng Bolshevik của Lenin tiến hành cách mạng. Đến tháng 3 năm 1917, Cách mạng tháng 2 đã nổ ra, Sa hoàng thoái vị. Đây là bước chuyển để những người Bolshevik thắng lợi hoàn toàn trong Cách mạng tháng Mười Nga. Tuy giữa hai cuộc cách mạng, nước Nga vẫn còn trong khối Đồng minh ba bên nhưng thực tế sau cách mạng tháng 2, quân đội Nga đã tan rã, không còn kỷ luật, quân sĩ tự bỏ ngũ, tự rút lui, có nơi họ còn truy lùng các sĩ quan mà trước đây họ căm thù để xử lý. Mặt trận phía Đông nhanh chóng biến mất, quân Đức nhân đà tan rã của quân Nga nhanh chóng theo chân kéo sâu vào lãnh thổ Nga để ra yêu sách.

Lãnh thổ Nga mất theo Hiệp ước Brest-Litovsk

Sau cách mạng tháng 10, Lenin đề nghị các nước tham chiến ngừng chiến tranh ngay lập tức, không đánh chiếm lãnh thổ của nhau, không bắt nhau phải bồi thường chiến phí. “Sắc lệnh về hòa bình” của Nhà nước Xô-viết lên án mọi chính sách đế quốc Chủ nghĩa, phản đối chiến tranh xâm lược, bảo vệ hòa bình và quyền bình đẳng, quyền tự quyết định vận mệnh của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Lênin nêu rõ: “Chiến tranh là một tội ác lớn nhất đối với nhân loại... Chúng ta đấu tranh chống sự dối trá của các chính phủ, trên lời nói thì tất cả đều nói về hòa bình, về công lý, nhưng trong việc làm lại tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược và cướp bóc...”. Lần đầu tiên chiến tranh xâm lược của Chủ nghĩa đế quốc bị lên án, bị coi là tội ác lớn nhất chống lại nhân loại.[48]

Với việc ký kết hoà ước Brest-litovsk riêng rẽ với Đức vào ngày 3 tháng 3 năm 1918, nước Nga Xô Viết ra khỏi chiến tranh với những nhân nhượng rất lớn: trao cho Đức vùng Ba Lan, Tây Belarus, Ukraina, các tỉnh Baltic, trả bồi thường 6 tỷ mark vàng cho Đức, ngoài ra nước Nga Xô viết không thể đủ lực lượng để ngăn cản phong trào đòi độc lập của Phần Lan nên đã dễ dàng trao trả độc lập cho nước này. Cuối cùng, Nga đã mất khoảng 842.000 km2 [chiếm 15,4% tổng diện tích trước chiến tranh], nơi sinh sống của 31,5 triệu người [23,3% dân số trước chiến tranh của Đế quốc Nga]. Việc nhân nhượng Đức nằm trong dự tính của Lenin rằng nước Đức sẽ sớm thất bại trong thế chiến 1. Kế hoạch của Lenin thực chất là một biện pháp "câu giờ": ký hòa ước để nước Nga thoát khỏi được chiến tranh và tiết kiệm được xương máu của nhân dân. Đến khi Đế quốc Đức sụp đổ thì hòa ước cũng vô hiệu, nước Nga khi đó cũng chẳng còn phải bồi thường chiến phí nữa.

Nhận định này là chính xác khi chỉ 8 tháng sau, nước Đức bại trận và hoà ước Brest-litovsk trở nên vô hiệu. Sau đó, nước Nga Xô viết đã tiến quân thu hồi lại phía đông Ukraina và Belarus. Nhưng phần tây Ukraina, Tây Belarus đã bị kẻ thù mới là Ba Lan chiếm mất, vùng Berbassia thì bị Romania chiếm mất. Phải đến trước Thế chiến II, Liên Xô mới nhân lúc Đức đang tấn công mặt trận phía Tây, tranh thủ giành lại các vùng Tây Belarus, Tây Ukraina, Berbassia, Baltic và nhập các vùng này vào lãnh thổ Liên Bang Xô viết.

1918:Phe Trung tâm thua trận

Trong năm 1918, Đế chế Đức huy động những nỗ lực tấn công cuối cùng nhưng đều thất bại. Khi Đức đã kiệt quệ các nguồn lực, Đồng minh tấn công tổng lực và giành thắng lợi lớn. Nước Đức đã quá suy kiệt và cách mạng đã nổ ra, lật đổ hoàng đế Đức. Trong khi đó, quân Áo - Hung đại bại tại Ý, ngọn lửa phong trào dân tộc Chủ nghĩa đã bùng cháy ở nhiều miền đất trên khắp Đế quốc Áo - Hung. Vào tháng 10 năm 1918, Đế quốc Áo - Hung sụp đổ.[49] Phe Trung tâm đầu hàng.

Cuộc tấn công mùa xuân của Đức

  • Bài chi tiết: Tổng tấn công Mùa xuân 1918

Việc Nga rút khỏi chiến tranh khiến cho mặt trận phía Đông đã kết thúc hoàn toàn, điều này cho phép Đức có thể rảnh tay rút về một lực lượng quân đội lớn để chi viện cho mặt trận phía Tây. Với gần 1 triệu quân Đức đã được chuyển từ phía Đông để tăng viện cho mặt trận phía Tây, Bộ Tổng tham mưu Đức trù tính một trận tổng tấn công thắng lợi trước khi quân đội Hoa Kỳ có thể kịp triển khai.

Các chỉ huy của Đức Hindenburg và Ludendorff

Kế hoạch của Đức là đánh vào tuyến phân chia của quân Anh và Pháp tại đầu mối đường sắt Amiens [chiến dịch Michael] chiến dịch bắt đầu 21 tháng 3 năm 1918. Khác với mọi chiến dịch tấn công trước đây, lần này quân Đức áp dụng chiến thuật bộ binh xung kích và thành công lớn, tiến nhanh mạnh về phía trước 60km. Thủ đô Paris bị uy hiếp, quân Anh-Pháp đã kiệt quệ, thậm chí vua Wilhelm II công bố ngày 24 tháng 3 là ngày hội quốc gia, nhiều người Đức đã thấy thắng lợi đã đến gần. Tuy nhiên sau những trận đánh ác liệt và với việc 1 triệu quân Mỹ đã chính thức tham chiến, quân Đức đã bị chặn đứng với thương vong trong khoảng tháng ba và tháng tư là gần 30 vạn người.

Xe tăng Mk IV của Anh bị quân Đức tịch thu và sử dụng trong cuộc Tổng tấn công Mùa xuân 1918

Tiếp theo chiến dịch Michael quân Đức tuyệt vọng ném thêm quân liên tiếp vào các chiến dịch tiếp theo nhưng đó đã là những nỗ lực ngày càng bất lực [cho dù họ đạt được chiến thắng vang dội trong trận sông Aisne lần thứ ba[50]], và cuối cùng là cố gắng bao vây Reims vào ngày 15 tháng 7 năm 1918 đó là trận sông Marne lần thứ hai, tại đây liên quân Anh-Pháp phản công thắng lợi. Đến cuối tháng 7, tại nhiều nơi quân Đức phải ngừng tấn công hoặc bị đẩy lại trở về vị trí ban đầu. Nỗ lực tấn công cuối cùng của Đức đã tiêu tan.

Chiến dịch mùa xuân 1918 là một thành công về mặt tác chiến của Đức khi họ chiếm được thêm lãnh thổ, tiêu diệt được hơn 1 triệu quân Anh-Pháp-Mỹ. Tuy vậy, quân Đức cũng tổn thất gần 69 vạn quân, đây là tổn thất mà Đức không thể bù đắp được do nước Đức đã huy động gần hết nam giới của họ ra trận. Trong khi đó, do có dân số đông hơn, liên quân Anh-Pháp-Mỹ có thể tiếp tục huy động tân binh để bù đắp tổn thất. Trong sáu tháng, sức mạnh của quân đội Đức đã giảm từ 5,1 triệu quân xuống còn 4,2 triệu, đến tháng 6/1918 thì quân số Đức đã tụt xuống ít hơn quân số của Anh-Pháp-Mỹ. Binh lực của Đức đã kiệt quệ và họ không còn khả năng ngăn chặn đòn phản công sắp tới của liên quân Anh-Pháp-Mỹ.

Đồng minh tấn công tổng lực thắng lợi

Khi Quân Đức đã rã rời suy kiệt, không còn dự bị để phát triển tiến công, liên quân Entente liền huy động tổng phản công trên toàn mặt trận. Quân Đức đã cạn kiệt về quân số và đạn dược nên không còn khả năng chống trả mạnh mẽ như trước đây nữa. Cuộc tấn công của liên quân đã phát triển thắng lợi và được gọi là 100 ngày tấn công: bắt đầu từ 8 tháng 8 bằng trận Amiens, liên quân đồng loạt phối hợp tấn công: với tập đoàn quân của Pháp bên phải, quân Anh bên trái, các quân đoàn Canada và Úc làm mũi nhọn tấn công chính diện với hàng trăm xe tăng và 12 vạn quân đã đánh lui quân Đức hàng chục km. Chiến thắng lớn tại Amiens trở thành chiến tích lớn nhất của Quân đội Anh trong cuộc Đại chiến thứ nhất, và cũng là thắng lợi lớn nhất của phe Entente trên Mặt trận phía Tây kể từ sau trận sông Marne lần thứ nhất.[51]

Sau mấy tuần tiến công thắng lợi, ngày 21 tháng 8 quân Anh tổ chức trận Sông Somme lần thứ hai đánh lui tập đoàn quân số 2 của Đức về vị trí của phòng tuyến Hindenburg là phòng tuyến bắt đầu chiến tranh. Đến cuối tháng 9, sau các cố gắng bất thành, liên quân dừng lại ở tuyến Hindenburg và tại đây sau cách mạng tại Đức, quân Đức đã đầu hàng.

