Nghiên cứu nền tảng là gì
Nghiên cứu khoa học là một quá trình nhận thức chân lý khoa học, là một hoạt động trí tuệ đặc thù; nó tuân theo những quy luật chung nhất của sự nhận thức, tuân theo những quy luật sáng tạo khoa học và tuân theo những quy luật chung, phổ biến của logic nghiên cứu một đề tài khoa học nói riêng. Đồng thời nghiên cứu khoa học cũng chịu sự chi phối của những quy luật đặc thù của việc nghiên cứu đối tượng, chịu sự chi phối của tính chất riêng của đối tượng nghiên cứu. Show
Thành tựu của nghiên cứu khoa học là do công trình nghiên cứu cụ thể vun đắp nên. Hiệu quả của một công trình lý thuyết hay thực nghiệm phụ thuộc vào việc tổ chức và điều chỉnh tối ưu logic của công trình nghiên cứu khoa học đó. Nổi dung nổi bậc Nghiên cứu khoa học là gì?Nghiên cứu khoá học là quá trình nhận thức chân lý khoa học, một hoạt động trí tuệ đặc thù bằng những phương pháp nghiên cứu nhất định để tìm kiếm, để chỉ ra một cách chính xác và có mục đích những điều mà con người chưa biết đến (hoặc biết chưa đầy đủ) tức là tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri thức mới có giá trị mới về nhận thức hoặc phương pháp.
+ Vận dụng quy luật để sáng tạo các giải pháp tác động tích cực vào sự vật, hiện tượng. + Tạo dựng các nguyên lý hoàn toàn mới về “công nghệ” nhằm phục vụ cho công cuộc chế biến vật chất và thông tin. Vậy bản chất của nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm nhận thức thế giới tạo ra hệ thống tri thức có giá trị để sử dụng vào cải tạo thế giới. Chức năng của nghiên cứu khoa họcHai mục đích cơ bản của nghiên cứu khoa học: nhận thức và cải tạo thế giới được thực hiện thông qua các chức năng sau: Mô tảNhận thức khoa học thường được bắt đầu bằng sự mô tả sự vật (đối tượng nghiên cứu). Người nghiên cứu đưa ra hệ thống tri thức về nhận dạng đối tượng nghiên cứu: tên gọi, hình thái, động thái, cấu trúc, chức năng của nó; mô tả định tính nhằm chỉ rõ các đặc trưng về lượng của đối tượng, mô tả định lượng nhằm chỉ rõ các đặc trưng về lượng của đối tượng…giúp phân biệt được sự khác nhau về bản chất giữa đối tượng nghiên cứu với sự vật khác. Kết quả của sự mô tả là khái niệm được phát biểu lên bằng kinh nghiệm. Giải thíchGiải thích trong nghiên cứu khoa học là làm roc căn nguyên dẫn đến sự hình thành, phát triển và quy luật chi phối quá trình vận động của đối tượng nghiên cứu; đưa ra thông tin lý giải về bản chất của đối tượng (khẳng định bản chất được phát biểu dưới dạng tính chất, chứng minh tính quy luật của những gì đã khẳng định về bản chất của đối tượng). Người nghiên cứu đưa ra những thông tin giải thích về nguồn gốc hình thành, động thái, cấu trúc, tương tác, hậu quả của tác động, quy luật chung chi phối quá trình vận động của đối tượng nghiên cứu – đó là những thông tin về thuộc tính bản chất của đối tượng nghiên cứu giúp nhận dạng không chỉ những biểu hiện bên ngoài mà còn cả những thuộc tính bên trong của đối tượng nghiên cứu. Kết quả của sự giải thích là tri thức đạt đến trình độ tư duy lý luận. Tiên đoánTiên đoán về sự vật là sự nhìn trước quá trình hình thành, phát triển, tiêu vong, sự vận động và những biểu hiện của sự vật trong tương lai. Nhờ hai chức năng: mô tả, giảu thích mà người nghiên cứu có khả năng ngoại suy, nhìn trước xu thế vận động, quá trình hình thành, phát triển, và sự biểu hiện của đối tượng nghiên cứu trong tương lai. Tuy nhiên, trong nghiên cứu khoa học mọi phép ngoại suy và dự báo đều phải chấp nhận độ sai lệch nhất định. Sự sai lệch trong các kết quả dự báo có thể do nhiều nguyên nhân: nhạn thức ban đầu của người nghiên cứu chưa chuẩn xác, sai lệch do quan sát, sai lệch do những luận cứ bị biến dạng trong sự tác động của những sự vật khác, môi trường cũng luôn có thể biến động.v.v Sáng tạoNgiên cứu khoa học không bao giờ dừng lại ở chức năng: mô tả, giải thích và tiên đoán, mà sứ mệnh có ý nghĩa lớn lao của nghiên cứu khoa học là sáng tạo các giải pháp để cải tạo thế giới. Hơn nữa, nghiên cứu khoa học luôn hướng tới cái mới đòi hỏi sự sáng tạo và nhạy bén của tư duy. Mục tiêu của nghiên cứu khoa họcNghiên cứu khoa học nhằm bốn mục tiêu:
Tính mớiTính mới là thuộc tính quan trọng số một của lao động khoa học. Nghiên cứu khoa học luôn hướng tới những phát hiện mới, không chấp nhận sự lặp lại như cũ dù đó là trong thí nghiệm hay trong cách lý giải và các kết luận. Hướng tới cái mới đò hỏi sự sáng tạo và nhạy bén của tư duy. Đọc thêm: 10 Mẹo đăng bài báo khoa học - Mách bạn Tính thông tinĐây là đặc điểm quan trọng của nghiên cứu khoa học, bởi vì bất kỳ sản phẩm nào của nghiên cứu khoa học (như: báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học, mẫu vật liệu mới, mẫu sản phẩm mới, mô hình thí điểm về một phương thức sản xuất mới.v.v.) đều mang đặc trưng thông tin, là kết quả của quá trình khai thác và xử lý thông tin. Đặc điểm này phản ánh trình độ và năng lực của người nghiên cứu: phải biết tìm thấy trong các nguồn thông tin những giá trị hữu ích phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Tính tin cậyMột kết quả nghiên cứu đạt được phải có khả năng kiểm chứng lại nhiều lần do nhiều người khác nhau thực hiện trong những điều kiện (quan sát hoặc thí nghiệm) giống nhau và với những kết quả thu được hoàn toàn giống nhau. Khi đó có thể xem kết quả ấy đủ tin cậy để kết luận về bản chất của sự vật hoặc hiện tượng. Tính khách quaCơ sở của tính khách quan trong nghiên cứu khoa học là sự trung thực. Để đảm bảo tính khách quan, người nghiên cứu không được nhận định vội vã theo cảm tính, không được đưa ra kết luận thiếu các xác nhận bằng kiểm chứng, mà luôn luôn phải lật đi lật lại những kết luận tưởng đã hoàn toàn được xác nhận, phải tự trắc nghiệm và kiểm tra chặt chẽ. Tính mạnh dạn, mạo hiểmTrong nghiên cứu khoa học cần phải tính toán, cân nhắc một cách thận trọng, song cũng cần phải tính đến những yêu cầu sau:
Thất bại trong nghiên cứu khoa học có thể do nhiều nguyên nhân ở mức độ khác nhau: thiếu thông tin cần thiết và đủ tin cậy để xử lý vấn đề đặt ra; trình độ kỹ thuật của thiết bị không đủ đáp ứng nhu cầu kiểm chứng giải quyết; khả năng thực hiện của người nghiên cứu chưa đủ tầm xử lý vấn đề; giả thuyết nghiên cứu đặt ra sai; những tác nhân bất khả kháng… Tuy nhiên, trong nghiên cứu khoa học, thất bại cũng được xem là một kết quả, phải được tổng kết lại, lưu trữ như một tài liệu khoa học nghiêm túc để tránh choi những người đi sau khỏi dẫm chân lên lối mòn, lãng phí nguồn lực nghiên cứu. Không chỉ quá trình nghiên cứu chịu những rủi ro mà ngay cả những nghiên cứu đã thử nghiệm thành công vẫn chịu những rủi ro trong áp dụng, có thể do kỹ thuật chưa được làm chủ khi triển khai áp dụng trong phạm vi rộng hay vì một nguyên nhân xã hội nào đó… Tính kinh tếMục đích lâu dài của nghiên cứu khoa học là góp phần phát triển kinh tế – xã hội. Song nghiên cứu khoa học không thể coi mục đích kinh tế là mục đích trực tiếp, vì lao động nghiên cứu khoa học hầu như không thể định mức một cách chính xác như trong sản xuất vật chất; hiệu quả kinh tế của nghiên cứu khoa học hầu như không thể xác định; những thiết bị chuyên dụng cho nghiên cứu khoa học hầu như không thể khấu hao. Nói như vậy không có nghĩa là trong nghiên cứu khoa học bỏ qua điều kiện kinh tế, thậm chí trong một số lĩnh vực chi phí cho nghiên cứu khoa học rất lớn, nhưng việc ứng dụng những thành tựu của nó rất ít ỏi. Đặc điểm của nghiên cứu khoa họcTuỳ theo mục tiêu nghiên cứu và các sản phẩm thu được sau nghiên cứu mà người ta chia thành những loại hình nghiên cứu khoa học khác nhau. Nghiên cứu khoa học thông thường gồm những loại hình sau: Nghiên cứu cơ bản (fundamental research)Nghiên cứu cơ bản là hoạt động nghiên cứu nhằm phát hiện bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, con người, nhờ đó làm thay đổi nhận thức của con người.