Cách mạng tại Đức

Bài chi tiết: Cách mạng Đức 1918

Đức đã hoàn toàn suy kiệt trong chiến tranh. Trong tháng 10 trong nước rối loạn chẳng còn ai còn tin vào ảo tưởng chiến thắng nữa chỉ trừ Tổng chỉ huy Erich Ludendorff và một số tướng lĩnh quân phiệt. Ludendorff cùng Đô đốc Reinhard Scheer trù tính dùng toàn lực hạm đội Đức tổ chức một trận hải chiến mang tính phiêu lưu xông thẳng vào hạm đội đối phương để tỏ rõ vinh quang của hạm đội Đức. Các tướng lĩnh quân phiệt Đức âm mưu không thông báo cho Thủ tướng vì biết rằng hành động này sẽ không được chấp nhận. Tuy nhiên tin tức về cuộc tấn công đã được các thuỷ binh tại hải cảng Kiel biết, họ nổi loạn vì không muốn làm một việc tự sát. Náo loạn và cách mạng bắt đầu từ đây, Hoàng đế Wilhelm II phải cách chức Ludendorff. Chính quyền được trao từ tay giới quân nhân sang cho các chính Đảng tại Quốc hội Đức [Reichstag]. Ludendorff tuyên bố chính quyền dân sự sẽ làm đất nước thua trận và là "nhát dao đâm vào sau lưng quân đội". Đây là luận điểm của các lực lượng phục thù muốn bào chữa cho thất bại của Đức trong đó có Đảng Nazi [Đảng Công nhân Đức quốc gia Xã hội Chủ nghĩa hay Đảng Quốc xã] sau này của Adolf Hitler.

Công tước Max von Baden được chỉ định làm thủ tướng và ngay lập tức bắt đầu đàm phán hoà bình. Ngày 9 tháng 11 năm 1918 von Baden tuyên bố nhà vua phải thoái vị, đế quốc Đức sụp đổ, vua Wilhelm II được Hà Lan cho tị nạn chính trị và Cộng hoà Weimar ra đời.

Phe Trung tâm đầu hàng

Bắt đầu từ cuối tháng 9 năm 1918, phe Trung tâm nhanh chóng đầu hàng: đầu tiên là Bulgaria [29 tháng 9], Đế quốc Ottoman [30 tháng 10], 2 nước Áo, Hungary [4 tháng 11] đầu hàng riêng biệt do Đế quốc Áo - Hung của Vương triều Habsburg đã sụp đổ.

Vào ngày 8 tháng 11 năm 1918, phái đoàn Đức đến toa tàu hoả riêng của Thống chế Ferdinand Foch tại cánh rừng Compiegne [Pháp]. Khi Foch hỏi họ đến để làm gì, họ nói với ông ta rằng họ muốn nghe những lời thỉnh cầu ngừng bắn của phe Entente. Foch trả lời rằng ông ta không hề có yêu cầu ngừng bắn gì cả. Nhưng rồi, Matthias Erzberger đã buộc Foch phải đọc các điều khoản của thỏa thuận ngừng bắn. Vào ngày 11 tháng 11 năm 1918, cũng chính tại toa tàu hỏa cá nhân của Foch, ngừng bắn được ký kết giữa hai bên.[52]

Ngày 28 tháng 6 năm 1919 các nước thắng trận đã ký hiệp định hoà bình với Đức là Hiệp định Versailles với các hạn chế ngặt nghèo cho sự phát triển sau chiến tranh của Đức [phải đến tháng 10 năm 2010 nước Đức mới hoàn thành xong khoản chiến phí nặng nề cho cuộc chiến này]. Và các hiệp định hoà bình cũng được ký kết giữa phe thắng trận với từng quốc gia thua trận là Áo, Hungary và Bulgaria. Đến năm 1920, phe Entente ký kết Hòa ước Sèvres với Sultan Mehmed VI theo đó Đế quốc Ottoman phải chịu vô cùng thiệt thòi.[53] Đây là một đòn giáng nặng nề vào Đế quốc Ottoman.[54] Chiến tranh thế giới thứ nhất đã kết thúc.

Mục lục

Học thuyết của những người BolshevikSửa đổi

Những người Bolshevik, sau này là Đảng cộng sản Liên bang Xô viết [KPSS], ban đầu chỉ giữ được quyền lực trong tình trạng yếu ớt, hiểm nghèo. Trong chính đảng của họ cũng bị chia rẽ giữa sĩ quan và binh lính về cách thức và một số vấn đề chính sách. Mặc dù có những vấn đề đó, họ nhanh chóng củng cố việc nắm giữ quyền lực và từng bước mở rộng phần lãnh thổ kiểm soát, và ban hành các đạo luật ngăn cấm bất kỳ một đảng chính trị đối lập nào dưới khẩu hiệu "chủ nghĩa tập trung dân chủ".

Trước cách mạng, học thuyết Bolshevik về dân chủ, chủ nghĩa tập trung kết luận rằng chỉ một tổ chức chặt chẽ và bí mật là có thể lật đổ chính phủ thành công; sau cách mạng, họ cho rằng chỉ một tổ chức như vậy mới có thể đánh bại các kẻ thù bên trong và bên ngoài. Việc tham gia cuộc nội chiến càng đưa họ đến việc đưa các nguyên tắc đó ra thực hiện.

Cho rằng điều cách mạng cần không phải là một tổ chức nghị viện nhỏ nhặt mà là một đảng hành động với các chức năng như một tổ chức khoa học chỉ đạo, một đội quân tiên phong gồm những nhà hoạt động và một cơ quan kiểm soát trung ương, Lenin cấm các bè phái trong Đảng. Ông cũng cho rằng Đảng phải là một tổ chức tinh hoa gồm những nhà cách mạng chuyên nghiệp, sẵn sàng cống hiến đời mình cho sự nghiệp chung và thực hiện các quyết định của họ với một kỷ luật sắt, theo đó cần phải đưa các nhà hoạt động trung thành với đảng nắm trách nhiệm quản lý các viện chính trị cũ và mới, các đơn vị quân đội, nhà máy, bệnh viện, trường đại học, và các điểm phân phối thực phẩm. Dựa trên nền tảng đó, hệ thống Nomenklatura sẽ tiến triển và trở thành tiêu chuẩn thông lệ.

Về lý thuyết, hệ thống đó là dân chủ bởi vì mọi cơ quan của đảng lãnh đạo được bầu từ bên dưới, nhưng cũng là tập trung hóa bởi vì các hội đồng cấp dưới sẽ chịu trách nhiệm trước các tổ chức cấp trên. Khi thực hiện, "nguyên tắc tập trung dân chủ" còn tập trung hơn, với các quyết định của cơ quan cấp trên bắt buộc các cơ quan cấp dưới phải thi hành. Theo thời gian, các cán bộ đảng ngày càng trở thành những người có địa vị và chuyên nghiệp. Tư cách đảng viên đòi hỏi các kỳ thi, các lớp học đặc biệt, các trại, các trường và sự đề cử của ba đảng viên đương chức.

Tương quan các lực lượng của hai bênSửa đổi

Các lực lượng đứng về phía BolshevikSửa đổi

Lực lượng đông đảo nhất, nhiệt tình nhất ủng hộ phía Bolshevik chính là các công nhân và nông dân Nga. Tính đến năm 1913, tổng số công nhân nước Nga có khoảng 18 triệu [chiếm 10% dân cư], trong đó có khoảng 3,6 triệu công nhân công nghiệp. Các công nhân Nga có cuộc sống rất khó khăn dưới chế độ Nga Hoàng, hoàn toàn không được hưởng chút gì về tự do chính trị, có tinh thần cách mạng triệt để và chịu ảnh hưởng sâu đậm của những người Bolshevik. Giai cấp công nhân Nga có mối quan hệ mật thiết với giai cấp nông dân, lại có phân bố tương đối tập trung, thuận lợi cho việc tổ chức và lãnh đạo đấu tranh.

Một bộ phận khác ủng hộ phía Bolshevik là các nông dân Nga. Là giai cấp có số lượng đông đảo nhất nước Nga nhưng lại chịu sự bất công lớn nhất, lực lượng này đã được phía Bolshevik hứa sẽ đưa ruộng đất về cho mình. Khi chính quyền Xô Viết thông qua Sắc lệnh về ruộng đất, thỏa mãn được yêu cầu về tư liệu sản xuất của nông dân Nga: Đó là ruộng đất. Trong Sắc lệnh có quy định:

1] Nay hủy bỏ ngay lập tức và không có bồi thường quyền sở hữu ruộng đất của địa chủ.

2] Các điền trang của địa chủ cũng như những ruộng đất của các thái ấp, của các nhà tu và giáo hội với toàn bộ gia súc và nông cụ, tất cả những kiến trúc và nhà cửa phụ thuộc đều giao cho các ủy ban ruộng đất của tổng và các Xô Viết đại biểu nông dân huyện xử lý....

Trong các lực lượng khác ủng hộ phía Bolshevik còn có lực lượng binh lính cũ của Nga Hoàng. Nhiều đơn vị quân lính được giao nhiệm vụ đàn áp lực lượng ủng hộ Bolshevik đã chạy sang hàng ngũ cách mạng. Vốn đa số xuất thân từ nông dân, nhiều binh lính đã được phía Bolshevik giác ngộ về những quyền lợi giai cấp mà họ sẽ có được khi tham gia tiến hành cách mạng. Hơn nữa, nhiều đơn vị quân Nga Hoàng được thành lập từ những người công nhân Nga, vốn trước đây tham gia các cuộc biểu tình, tuần hành bạo động chống đối Nga Hoàng, đã bị nhà cầm quyền bắt lại và bị đẩy ra mặt trận bắn nhau với quân Đức. Khi cách mạng Tháng Mười nổ ra, những đơn vị này đang mang theo trang bị và vũ khí, đã quay sang ủng hộ và chiến đấu cho phía những người Bolshevik. Tiêu biểu nhất là tướng Aleksey Alekseyevich Brusilov, vị tướng nổi danh nhất của quân đội Nga trong thế chiến thứ nhất đã làm cố vấn chiến đấu cho Hồng quân. Những người thủy binh trong quân đội Nga Hoàng cũng là những người ủng hộ nhiệt thành cho cách mạng Tháng Mười. Do nổi danh từ vụ Thiết giáp hạm Potemkin năm 1905, những người Bolshevik rất để ý đến lực lượng này và đã thu được không ít thành công trong việc giác ngộ lực lượng thủy binh, lính thủy đánh bộ Nga Hoàng đứng về phía mình. Ngoài ra còn có nhiều đơn vị bộ binh, kị binh cũng như nhiều binh chủng khác đã được tuyên truyền từ trước khi chiến tranh thế chiến thứ nhất nổ ra, tuy mức độ có ít hơn.

Vào tháng 12 năm 1917, Cheka - lực lượng an ninh nội bộ đầu tiên của Bolshevik được thành lập. Sau đó nó đổi tên thành GPU, OGPU, MVD, NKVD và cuối cùng là KGB. Những "cảnh sát mật" này chịu trách nhiệm tìm ra những kẻ bị xem là chống đối cách mạng và trục xuất họ ra khỏi Đảng cộng sản và nhà nước Xô Viết hay đưa ra tòa. Vào mùng 5 tháng 9 năm 1918, Cheka được giao trách nhiệm thi hành chính sách Khủng bố Đỏ nhắm tới các thành phần sót lại của chính quyền Sa hoàng, dập tắt chống đối từ các đảng phái cánh tả như Các mạng Xã hội, Menshevik cũng như từ các đảng phái cánh hữu và các nhóm chống Bolshevik khác như người Kozak. Felix Dzerzhinsky, lãnh đạo đầu tiên của Cheka nói vào tháng 6 năm 1918 với tờ New Life: "Chúng tôi hiện thân là sự khiếp sợ được tổ chức - điều này cần phải được nói rất rõ ràng - sự khiếp sợ như vậy là rất cần thiết trong điều kiện cuộc sống của chúng ta hiện nay trong thời gian cách mạng."

Các lực lượng quân sự của phía Bolshevik, ban đầu được gọi với tên:"Cận vệ đỏ", sau được thống nhất với tên: "Hồng Quân":

  • Ngày 15 tháng 1 năm 1918: Hồng Quân Công Nông được thành lập.
  • Ngày 29 tháng 1 năm 1918: Hồng Hải Quân Công Nông được thành lập.

Các lực lượng chống lại BolshevikSửa đổi

Quân Bạch vệ [Đế quốc Nga]Sửa đổi

Lực lượng chống đối phái Bolshevik đầu tiên cần kể đến là những tướng tá, quý tộc cũng như nhiều sĩ quan cũ trong quân đội Nga Hoàng. Họ là những người đã bị tước bỏ hết tất cả các đặc quyền giai cấp, ruộng đất, các điền trang thái ấp được thừa hưởng từ những tổ tiên là quý tộc của họ, cũng như những lợi ích và vinh dự họ sẽ được hưởng khi chiến tranh kết thúc.

Bên cạnh đó là những đảng phái cánh tả cũng như cánh hữu bất đồng với những người Bolshevik vì đã thành lập nhà nước chuyên chính vô sản trong đó người Bolsevik nắm hầu hết các vị trí chủ chốt trong bộ máy chính quyền. Do các hoạt động tuyên truyền, biểu tình, bãi công, bạo lực chống lại người Bolsevik các đảng phái này lần lượt bị nhà nước Xô Viết đặt ra ngoài vòng pháp luật.

Giáo hội Nga cũng ủng hộ lực lượng Bạch Vệ do chính quyền Xô Viết đã thi hành một chính sách tịch thu nhiều tài sản của Giáo hội, thuyết phục các lực lượng ủng hộ mình từ bỏ tôn giáo, hạn chế nhiều nghi thức nhà thờ, thậm chí nhiều cán bộ Xô Viết đã ra lệnh đốt bỏ các nhà thờ của các cha đạo chống Xô Viết. Năm 1913, nước Nga có 367,2 triệu hecta đất trồng trọt thì hoàng tộc, địa chủ và tu viện đã chiếm 152,5 triệu hecta, phú nông chiếm 80 triệu. Chính sách chia ruộng đất cho nông dân của chính quyền Xô Viết khiến Giáo hội mất quyền sở hữu các mảnh đất rộng lớn. Ngoài ra, Giáo hội Nga muốn duy trì uy quyền như dưới thời Nga Hoàng, thời mà nước Nga giống như Châu Âu Trung cổ: Nhà thờ gắn liền với Hoàng tộc, chi phối xã hội và có quyền lực rất lớn.

Một bộ phận công nhân Nga đã được phái Menshevik tuyên truyền ủng hộ lực lượng Bạch vệ. Phái Menshevik và phái Bolshevik đã phân ly ra từ cùng một chính đảng, cả hai đều thừa hưởng nhiều di sản giống nhau, và lẽ tự nhiên là các cơ sở quần chúng của cả hai bên đều tương tự nhau. Ngoài ra còn do phái Bolshevik coi nhẹ tuyên truyền trong lực lượng công nhân công nghiệp nhẹ và các thợ thủ công, khiến phái Menshevik có ảnh hưởng không nhỏ trong các lực lượng này.

Một bộ phận nông dân Nga cũng ủng hộ lực lượng Bạch vệ. Nhiều nông dân mộ đạo bị phản tuyên truyền bởi Nhà thờ [tình trạng này cũng giống như hồi Cách mạng tư sản Pháp], họ tin vào lời của các cha xứ rằng Bolshevik là những "kẻ phản Chúa" nên đã chống lại Cách mạng. Hơn nữa có nhiều dân tộc trong Đế Chế Nga, như người Cossack, đã chống lại phe Bolshevik. Tại những vùng nông thôn Cossack có nhiều dân nghèo ủng hộ những người Bolshevik, nhưng nhiều vùng Cossack có đông tầng lớp trung nông, ít bần nông lại e ngại một cuộc cải cách ruộng đất do người Bolshevik thực hiện. Dưới thời Nga Hoàng, người Cossack luôn là thành phần được ưu ái. Họ được hưởng nhiều quyền lợi trong Đế chế Nga. Người Cossack được trực tiếp bầu ra các ataman của họ, được chọn vào trong các đơn vị ngự lâm quân của Nga Hoàng. Còn ở thời Bolshevik, người Cossack thờ ơ với Sắc lệnh về ruộng đất, chấm dứt chiến tranh là điều họ mong muốn nhưng e ngại bị trả thù do đã phục vụ Nga hoàng, bị phản tuyên truyền về việc ruộng đất của họ sẽ bị tước đoạt, đem chia cho những thành phần dân tộc khác. Ngoài ra do truyền thống phải suốt đời trung thành với các sĩ quan, hết lòng phụng sự Nga hoàng, sự vô kỉ luật của một số đơn vị Hồng Quân[5] đã khiến nhiều người Cossack đứng lên chống phía Bolshevik. Tình trạng trên cũng là tình trạng chung của nhiều dân tộc thiểu số khác trong đế quốc Nga.

Các dân tộc thiểu số vốn bị áp bức theo kiểu đế quốc trong hệ thống Đế chế Nga cũ khi chế độ Nga Hoàng sụp đổ, họ rất muốn đứng ra thành lập nhà nước độc lập của riêng họ. Chính quyền Xô Viết không muốn điều này xảy ra, vì họ sẽ bị mất các lãnh thổ rộng lớn, các khu vực địa lý có vị trí chiến lược. Điều này cũng sẽ tạo ra tiền lệ nguy hiểm cho các dân tộc khác trong một quốc gia nhiều dân tộc như Đế quốc Nga. Sự toàn vẹn lãnh thổ của nước Nga sẽ bị đe dọa, an ninh của Nga sẽ bị ảnh hưởng do nguy cơ các thế lực bên ngoài sẽ kích động các dân tộc vốn có hằn thù với người Nga tham gia vào việc làm suy yếu nước Nga.

Cuối cùng là các thế lực bên ngoài nước Nga luôn muốn đánh gục nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, âm mưu xâu xé nước Nga và các vùng lãnh thổ phụ thuộc của nó khiến các nước như Anh, Pháp, Nhật, Mỹ, Đức... tiến hành nhiều cuộc can thiệp bằng quân sự, cung cấp nhiều chuyến hàng viện trợ, công nhận các chính phủ do các lực lượng chống đối phía Bolshevik lập ra, đã giúp cho các lực lượng chống đối Bolshevik có thể tiến hành cuộc chiến được dai dẳng.

Những lực lượng chống đối Bolshevik, đa số tập trung dưới một ngọn cờ của quân Bạch Vệ.

Các lực lượng ngoại quốc ủng hộ quân Bạch VệSửa đổi

Cách mạng Tháng Mười Nga đã diễn ra và thành công khi Chiến tranh thế giới thứ nhất đang diễn ra và vào giai đoạn quyết liệt nên các cường quốc trên thế giới không rảnh tay can thiệp vào tình hình nước Nga. Nhưng sau khi chiến tranh kết thúc, các nước này đã từng bước leo thang chống lại chính quyền Xô Viết.

Các cường quốc trong khối Đồng Minh không công nhận chính quyền Xô Viết, lấy cớ nước Nga Xô Viết rút ra khỏi chiến tranh để phối hợp với các lực lượng chống đối trong nước, lật đổ chính quyền Xô Viết buộc nước Nga phải chấp nhận các lợi ích của Đế quốc Anh, Pháp và Mỹ.