Phát hiện (discovery)
Ví dụ: Kock phát hiện vi trùng lao, Galileo phát hiện các vệ tinh của sao hoả, Christoph Colomb phát hiện châu Mỹ…
Phát minh (discovery)
Ví dụ: Newton phát minh định luật vạn vật hấp dẫn trong vũ trụ; Lêbêdev phát minh tính chất áp suất của ánh sáng; Nguyễn Văn Hiệu phát minh quy luật bất biến kích thước của tiết diện các quá trình sinh hạt,.v.v.
Đọc thêm: dịch vụ công bố chung bài báo khoa học quốc tế Nghiên cứu cơ bản thuần tuý:Nghiên cứu cơ bản thuần tuý còn được gọi là nghiên cứu cơ bản tự do hoặc nghiên cứu cơ bản không định hướng. Đây là những hoạt động nghiên cứu với mục đích thuần tuý là phát hiện ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội để nâng cao nhận thức mà chưa có hoặc chưa bàn đến ý nghĩa ứng dụng. Nghiên cứu cơ bản định hướng:Nghiên cứu cơ bản định hướng là hoạt đọng nghiên cứu cơ bản nhằm vào mục đích nhất định hoặc để ứng dụng vào những dự kiến định trước.. Ví dụ: Hoạt động thăm dò địa chất mỏ hướng vào mục đích phục vụ nhu cầi khai thác khoáng sản; các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên, kinh tế, xã hội…đều có thể xem là nghiên cứu cơ bản định hướng. Nghiên cứu cơ bản định hướng đựoc chia thành: nghiên cứu nền tảng và nghiên cứu chuyên đề. Nghiên cứu nền tảng (Background research): là hoạt động nghiên cứu về quy luật tổng thể của một hệ thống sự vật. Chẳng hạn: điều tra cơ bản tài nguyên; nghiên cứu khí tượng; nghiên cứu bản chất vật lý, hoá học, sinh học của vật chất; điều tra cơ bản về kinh tế, xã hội…đều thuộc về nghiên cứu nền tảng. Nghiên cứu chuyên đề (thematic research): là hoạt động nghiên cứu về một hiện tượng đặc biệt của sự vật. Chẳng hạn: điều tra cơ bản tài nguyên; nghiên cứu khí tượng; nghiên cứu bản chất vật lý, hoá học, sinh học của vật chất; điều tra cơ bản về kinh tế, xã hội… đều thuộc về nghiên cứu nền tảng. Nghiên cứu chuyên đề (thematic research): là hoạt động nghiên cứu về một hiện tượng đặc biệt của sự vật. Chẳng hạn: trạng thái thứ tự (plasma) của vật chất, từ trường trái đất, bức xạ vũ trụ, gen di truyền… Nghiên cứu cơ bản là một hoạt động, một công việc không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học. Nó trở thành nền tảng, cơ sơ cho các hoạt động nghiên cứu khác như: nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai. Nghiên cứu ứng dụng (applied research)
Sáng chế (invention)Sáng chế là một giải pháp kỹ thuật mang tính mới về nguyên lý kỹ thuật, tính sáng tạo và áp dụng được. Ví dụ: Máy hơi nước của James Wart, công thức thuốc nổ TNT của Nobel, công nghệ di truyền…là những sáng chế. Vì sáng chề có khả năng áp dụng, nên nó có ý nghĩa thương mại, được cấp bằng sáng chế (patent), có thể mua bản patent hoặc ký kết các hợp đồng cấp giấy phép sử dụng (hợp đồng licence) cho người có nhu cầu và được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Điều cần lưu ý là, điểm xuất phát của nghiên cứu ứng dụng là ở chỗ: nhận thức của con người không bao giừo có mục đích tự thân mà kết quả nhận thức phải quay trở về thực tiễn. Do đó, việc nghiên cứu ứng dụng là một tất yếu trong hoạt động nghiên cứu khoa học và nó gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu cơ bản. Kết quả của nghiên cứu ứng dụng là sự cụ thể hoá kết quả nghiên cứu cơ bản vào trong các lĩnh vực của sản xuất và đời sống. Nó là khâu quan trọng làm cho khoa học, kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tuy nhiên, để có thể đưa kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn thì còn cần tiến hành loại hình nghiênc cứu triển khai. Nghiên cứu triển khai (developmental research)Nghiên cứu triển khai là hoạt động nghiên cứu vật dụng các quy luật (thu được từ nghiên cứu cơ bản) và các nguyên lý công nghệ hoặc nguyên lý vật liệu (thu được từ nghiên cứu ứng dụng) để đưa ra những hình mẫu về một phương diện kỹ thuật mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới với những tham số đủ mang tính khả thi về mặt kỹ thuật. Điều cần lưu ý là kết quả của nghiên cứu triển khai thì chưa triển khai được (!). Sản phẩm của nghiên cứu triển khai mới chỉ là những hình mẫu có tính khả thi khác như: khả thi về tài chính, khả thi về kinh tế, khả thi về môi trường, khả thi về xã hội… Nghiên cứu triển khai bao gồm cả quá trình thiết kế thử nghiệm và mô hình thử nghiệm. Vì vây, nghiên cứu triển khai chia thành hai loại: Triển khai trong phòng: là loại hình triển khai thực nghiệm hướng vào việc áp dụng trong điều kiện của phòng thí nghiệm những nguyên lý thu được từ nghiên cứu ứng dụng nhằm khẳng định kết quả sao cho ra được sản phẩm chưa quan tâm đến quy mô áp dụng.
Nghiên cứu thăm dò (survey research)Nghiên cứu thăm dò là hoạt động nghiên cứu nhằm xác định hướng nghiên cứu, là dạng thăm dò thị trường để tìm kiếm cơ hội nghiên cứu. Nghiên cứu thăm dò có ý nghĩa chiến lược với sự phát triển của khoa học, nó đặt nền tảng cho việc nghiên cứu, khám phá những bí ẩn của thế giới vật chất, là cơ sở để hình thành nhiều bộ môn, nhiều ngành khoa học mới, những nghiên cứu thăm dò không thể tính toán được hiệu quả kinh tế. Sự phân chia các loại hình nghiên cứu là để nhận thức rõ bản chất của nghiên cứu khoa học, để có cơ sở lập kế hoạch nghien cứu, tổ chức nghiên cứu, cụ thể hoá các cam kết trong hợp đồng nghiên cứu giữa các đối tác. Tuy nhiên, các loại hình nghiên cứu khoa học có mối quan hệ với nhau ở những mức độ nhất định và trên thực tế, trong một đề tài khoa học có thể tồn tại cả bốn, ba hoặc hai, loại hình nghiên cứu. Đọc thêm: Ứng dụng mạng nơron trong dự báo ARIMA Tư duy trong nghiên cứu khoa họcNghiên cứu khoa học là quá trình nhận thức, một hoạt động trí tuệ đặc thù, trong đó người nghiên cứu phải sử dụng tư duy lôgic (tư duy trừu tượng) – giai đoạn cao của quá trình nhận thức; là công cụ chủ yếu của nghiên cứu khoa học, nhờ đó mà phân biệt được về bản chất sự vật này với sự vật khác. Ở đây, nhận thức được tiến hành một cách gián tiếp thông qua ngôn ngữ với các hình thức: khái niệm, phán đoán, suy luận. Khái niệmKhái niệm là một phạm trù của logic học, là hình thức của tư duy trừu tượng phản ánh những thuộc tính chung, bản chất vốn có của một lớp sự vật, hiện tượng. Cấu trúc logic của khái niệm: Khái niệm bao gồm hai bộ phận hợp thành: nội hàm và ngoại