Ngay từ cuối tháng 11/1917, các nước Phương Tây đã họp nhau tại Paris, quyết định hỗ trợ Bạch Vệ tiêu diệt nước Nga Xô viết. Bốn nước Mĩ, Anh, Pháp, Nhật Bản giữ vai trò chủ yếu trong "cuộc thập tự chinh chống cộng" này. Nước Đức tuy đã tạm thời ký hòa ước nhưng vẫn muốn chiếm được thêm nhiều vùng đất của Nga. Từ cuối năm 1917, các cường quốc trong khối Đồng Minh đã thảo ra một kế hoạch bao vây và tấn công nước Nga Xô Viết: Pháp sẽ tấn công và lật đổ chính quyền Xô Viết ở Ukraina, Krym, Bessarabia; Anh sẽ tấn công và lật đổ chính quyền Xô Viết ở phía bắc nước Nga, ở vùng sông Đông, Kuban, Kavkaz; Mỹ và Nhật sẽ tấn công ở vùng Viễn Đông và Siberia.

Tháng 12-1917, quân Rumani [được Pháp hỗ trợ] đã chiếm Bessarabia. Từ tháng 3 đến tháng 4/1918, quân đội các nước Đồng Minh [Anh, Pháp, Mỹ] đã xuất hiện tại vùng biên giới của nước Nga. Quân đội Anh, Mĩ, Pháp đổ bộ lên hải cảng Murmansk ở phía cực bắc. Quân đội Nhật Bản, sau đó là Mĩ, chiếm Vladivostok, hải cảng ở miền cực đông nước Nga. Quân Anh lại kéo tới Turkmenistan và Ngoại Kavkaz. Ngoài quân đội các nước Đồng Minh, quân Đức còn chiếm đóng các nước vùng Baltic, một phần Belarus, Ngoại Kavkaz và Bắc Ngoại Kavkaz. Trên thực tế, quân Đức còn kiểm soát cả Ukraina, dựng lên tại đây một chính quyền thân Đức.

Các lực lượng trung lậpSửa đổi

Trong lòng nước Nga còn có một nhóm nhỏ quân sự xuất thân từ các nông dân. Họ là những người nông dân đứng lên chống chế độ Nga Hoàng nhưng cũng không muốn ngả theo phía khác mà muốn độc chiếm một cõi như các địa chủ thời phong kiến. Họ đã tập trung lại thành nhiều nhóm nhỏ với nhau và được gọi là "Quân Xanh". Trong cuộc nội chiến, Quân Xanh nhiều khi ngả về phía Hồng Quân, nhưng cũng có nhiều nhóm Quân Xanh chống Hồng Quân.

Diễn biếnSửa đổi

Kế hoạch phát động cuộc nội chiếnSửa đổi

Ngay khi cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra, do lực lượng Cận Vệ Đỏ còn ít ỏi chỉ có hơn 1 triệu quân, đế quốc Nga lại quá rộng lớn nên những người Bolshevik đã không thể nắm chính quyền được ở nhiều vùng đất cũng như tiến hành truy quét các lực lượng của phe chống đối.

Như một tất yếu, các lực lượng chống đối của phía Bolshevik: quân Bạch Vệ đã hoạt động ngay từ phút đầu. Nhưng do lực lượng của Bạch Vệ còn chia rẽ ra thành nhiều phe phái [Nga Hoàng và gia đình đã bị chính quyền Xô Viết bắt giữ và xử tử hình vào tháng 7 năm 1918], binh lính hoang mang, nhiều đơn vị bỏ hàng ngũ, xử tử các sĩ quan và mang theo vũ khí bỏ về nhà khiến quân Bạch Vệ nhiều nơi phải rút đi để tập hợp lực lượng.

Tuy vậy do ưu thế tạm thời về vũ khí, trang bị và huấn luyện nên nhiều đơn vị Hồng Quân đã phải rút lui bởi thế tấn công của quân Bạch Vệ.

Tình hình chiến sự trong năm 1918Sửa đổi

Tháng 3 năm 1918, quân Anh, Pháp, Mỹ đổ bộ lên Murmansk. Họ chiếm Murmansk, Arkhangelsk và tiến theo hướng Moskva, Petrograd. Tháng 4-1918, quân Nhật đổ bộ lên Vladivostok, thành phố cực đông nước Nga. Sau đó các đơn vị quân viễn chinh Mỹ, Anh, Pháp, Ý cũng đổ bộ lên đó. Chính quyền Xô Viết ở đây bị lật đổ. Quân Bạch Vệ lần lượt chiếm các thành phố Yakut, Vecnêudinxcơ, Chita và nhiều thành phố khác. Tháng 8 năm 1918 quân Anh, Pháp đánh chiếm các thành phố cảng Odessa và Sevastopol trên bờ biển Đen nhằm giáng đòn tấn công vào vùng trung tâm nước Nga. Tháng 11 năm 1917, România được Pháp hỗ trợ đã chiếm Bessarabia. Tháng 5 năm 1918, Quân đoàn Tiệp Khắc nổi loạn ở vùng sông Volga và Siberia, tạo điều kiện cho lực lượng Bạch vệ ở đây gây bạo loạn lật đổ chính quyền Xô Viết và kêu gọi các thế lực nước ngoài hỗ trợ.

Ở Kazan, lực lượng Bạch vệ đã chiếm được kho bạc với 600 triệu rúp vàng, phần lớn số vàng dự trữ của Nhà nước Xô Viết.

Tại khu vực Tây Nam nước Nga, các nước đế quốc đã kích động và giúp sức cho các thế lực chống chính quyền Bolshevik ở Azerbaijan, Armenia nổi loạn. Ngày 31-07-1918, chính quyền Xô Viết ở Baku bị lật đổ, và 4 ngày sau, quân Anh đã chiếm Baku.

Trong khi đó quân Đức đã vi phạm hòa ước, cho quân xâm nhập vùng ngoại Kavkaz, vùng Sông Đông và vùng Krym. Quân Bạch vệ Cossack của các tướng Pyotr Krasnov và Konstantin Mamontov, được quân Đức giúp sức chiếm vùng sông Đông và tiến về thành phố Tsaritsyn [sau này là Volgograd]. Thực tế, Đức đã đánh chiếm Ukraine, dựng lên ở đây một chính phủ thân Đức[1].

Tại khu vực trung tâm nước Nga, các lực lượng chống đối cũng đã có nhiều hành động ngay trong nhiều thành phố, ngay cả ở Moskva. Ngày 06-07-1918, trong thời gian Đại hội lần V Xô Viết toàn Nga đang họp, phía Xã hội-Cách mạng, được sự giúp đỡ ngấm ngầm của các thế lực nước ngoài đã nổi loạn chống chính quyền Xô Viết ở Moskva. Để kiếm cớ gây ra cuộc chiến tranh với Đức, lực lượng này đã ám sát đại sứ Đức ở Moskva. Nhưng cuộc phiến loạn này đã nhanh chóng bị đập tan. [Ngày 14/07, chính phủ Đức đã đòi gửi 1 tiểu đoàn lính Đức đến bảo vệ sứ quán ở Moskva nhưng chính phủ Xô Viết đã từ chối lời đề nghị đó].

Mùa hè năm 1918, đất nước Xô Viết ở trong một tình huống cực kì khó khăn và nguy hiểm. Khoảng 14 vạn quân của 11 nước đế quốc và chư hầu [về sau tăng lên tới 30 vạn], cùng khoảng 1 triệu quân chống đối phía Bolshevik các loại đã chiếm được khoảng 3/4 lãnh thổ của đất nước Xô Viết. Họ đã chiếm được những trung tâm nguyên liệu, nhiên liệu và lúa mì. Nền kinh tế của đất nước rơi vào tình trạng cực kì khó khăn: các nhà máy phải đóng cửa vì thiếu nguyên liệu và nhiên liệu, giao thông bị đình trệ, nhân dân [nhất là dân các thành phố] lâm vào cảnh đói rét và bệnh tật. Các thế lực chống đối nổi lên ở nơi nơi: kể cả ở Moskva và Petrograd. Ngày 30-08-1918, các lực lượng Xã hội-Cách mạng đã tiến hành hoạt động ám sát Lenin nhưng thất bại. Tại các vùng bị chiếm đóng, các lực lượng thân Bolshevik bị truy sát, các đảng viên Bolshevik bị sát hại. Những nơi mà ruộng đất, tài sản đã được chia cho dân nghèo bị lấy lại.

Nhược điểm của lực lượng Bạch VệSửa đổi

Ngay trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, các tướng lĩnh quân đội Bạch Vệ đã tỏ thái độ mâu thuẫn với nhau và không đoàn kết. Các nhóm Bạch Vệ có chung mục tiêu là chống lại Bolshevik, nhưng đường lối sau đó của các nhóm lại khác hẳn nhau: có nhóm muốn khôi phục nền quân chủ chuyên chế của Nga Hoàng, có nhóm thì muốn thành lập Nhà nước quân chủ lập hiến giống như Anh, có nhóm muốn xây dựng nền cộng hòa nghị viện kiểu như Pháp, các nhóm cánh tả như Menshevik muốn xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, có nhóm chiến đấu vì niềm tin tôn giáo hoặc truyền thống bộ tộc, có nhóm chỉ muốn cát cứ ly khai thành một nước riêng, thậm chí có nhóm chiến đấu chỉ để cướp bóc của cải... Do sự bất đồng, các nhóm Bạch Vệ không có khả năng cố kết thành một lực lượng thống nhất, dưới quyền lãnh đạo của một thủ lĩnh chung, hầu như quân đội của họ đều chiến đấu rời rạc. Các tướng Bạch Vệ như những sứ quân biệt lập, mạnh ai người nấy chiếm đất giành dân, có những nhóm còn quay sang đánh lẫn nhau. Các tướng lĩnh này cũng không thể nắm rõ được tình hình của các đội quân dưới quyền.

Quân lính của Bạch Vệ cũng là những người nông dân, mong ngóng hòa bình được lập lại để quay về với đồng ruộng của mình. Binh lính thấy rõ sự khác nhau trong cách chỉ huy của các sĩ quan của mình so với các sĩ quan Hồng Quân. Sắc lệnh ruộng đất được ban ra và thi hành đã tạo tâm lý hứng khởi cho các nông dân Nga. Điều này tác động lớn đến tinh thần của binh sĩ trong quân đội Bạch vệ có gia đình sống trong vùng do chính quyền Xô Viết kiểm soát. Lực lượng Bạch Vệ tuyên truyền thiếu hiệu quả, chính bản thân các tướng lĩnh Bạch Vệ cũng là quý tộc, có nhiều đặc quyền đặc lợi nên họ không thể đưa ra được những hứa hẹn cải cách ruộng đất [chia đất cho nông dân] như những người Bolsevik, nên quân lính Bạch Vệ dần nản lòng, họ đào ngũ hoặc chạy sang phía Hồng quân.

Thêm vào đó việc quân đội nước ngoài tấn công vào lãnh thổ Nga để giúp Bạch Vệ khiến cho những người Nga tức giận. Không một dân tộc nào trên thế giới cảm thấy sung sướng khi thấy quân đội nước ngoài xuất hiện trên lãnh thổ của mình. Lòng tự hào dân tộc của người Nga khiến cho họ nhìn thấy các đơn vị Bạch Vệ như những kẻ phản quốc.

Các quân đội nước ngoài như Anh, Mỹ, Đức... thì đã tham gia nhiều cuộc chiến, tâm lý chung của binh lính là không muốn chiến đấu. Hơn nữa các điều kiện nội tại của các nước cũng không thể khiến chính phủ cho quân đội đặt chân lâu trên nước Nga. Các đội quân nước ngoài cuối cùng cũng phải rút đi, họ chỉ gửi các nguồn viện trợ cho quân Bạch Vệ. Cả vấn đề này cũng bị chỉ trích nên khi quân Bạch Vệ suy yếu, các nguồn viện trợ này sẽ bị cắt giảm ngay.

Các biện pháp đối phó của Đảng BolshevikSửa đổi

Trước tình hình khẩn cấp, Đảng Bolshevik buộc phải đáp trả bằng những biện pháp cứng rắn và quyết liệt.

Lenin diễn thuyết trong sự ủng hộ của binh sĩ Hồng quân.

Trước hết là phải thanh trừng các lực lượng chống phá trong hậu phương. Chiến dịch "khủng bố đỏ" được thi hành, tấn công quyết liệt vào các phần tử "có quan hệ với các tổ chức bạch vệ, các âm mưu và bạo loạn". Khủng bố đỏ rất khốc liệt, nhưng cũng rất hiệu quả trong việc ổn định tình hình an ninh tại hậu phương.

Tháng 9 năm 1918, nước Cộng hòa Xô Viết tuyên bố là một mặt trận quân sự thống nhất. Tháng 11 năm 1918, Hội đồng quốc phòng công nông được thành lập. Về sau, tháng 6 năm 1919, các nước Xô Viết Nga, Ukraine, Belarus, Lithuana, Latvia, Estonia ký kết liên minh quân sự, thành lập bộ chỉ huy thống nhất[2].

Muốn chiến đấu thì phải có quân đội. Lenin yêu cầu cần phải có một lực lượng 3 triệu quân. Đồng thời, Hồng quân đặc biệt xem trọng chất lượng chính trị, kỉ luật nghiêm minh. Chế độ nghĩa vụ quân sự được thực hiện. Và những người Bolshevik có một ưu thế: họ kiểm soát được những vùng đông dân nhất nước. Vì thế, quân số tăng nhanh chóng: từ 50 vạn [trước mùa hè 1918], đến tháng 9-1919 đã là 3,5 triệu, "vượt chỉ tiêu". Cuối năm 1920 còn đông hơn: 5,3 triệu.

Chính sách kinh tế cũng thay đổi. Năm 1919, Đảng Bolshevik thực thi chính sách cộng sản thời chiến: Nhà nước độc quyền mua bán lương thực, trưng thu lương thực thừa, cấm đầu cơ tích trữ, trực tiếp nắm toàn bộ công nghiệp, thực hiện chế độ lao động bắt buộc toàn dân, thi hành trả lương bằng hiện vật, áp dụng chế độ ăn uống miễn phí với trẻ em, công nhân công nghiệp, đường sắt, giao thông[3] nhằm mục đích điều phối và tận dụng hiệu quả nhất các nguồn lực quốc gia cho cuộc chiến.

Các chính sách của những người Bolshevik tuy nhiều lúc khắc nghiệt, nhưng rất hiệu quả trong tình hình chiến cuộc căng thẳng lúc đó. Nửa sau năm 1918, Quân đoàn Tiệp Khắc bị đánh tan và dạt sang bên kia dãy núi Ural. Quân đoàn Bạch vệ Sông Đông của Pyotr Krasnov bị tiêu diệt. Các lực lượng nổi loạn và gián điệp ở hậu phương đã bị "khủng bố đỏ" trấn áp.

Nước Cộng hòa Xô Viết đã sẵn sàng cho những trận đánh lớn vào năm 1919.

Tình hình chiến sự năm 1919-bước ngoặt của cuộc nội chiếnSửa đổi

Khoảng tháng 3 năm 1919, đại hội VII đảng Bolshevik được tổ chức, thông qua cương lĩnh mới của Lenin, và đổi tên từ Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga thành Đảng Cộng sản Liên Xô. Đại hội kết thúc trong lúc tình hình chiến sự diễn biến phức tạp hơn.

Chiến tranh thế giới thứ nhất chấm dứt là cơ hợi thuận lợi cho các nước đế quốc can thiệp sâu rộng. Tới tháng 2 năm 1919, có 13 vạn quân nước ngoài ở Nam Nga, ở Viễn Động là 15 vạn, ở phía Bắc là 20 vạn, tổng cộng lên đến 30 vạn. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, họ chỉ chủ yếu ủng hộ qua việc viện trợ, còn các đội quân Bạch vệ vẫn là lực lượng chủ yếu chống lại phe Bolshevik.

Mùa xuân năm 1919, các lực lượng Bạch vệ bắt đầu tấn công:

  • Tại phía Đông, đô đốc Pyotr Krasnov và Quân đoàn Tiệp Khắc chiếm đóng Siberia, Ural nhằm hướng tới sông Volga, uy hiếp Samara, Kazan.
  • Ở phía Nam, tướng Anton Denikin chiếm Kiev, Kharkov và có lúc uy hiếp cả Tula, Moskva.
  • Tướng Yevgeny Miller cùng quân đội Mĩ, Anh, Pháp tấn công ở phía Bắc, còn phía Tây Bắc là quân của tướng Nikolai Yudenich.
  • Ở phía Tây, quân đội Ba Lan đã xâm lược Ukraina, Belarus.

Một lần nữa, chính quyền Bolshevik lại lâm vào tình hình nguy hiểm: gần như toàn bộ các lực lượng Bạch vệ đã dốc toàn lực tổng tấn công, bao vây từ nhiều hướng. Họ có quân số không phải là ít ỏi, lại được sự ủng hộ của các nước đế quốc. Trong khi Hồng quân Xô Viết chỉ có một mình. Những người Bolshevik đang trải qua một thời kì nặng nề nhất trong cuộc nội chiến mà nêu không vượt qua, họ sẽ mất hết.

Không thể nào cùng lúc đối chọi tất cả các đội quân Bạch vệ, Hồng quân đã lợi dụng sự rời rạc và mâu thuẫn giữa các phe phái của phía Bạch vệ, lần lượt tiêu diệt từng thế lực một. Trước hết, là "tất cả để chiến đấu với Kolchak". Mọi lực lượng đều dồn cho việc đánh bại đội quân Kolchak. Tháng 7-1919, Hồng quân đã đánh chiếm Ural, đẩy lùi Kolchak đến tận Siberia. Cuối năm, quân Kolchak hoàn toàn thất bại. Bản thân ông bị bắt và bị xử tử ở Irkutsk.

Đồng thời, cuộc tấn công của Yudenich vào Petrograd cũng thất bại hoàn toàn.

Trước những thất bại của Kolchak và Yudenich, từ nửa sau năm 1919 các nước đế quốc đã chuyển trọng tâm xuống phía Nam với lực lượng chủ yếu của Denikin. Đội quân của Denikin chiếm đóng toàn bộ miền Nam nước Nga với nhiều vùng nhiên liệu chủ yếu và vùng lúa mì quan trọng. Họ cũng được sự viện trợ mạnh của nước ngoài về vũ khí, phương tiện chiến tranh [kể cả xe tăng, máy bay] và cả sĩ quan chỉ huy. Người Anh phái tới gần 2000 sĩ quan và vũ khí của Mĩ có thể trang bị cho đội quân 10 vạn người[4]. Rõ ràng đây là một đối thủ đáng gờm của những người Bolshevik.

Khẩu hiệu bấy giờ thành "tất cả để chiến đấu với Denikin". Chiến cuộc diễn ra hết sức cam go và quyết liệt. Chính quyền Bolshevik buộc phải thi hành nhiều biện pháp khẩn cấp, huy động toàn bộ mọi nguồn tài lực và vật lực cho cuộc chiến. 8 vạn đảng viên và đoàn viên đã được điều động ra mặt trận. Cuối cùng, Hồng quân cũng giành được những thắng lợi quyết định ở Orel và Voronezth [10-1919]. Lực lượng Denikin phải rút xuống Krym. Đầu năm sau, Hồng quân đã kiểm soát được Ukraine và Bắc Kavkaz.

Các đội quân nước ngoài cũng bị đẩy lùi ở khắp các mặt trận và phải rút quân dần dần ngay từ năm 1919.