diên. + Nội hàm: nội hàm của khái niệm là tập hợp những dấu hiệu, những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng được phản ánh trong khái niệm. Nói cách khác: nội hàm của khái niệm chứa dấu hiệu riêng biệt, bản chất của sự vật, hiện tượng mà khái niệm đó phản ánh. Như vậy, nội hàm của khái niệm là tất cả những thuộc tính bản chất, vốn có của sự vật, hiện tượng. Nội hàm trả lời câu hỏi: sự vật là cái gì? + Ngoại diên: ngoại diên của khái niệm là tập hợp những sự vật có cùng thuộc tính chung, cùng bản chất được phản ánh trong nội hàm. Nói cách khác, ngoại diên của khái niệm là tập hợp những sự vật, hiện tượng có chứa những dấu hiệu được phản ánh trong nội hàm: Tập hợp những sự vật, hiện tượng tạo thành ngoại diên của khái niệm gọi là “lớp”. Như vậy, ngoại diên của khái niệm là tập hợp tất cả những các cá thể có chứa thuộc tính chung được chỉ trong nội hàm. Ngoại diên trả lời câu hỏi: có bao nhiêu sự vật như vậy? Bảng 2: Ví dụ về nội hàm và ngoại diên của khái niệm
Khái niệm Nội hàm Ngoại diên
Hệ thống tri thức về: – Khoa học tự nhiên.
– Khoa học kỹ thuật và công Khoa – Bản chất và quy luật của tự nghệ. học nhiên, xã hội và con người.
– Khoa học xã hội và nhân văn
– Các biện pháp cải tạo thế giới
Đồng hồ
Dụng cụ đo thời gian Đồng hồ cơ khí, đồng hồ điện tử, đồng hồ để bàn, đồng hồ đeo tay, đồng hồ báo thức…
Thủ đô Trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá. Hà Nội, Bắc Kinh, Matxcơva, Pari…
Giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm có quan hệ tỷ lệ nghich: nội hàm càng rộng thì ngoại diên càng hẹp và ngược lại. Các loại khái niệm:+ Nếu xét theo ngoại diên thì có những loại khái niệm sau:
+ Nếu xét theo nội hàm thì có những loại khái niệm sau:
Các quy luật đặc thù của tư duy lôgicQuy luật đồng nhất:Quy luật đồng nhất phát biểu: mỗi tư tưởng phải luôn luôn đồng nhất với chính nó. Quy luật đồng nhất yêu cầu: trong quá trình tư duy không được tự ý thay đổi nội dung khái niệm, không được đánh tráo khái niệm, nếu vi phạm yêu cầu này làm cho tư duy rối loạn, không thể phản ánh đúng sự vật, hiện tượng.
Quy luật mâu thuẫn phát biểu: có hai ý kiến trái ngược nhau về một đối tượng trong cùng một thời gian và không gian thì không thể cả hai cùng đúng mà ít nhất có một ý kiến sai. Quy luật này đòi hỏi: tư duy đứng đắn là phải dựa trên những mệnh đề nhất quán, có như vậy mới phản ánh đúng sự vật; quy luật này không cho phép tư duy có mâu thuẫn (ở đây cần phân biệt mâu thuẫn của tư duy lôgic với mâu thuẫn của phép biện chứng).
Quy luật bài trung phát biểu: một sự vật trong một quan hệ xác địnhnếu có hai phán đoán mâu thuẫn nhau thì trong đó một phán đoán đúng và một phán đoán sai, không thể có phán đoán thứ ba.
Quy luật lý do đầy đủ phát biểu: mọi tư tưởng hợp với vhân lý phải có căn cứ (lý do) đầy đủ: các căn cứ đầy đủ phải được chứng minh. Quy luật này không cho phép tư duy đưa ra những phán đoán, những suy luận mang tính chủ quan. Người nghiên cứu khoa học cần quán triệt các quy luật trên để hướng tư duy khoa học của mình theo đúng hướng đích nhằm đạt kết quả cao trong hoạt động nghiên cứu khoa học. |