Năm 1919 được đánh giá là một bước ngoặt lớn của cuộc nội chiến. Với việc các lực lượng căn bản của quân Bạch vệ bị đánh tan và Hồng quân giành lại được những vùng đất quan trọng, phe Bolshevik từ tình thế hiểm nghèo đã tiến lên giành lấy ưu thế của cuộc chiến. Các nước đế quốc cũng không thể can thiệp sâu hơn nữa, đành phải rút dần quân và cắt giảm viện trợ. Phe Bạch vệ chưa bị đánh bại hoàn toàn nhưng đã không còn đủ khả năng giành lại thế chủ động trên chiến trường.

Tình hình chiến sự năm 1920-lực lượng Bạch vệ bị đánh bại hoàn toànSửa đổi

Tình hình chiến sự đầu năm 1920 đã dần dần lắng dịu trở lại. Những người Bolshevik đã tranh thủ thời gian này để khôi phục lại đất nước bị tàn phá sau nhiều năm chiến tranh, đồng thời cũng tăng cường việc tiến đánh các lực lượng còn lại của Bạch vệ. Đại hội Đảng lần IX ngày 29 tháng 3 năm 1920 đã đề ra kế hoạch khôi phục nền kinh tế quốc dân. Cùng lúc, Hội đồng ủy viên nhân dân quyết định thành lập Ủy ban Nhà nước Điện khí hóa nước Nga [GOELRO] với kế hoạch điện khí hóa cả nước. Tình hình kinh tế đã có một số biến chuyển theo hướng tích cực.

Tuy nhiên, những người Bạch vệ vẫn chưa nguôi hy vọng. Họ vẫn tìm mọi cách giành lại vị thế đã mất. Trong tình hình đó - được sự giúp đỡ của Anh, Pháp, Mĩ - quân đội Ba Lan đã tấn công vào Ukraine [25-4-1920] với mục đích đòi lại những vùng đất từng bị Đế quốc Nga lấy mất. Ngày 6 tháng 5, Kiev thất thủ. Chớp thời cơ, lực lượng Bạch vệ còn lại của Wrangel, Anatoly Pepelyayev và Yudenich nổi dậy hỗ trợ. Thậm chí Wrangel đã đề ra kế hoạch tấn công vào Moskva.

Một lần nữa, chiến cuộc lại bùng nổ. Sau một thời gian bị động, ngày 14 tháng 5 năm 1920 Hồng quân bắt đầu phản công. Đến tháng 7, các cuộc phản công thu được kết quả khả quan. Quân Ba Lan bị đẩy lui và sau đó bị đánh bật khỏi Ukraine. Nhân cơ hội, Hồng quân tràn vào Ba Lan, mưu toan biến Ba Lan thành bàn đạp cho việc mở rộng cách mạng xã hội chủ nghĩa sang châu Âu và phối hợp với phong trào cách mạng Đức. Nhưng họ đã thất bại nặng nề ở gần Warszawa. Cuối cùng, ngày 12 tháng 10 năm 1920, hiệp định đình chiến được ký kết, sau đó là hòa ước 18 tháng 3 năm 1921.

Sau khi ký hòa ước với Ba Lan, Hồng quân chĩa mũi nhọn vào 6 vạn quân Bạch vệ Wrangel. Giữa tháng 11 năm 1920, Hồng quân chiếm Krym. Wrangel buộc phải lưu vong ở nước ngoài.

Cùng năm, ở Trung Á, các lực lượng Bạch vệ cũng bị đánh bại. Năm 1920 nội chiến kết thúc, thắng lợi thuộc về Chính quyền Xô viết.

Nguyên nhân thắng lợi của Chính quyền BolshevikSửa đổi

Về chính trị: sự lãnh đạo đúng đắn và hiệu quả của Đảng Bolshevik, do Lenin đứng đầu đã động viên, lôi cuốn và tổ chức được các lực lượng công nhân, nông dân lao động và nhân dân các dân tộc thiểu số đấu tranh với kẻ thù, khai thác và phát huy hiệu quả các nguồn lực của nhân dân và đất nước để giành chiến thắng. Trong khi đó, lực lượng Bạch Vệ thì chia rẽ, không có đường lối chính trị rõ ràng, một số đội quân Bạch Vệ đã cầu viện quân đội nước ngoài nên càng bị mất đi sự ủng hộ của người dân Nga.

Về quân sự: Lực lượng quân sự đông đảo [hơn 5 triệu quân] với lý tưởng chiến đấu rõ ràng, sự chiến đấu ngoan cường của Hồng quân và các đội du kích.

Chú thíchSửa đổi

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nội chiến Nga.
  1. ^ a b Mawdsley, pp. 3, 230
  2. ^ Bullock, p. 7 "Peripheral regions of the former Russian Empire that had broken away to form new nations had to fight for independence: Finland, Poland, Estonia, Lithuania, Latvia, Belarus, Ukraine, Georgia and Azerbaijan."
  3. ^ Russian Civil War Encyclopaedia Britannica Online 2012
  4. ^ Mawdsley, Evan [2007]. The Russian Civil War. Pegasus Book. tr.287. ISBN9781933648156.
  5. ^ Chương 110 tác phẩm Sông Đông êm đềm, phần viết về sự vô kỷ luật của chi đội Cận vệ đỏ Chraxponsky, bản dịch của Nguyễn Thụy Ứng

Nghiên cứu thêmSửa đổi

  • Vladimir N. Brovkin. Behind the Front Lines of the Civil War: Political Parties and Social Movements in Russia, 1918-1922. Princeton University Press, 1994. ISBN 0-691-03278-5
  • David Bullock. The Russian Civil War 1918-22. Osprey Publishing, 2008. ISBN 978-1-84603-271-4
  • T.N. Dupuy. The Encyclopedia of Military History [many editions] Harper & Row Publishers.
  • Peter Kenez. Civil War in South Russia, 1918: The First Year of the Volunteer Army, Berkeley, University of California Press, 1971.
  • Peter Kenez. Civil War in South Russia, 1919-1920: The Defeat of the Whites, Berkeley, University of California Press, 1977.
  • W. Bruce Lincoln. Red Victory.
  • Evan Mawdsley. The Russian Civil War. New York: Pegasus Books, 2007.
  • George Stewart. The White Armies of Russia: A Chronicle of Counter-Revolution and Allied Intervention.
  • David R. Stone. "The Russian Civil War, 1917-1921," in The Military History of the Soviet Union.
  • Geoffrey Swain. The Origins of the Russian Civil War.

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • "BBC History of the Russian Revolution" [ngày 3 tháng 2 năm 2007]
  • "Russian Civil War" Lưu trữ 2010-12-05 tại Wayback Machine [Spartacus History, downloaded ngày 3 tháng 1 năm 2006]
  • "Russian Civil War Polities" [World Statesmen.org, downloaded ngày 16 tháng 2 năm 2007]

Căng thẳng Ukraine: Nga bắt đầu tập trận quân sự với Belarus

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Nato cho biết các cuộc tập trận chung đánh dấu việc triển khai quân lớn nhất của Nga tới quốc gia thuộc Liên Xô cũ Belarus kể từ Chiến tranh Lạnh

Nga và Belarus đã bắt đầu cuộc tập trận quân sự chung kéo dài 10 ngày trong bối cảnh đang có những lo ngại về một cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine.

Belarus - quốc gia thuộc Liên Xô cũ - là đồng minh thân cận của Nga và có chung đường biên giới dài với Ukraine.

Pháp gọi các cuộc tập trận này - được cho là cuộc triển khai quân lớn nhất của Nga tới Belarus kể từ thời Chiến tranh Lạnh - là một bước "cử chỉ bạo lực". Ukraine nói các cuộc tập trận này chẳng khác gì "áp lực tâm lý".

Thủ tướng Anh Boris Johnson nói hôm thứ Năm [10/02] rằng châu Âu đang đối mặt với khủng hoảng an ninh lớn nhất trong nhiều thập niên.

Quảng cáo

Nga nhiều lần bác bỏ bất kỳ kế hoạch xâm lược Ukraine nào dù đã điều hơn 100.000 quân tới biên giới.

Nhưng Mỹ và các quốc gia phương Tây khác cảnh báo rằng một cuộc tấn công có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào.

Mỹ tăng cường binh sĩ từ Đức đến Romania và dự kiến ​​nhiều hơn

Căng thẳng Ukraine: Nga thấy có cơ hội cho ngoại giao

Căng thẳng Ukraine: Ba Lan, Romania, Đức đều lo ngại chiến tranh

Các cuộc đàm phán ngoại giao nhằm xoa dịu căng thằng dự kiền sẽ diễn ra trên khắp châu Âu vào thứ Năm [10/02].

Nguồn hình ảnh, BBC

Các cuộc tập trận - được gọi là Allied Resolve 2022 - đang diễn ra gần biên giới của Belarus với Ukraine, kéo dài hơn 1.000 km.

Có những lo ngại rằng nếu Nga cố tình xâm lược Ukraine, các cuộc tập trận sẽ đưa quân đội Nga đến gần thủ đô Kyiv của Ukraine, khiến cuộc tấn công vào thành phố này trở nên dễ dàng hơn.

Nhà lãnh đạo Belarus Alexander Lukashenko là đồng minh vững chắc của Tổng thống Nga Vladimir Putin và hai nước đã hình thành cái gọi là "Nhà nước liên minh" bao gồm hội nhập kinh tế và quân sự. Điện Kremlin ủng hộ ông Lukashenko sau cuộc bầu cử gây tranh cãi hồi năm 2020 đã dẫn đến các cuộc biểu tình.

Căng thẳng Nga-Ukraine: Ba Lan, Romania, Đức đều lo ngại chiến tranh nổ ra

Nguồn hình ảnh, TASS/GETTY IMAGES

Chụp lại hình ảnh,

Ông Macron [phải] được chụp cùng với ông Putin vào năm 2019, trước đó ông đã kêu gọi một mối quan hệ mới với Nga

Tuần này, các nhà lãnh đạo Đức và Pháp đều có chuyến công du tới Nga, Ukraine để làm giảm căng thẳng tình hình xung quanh vấn đề Ukraine.

Thế nhưng nhiều vấn đề của châu Âu hiện đang bị cho là chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về nhu cầu "đảm bảo an ninh của Nga" và việc bảo toàn lãnh thổ Ukraine, có gốc rễ lâu dài.

Nhiều nước châu Âu đang có vấn đề phải tính toán xem nếu xung đột nổ ra ở Ukraine thì họ sẽ thiệt, lợi ra sao.

Kỷ niệm 104 năm Cách mạng tháng Mười Nga: Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo

[ĐCSVN] - Vào những ngày này cách đây 104 năm, lịch sử nhân loại đã khắc ghi một Đại sự kiện, một kỳ tích làm “Rung chuyển thế giới”. Đó là thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga!
Ảnh minh họa. [Ảnh tư liệu]

Cuộc cách mạng “long trời chuyển đất” này đã lật đổ ách thống trị tàn bạo của giai cấp phong kiến, địa chủ và tư sản Nga, giành chính quyền về tay các Xô Viết, sử dụng Xô Viết đại biểu công nhân, nông dân, binh sỹ để xây dựng và bảo vệ xã hội mới, từng bước hiện thực hóa khát vọng giải phóng giai cấp – xóa bóc lột, giải phóng xã hội – xóa áp bức, bất công, giải phóng con người - mang lại tự do, ấm no hạnh phúc cho mọi con người! Thắng lợi của cuộc cách mạng vĩ đại này đã biến học thuyết Mác mà các nhà tư tưởng tư sản cho là “bóng ma ám ảnh châu Âu” sau 69 năm đã thành chủ nghĩa xã hội hiện thực của một quốc gia chiếm 1/6 diện tích thế giới và mở ra một thời đại mới, thời đại giải phóng các dân tộc khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới!

Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga là thắng lợi của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác về cách mạng xã hội chủ nghĩa!

Trước hết, V.Lênin – nhà khoa học thiên tài trong cách mạng vô sản, nhà cách mạng vĩ đại trong khoa học đã kế thừa và phát triển sáng tạo quan điểm của C.Mác và F.Ăngghen về khả năng nổ ra và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Vào giữa thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản phát triển và định hình ở giai đoạn tự do cạnh tranh, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn xã hội thực sự gay gắt, phong trào công nhân ở các nước tư bản phát triển ngày càng mạnh mẽ. Tiêu biểu là phong trào Hiến Chương ở nước Anh [1838 – 1848], phong trào công nhân dệt ở Thành phố Xilêdi ở nước Đức 1844, phong trào công nhân dệt ở Thành phố Liông nước Pháp [1831 – 1834]… Phân tích điều kiện lịch sử này, trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, khi trả lời câu hỏi: “Cuộc cách mạng đó [cách mạng vô sản] có thể xảy ra trong riêng một nước nào đó không”, F.Ăngghen đã trả lời: “Không, đại công nghiệp do đã tạo nên thị trường thế giới nên đã nối liền tất cả các dân tộc trên trái đất lại với nhau, nhất là các dân tộc văn minh, khiến cho mỗi một dân tộc đều phụ thuộc vào tình hình xảy ra ở dân tộc khác. Sau nữa, đại công nghiệp đã san bằng sự phát triển xã hội ở trong tất cả các nước văn minh. Khiến cho ở khắp nơi giai cấp tư sản và giai cấp vô sản đã trở thành hai giai cấp có tác dụng quyết định trong xã hội và cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đó đã trở thành cuộc đấu tranh chủ yếu của thời đại chúng ta. Vì vậy: “Cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa không những sẽ có tính chất dân tộc mà sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất ở Anh, Mỹ, Pháp, Đức…”[1]

Nhưng đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc bằng con đường chủ yếu là phát động các cuộc chiến tranh xâm lược để giành giật thuộc địa và thị trường. Các nước đế quốc điên cuồng mở rộng thị trường, bóc lột, nô dịch rất tàn bạo các tầng lớp nhân dân lao động, khiến cho mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc ngày càng quyết liệt, gay gắt, không thể điều hòa. Cuộc đấu tranh của nhân dân lao động chống lại các giai cấp thống trị, bóc lột diễn ra ngày càng quyết liệt cả về tính chất và quy mô. Nước Nga vào giữa thế kỷ XIX, sau cải cách nông nô 1861, chủ nghĩa tư bản Nga phát triển nhanh chóng. Tuy phát triển muộn, sau các nước tư bản Tây Âu nhưng đến cuối thế kỷ XIX, Nga cũng chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.

Trong 2 thập kỷ đầu của thế kỷ XX, đế quốc Nga đã tiến hành cuộc chiến tranh với Nhật [1905] và tham gia vào cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất [1914 - 1918]. Sau hơn nửa thế kỷ phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, các ngành công nghiệp nặng như luyện kim, cơ khí, hóa chất…phát triển mạnh. Đến năm 1913, sản lượng công nghiệp Nga chiếm 5,5% sản lượng công nghiệp thế giới. Đáng chú ý là 150 công ty tư bản độc quyền đã thao túng toàn bộ nền kinh tế Nga. Đến đầu thế kỷ XX, giai cấp tư sản Nga yếu cả về kinh tế và chính trị do sự phát triển muộn của chủ nghĩa tư bản Nga. Do phụ thuộc cao vào chế độ quân chủ chuyên chế và tư bản nước ngoài nên giai cấp tư sản Nga không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ.

Gắn liền với sự phát triển nhanh của các ngành công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn, giai cấp công nhân Nga ra đời và trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, công nhân Nga phải làm việc 12 giờ mỗi ngày trong điều kiện lao động hết sức tồi tệ lại có mức lương thấp nhất trong các nước tư bản chủ nghĩa, do đó giai cấp công nhân Nga sớm có tinh thần đoàn kết và ý thức đấu tranh cao. Sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của phong trào công nhân Nga đã đẩy nhanh truyền bá chủ nghĩa Mác vào nước Nga. Giai cấp công nhân Nga lúc này đã trở thành lực lượng chính trị độc lập giác ngộ được sứ mệnh lịch sử của mình.

Năm 1903, Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga được thành lập do V.Lênin đứng đầu. Tuy chủ nghĩa tư bản ở Nga phát triển nhanh nhưng muộn nên đến đầu thế kỷ XX, nước Nga vẫn là nước nông nghiệp với mối quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. 2/3 ruộng đất nằm trong tay giai cấp địa chủ, quý tộc trong đó Nga hoàng cũng là đại địa chủ lớn nhất trong số 30.000 đại địa chủ. Nga hoàng sở hữu gần 8 triệu ha [chiếm hơn 10% của gần 75 triệu ha của 30.000 đại địa chủ Nga] đất nông nghiệp. Giai cấp nông dân Nga chiếm trên 75% dân số bị giai cấp địa chủ quý tộc bóc lột hết sức nặng nề và tàn bạo nhất là chế độ lao dịch. Trình độ sản xuất nông nghiệp lạc hậu, năng suất lao động thấp, nạn mất mùa, đói kém xảy ra thường xuyên.

Đầu thế kỷ XX, Nga vẫn là nước theo chế độ quân chủ chuyên chế, cùng với sự tồn tại của chế độ tư bản độc quyền và những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa. Sự kết hợp giữ hình thái kinh tế tiên tiến và lạc hậu cùng với những thất bại nặng nề và những tổn thất khủng khiếp sau hai năm rưỡi tham gia thế chiến lần thứ nhất [1914 – 1918]: nhiều vùng lãnh thổ của đế quốc Nga bị đế quốc Đức xâm chiếm 1,5 triệu lính Nga bị chết, 4 triệu bị thương, 2 triệu bị bắt hoặc đảo ngũ. Nhân dân Nga, nhất là công nhân và nông dân gánh mọi nỗi khổ đau và tang thương do kinh tế khủng hoảng kiệt quệ và chiến tranh nước Nga trở thành nơi tập trung cao độ các mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc: Đó là mâu thuẫn của toàn thể nhân dân Nga với chế độ quân chủ chuyên chế của Nga hoàng, giữa đại chủ và nông dân, giữa tư sản và vô sản, giữa đế quốc Nga và các dân tộc trong đế quốc Nga, giữa đế quốc Nga và các đế quốc khác như đế quốc Anh, đế quốc Áo – Hung, đế quốc Ottoman, đế quốc Đức, đế quốc Nhật. Do đó với thực trạng kinh tế chính trị xã hội Nga đang cùng tồn tại nhiều mâu thuẫn giai cấp, dân tộc rất gay gắt, khiến đế quốc Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc.

Từ hiện thực sinh động của sự phát triển chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa từ thực tiễn phong trào công nhân và đời sống kinh tế xã hội Nga từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Lênin đã phát hiện ra quy luật phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản và đưa ra dự báo thiên tài về khả năng nổ ra và thắng lợi của cách mạng vô sản: “Sự phát triển không đồng đều về kinh tế chính trị là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Do đó chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội có thể thắng trước hết là trong một số nước tư bản chủ nghĩa thậm chí chỉ trong một nước tư bản chủ nghĩa”[2].

Từ đây Lênin chỉ ra rằng, giai cấp vô sản cần phải lợi dụng triệt để các mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa đế quốc để chiến thắng nó tại nơi tập trung những mâu thuẫn, ở khâu yếu nhất mắt xích yếu nhất trong hệ thống chủ nghĩa tư bản thế giới. Khi thực tiễn lịch sử đã đặt cho giai cấp vô sản Nga sứ mệnh đi tiên phong trong sự nghiệp “đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” tại nước Nga.

Sau cách mạng tháng 2/1917, ở Nga tồn tại hai chính quyền song song: Chính phủ lâm thời tư sản và các Xô Viết đại biểu công nhân và binh sỹ. Sau khi nắm được chính quyền, chính phủ lâm thời tư sản đã không giải quyết những vấn đề đã hứa trước đó như vấn đề ruộng đất cho nông dân, việc làm cho công nhân, tình trạng thiếu lương thực rất nghiêm trọng nhất là việc chính phủ lâm thời quyết theo đuổi chiến tranh đế quốc đến cùng. Những mâu thuẫn chính trị, kinh tế, xã hội ở Nga đã phát triển đến tột cùng đòi hỏi phải tiến hành một cuộc cách mạng làm thay đổi tận gốc đời sống chính trị, kinh tế xã hội Nga.

Ngày 4 tháng 4 năm 1917, Lênin đọc một bài phát biểu quan trọng với tên gọi: “Những nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng hiện nay”. Bản báo cáo này đã đi vào lịch sử với tên gọi “Luận cương tháng tư”. Luận cương này đã chỉ ra con đường chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là việc chỉ rõ mục tiêu cách mạng, đối tượng cách mạng, chủ thể, lực lượng tham gia cách mạng, nội dung và hình thức của cách mạng, phương thức và điều kiện đảm bảo thắng lợi của cách mạng. Phân tích sâu sắc tinh thần sục sôi cách mạng của nhân dân Nga, khi nói về phương pháp cách mạng, Lênin đã xác định: “Vũ khí trong tay nhân dân, không có sự cưỡng bức nào từ bên ngoài đối với nhân dân, đó là thực chất của sự vật. Điều đó cho phép và bảo đảm sự phát triển hòa bình của cách mạng, tuy nhiên Lênin cũng chỉ rõ phải sẵn sàng chuyển sang khởi nghĩa vũ trang một khi hoàn cảnh thay đổi, nếu các Xô Viết bị tấn công.

Ngày 20 và 21 tháng 4 năm 1917, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvich, hàng chục vạn người Nga xuống đường biểu tình hòa bình với các khẩu hiệu: “Tất cả chính quyền về tay Xô Viết”!, “Hòa bình, ruộng đất, bánh mỳ”! Trước sức ép của quần chúng, ngày 2/5/1917, Bộ trưởng ngoại giao và Bộ trưởng chiến tranh phải từ chức, chính phủ lâm thời cải tổ thành chính phủ liên hiệp. Ngày 3/7/1917 hơn 50 vạn nhân dân thành phố Petrograt xuống đường biểu tình đòi chuyển giao chính quyền về tay Xô Viết! Chính phủ lâm thời không những đã từ chối các đòi hỏi cấp bách của nhân dân mà còn ra lệnh cho quân đội tấn công vào đoàn biểu tình làm trên 3000 người bị chết và bị thương. Sau đó chính phủ liên hiệp tiến hành đàn áp và bắt các đảng viên Bônsêvich, ra lệnh truy nã Lênin. Trước tình hình đó, từ 26 tháng 7 đến 3 tháng 8 năm 1917, dưới sự lãnh đạo của Lênin, Đảng Bônsêvich đã họp đại hội VI đánh giá tình hình, vạch ra sách lược đấu tranh mới. Đại hội chỉ rõ việc giai cấp vô sản Nga trực tiếp tổ chức vũ trang giành chính quyền bằng bạo lực đã trở thành nhiệm vụ trực tiếp. Khi các điều kiện để nổ ra và thắng lợi của cách mạng vô sản đã chín muồi, vấn đề Nhà nước đặt ra một cách trực tiếp cấp bách. Từ tháng 7 đến tháng 8 năm 1917, Lênin đã hoàn thành tác phẩm Nhà nước và cách mạng. Đây là sự chuẩn bị lý luận về Nhà nước và cách mạng cho giai cấp vô sản.

Với tác phẩm Nhà nước và cách mạng, Lênin đã trình bày một cách đầy đủ nhất học thuyết của C.Mác và F.Ăngghen về vấn đề nhà nước. Thông qua tác phẩm này Lênin đã phát triển sáng tạo những luận điểm của C.Mác và F.Ăngghen về Nhà nước trong điều kiện mới khi từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc- giai đoạn mà Lênin coi là đêm trước của cách mạng vô sản. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất [1914-1918] đẩy mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản phát triển cực kỳ gay gắt, không thể điều hòa, đã đẩy nhanh quá trình chín muồi cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị xã hội trầm trọng trong nhiều nước đế quốc. Thực tiễn này đã đặt ra trước giai cấp vô sản và các Đảng cộng sản - Bộ tham mưu chính trị của giai cấp vô sản có nhiệm vụ lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đúng như Lênin, trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng đã chỉ rõ: “Vấn đề thái độ của cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản đối với nhà nước không những chỉ có ý nghĩa chính trị - thực tiễn mà còn có tính chất nóng hổi nhất nữa - Vì đây là vấn đề làm cho quần chúng thấy rõ những việc họ sẽ phải làm trong một tương lai gần đây để tự giải phóng khỏi ách tư bản”.

Đáp ứng yêu cầu chính trị và thực tiễn nóng hổi này, trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, lần đầu tiên học thuyết của C.Mác và F.Ăngghen về vấn đề nhà nước được trình bày một cách có hệ thống và đầy đủ nhất. Vị trí trung tâm của tác phẩm này là những vấn đề Cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản. Phát triển quan điểm của C.Mác, F.Ăngghen tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng trong thời kỳ chủ nghĩa chính trị tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước. Lênin chỉ rõ vấn đề cơ bản của bất kỳ cuộc cách mạng nào là vấn đề chính quyền nhà nước. Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chuyên chính vô sản là thiết yếu lịch sử. Giai cấp vô sản dùng chính quyền nhà nước để chuyên chính với thiểu số dân cư là bóc lột và xây dựng xã hội mới. Chuyên chính vô sản là nhà nước quá độ và nó khác về cơ bản nhà nước tư sản trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhà nước từ chỗ là công cụ thống trị giai cấp chuyển thành cơ quan thể hiện ý chí của toàn dân. Lênin đã kế thừa và phát triển sáng tạo lý luận về nhà nước chuyên chính vô sản. Nhiệm vụ của chuyên chính vô sản là thủ tiêu chế độ người bóc lột người và xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới, nguyên tắc tối cao của nó là liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, với toàn thể nhân dân lao động và các tầng lớp xã hội khác dưới sự lãnh đạo của cộng sản. Nhà nước vô sản là nhà nước cuối cùng trong lịch sử. Sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình: phát triển kinh tế, xã hội, xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp đối kháng, nhà nước vô sản sẽ tự tiêu vong; Nhà nước mất đi, chế độ nhà nước được thay bằng chế độ tự quản cộng sản chủ nghĩa. Ở đây Lênin đã đặc biệt nhấn mạnh tính chất dân chủ của nhà nước vô sản và chỉ rõ sự khác biệt căn bản của nhà nước vô sản với nhà nước tư sản thể hiện ở các hình thức tổ chức nhà nước và nhiệm vụ lịch sử mà nhà nước vô sản thực hiện.

Nhận thức sâu sắc nhân tố quyết định để lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản thành công là phải xây dựng được chính đảng kiểu mới – chính Đảng cách mạng của giai cấp vô sản Nga, kế thừa và phát triển sáng tạo những luận điểm của C.Mác, F.Ăngghen về tính tất yếu ra đời cùng bản chất cách mạng và khoa học của Đảng cộng sản, Lênin đưa ra hệ thống những giá trị cốt lõi về các nguyên lý xây dựng chính Đảng của giai cấp công nhân.

Những giá trị cốt lõi đã trở thành những nguyên tắc xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân đó là:

- Một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân phải lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng.

- Đảng cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là tổ chức chặt chẽ nhất có giác ngộ nhất của giai cấp công nhân.

- Đảng kiểu mới phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Khi có chính quyền, Đảng phải là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa đồng thời cũng là một bộ phận của hệ thống chính trị đó.

- Đảng phải là một khối thống nhất về ý chí và hành động. Tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển.

- Đảng phải thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng và khoa học của mình.

- Đảng phải gắn bó máu thịt với quần chúng, luôn đấu tranh ngăn ngừa, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng.

- Đảng phải tích cực bồi dưỡng và kết nạp những quần chúng ưu tú trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động và Đảng; kiên quyết và kịp thời đưa những người không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng

- Đảng kiểu mới phải thực hiện chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

Từ năm 1903, Đảng Bônsêvich Nga, dưới sự lãnh đạo của Lênin đã vượt qua bao gian khổ, hy sinh, chiến thắng những chiến dịch đàn áp của chính phủ tư sản, đấu tranh đánh bại các loại kẻ thù chính trị tư tưởng, ngày càng lớn mạnh cả về chính trị tư tưởng và tổ chức, đã lãnh đạo giai cấp vô sản và nhân dân Nga tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng tháng Mười vĩ đại.

Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại là thắng lợi của sự vận dụng và phát triển học thuyết của Mác về cách mạng xã hội chủ nghĩa, phát triển chủ nghĩa Mác nâng chủ nghĩa Mác lên tầm cao mới: Chủ nghĩa Mác-Lênin – một học thuyết khoa học và cách mạng, một “ công cụ nhận thức vĩ đại” để nhận thức và cải tạo thế giới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam đã đưa đến thắng lợi vĩ đại của cuộc cách mạng tháng Tám 1945 và hai cuộc kháng chiến thần kỳ đánh thắng hai đế quốc to của thế kỷ XX đưa non sông Việt Nam trở về một mối, đưa cả nước ta vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

35 năm qua, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại.

Suy nghĩ về ý nghĩa thắng lợi của cách mạng tháng Mười đến thắng lợi của cách mạng tháng Tám, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến, thắng lợi của 35 năm sự nghiệp đổi mới giúp chúng ta càng thấm thía một luận điểm: Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo./.

----------

[1] C.Mác.F.Ăngghen. Toàn tập. Tập 4. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 472

[2] Lênin toàn tập. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Hà Nội 2006. Tập 26. Trang 447

PGS.TS Đào Duy Quát

Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương

Video liên quan

Chủ Đề