Phân tích 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc học sinh giỏi

Dưới đây là Bài văn mẫu phân tích 8 câu thơ đầu trong bài Việt Bắc để chứng minh nhận định: Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc thì dù viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người dưới đây, các em không chỉ có thêm những gợi ý hay cho bài viết của mình mà còn nắm được cách phân tích bài thơ Việt Bắc hay, giàu sức hấp dẫn. Hãy tham khảo với Vozz nhé.

==>> Bài làm  cảm nhận 8 câu thơ đầu bài việt bắc mới nhất của học sinh giỏi

Đề bài: Phân tích 8 câu thơ đầu trong bài Việt Bắc để chứng minh nhận định: Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc thì dù viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người

Phân tích 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc học sinh giỏi

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Tố Hữu được biết đến với những tác phẩm mang đậm tính trữ tình – chính trị. Bàn về phong cách thơ độc đáo của ông, có ý kiến cho rằng: “Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc thì dù viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người”. Đặc trưng này đã được thể hiện rõ qua bài thơ Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu tiên của thi phẩm này nói riêng.

Giọng thơ tâm tình ngọt ngào, ngôn ngữ giản dị mà tha thiết trong thơ Tố Hữu là giọng điệu của sự ngọt ngào, mang tính tâm tình, thủ thỉ sâu lắng, đằm thắm. Trong bài thơ Việt Bắc, để thể hiện nội dung về tình cảm cách mạng, tác giả Tố Hữu đã sử dụng giọng thơ tâm tình để bộc lộ những xúc cảm nặng nghĩa tình. Giọng điệu đó quyện hòa cùng nghệ thuật giàu tính dân tộc qua thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp “mình – ta” thân thuộc trong các câu ca dao và khúc hát dân ca, hệ thống ngôn ngữ bình dị cùng những hình ảnh thơ quen thuộc nhưng vẫn giàu sức gợi. Dù viết về đề tài chính trị gắn với sự kiện lịch sử tháng 10 năm 1954 , sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, các cơ quan trung ương của Đảng rời chiến khu Việt Bắc để trở về hoạt động tại thủ đô Hà Nội nhưng bài thơ Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu tiên vẫn hiện lên chất chứa cảm xúc của sự ngọt ngào, tha thiết.

Trong tám câu thơ đầu tiên, tác giả đã tái hiện không khí bâng khuâng, lưu luyến trong những phút giây đầu tiên của buổi chia ly giữa kẻ ở – người đi. Khúc dạo đầu được khơi gợi từ lời của những người ở lại:

“- Mình về mình có nhớ ta? Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”

Trong lời ca của người dân Việt Bắc hướng tới những người chiến sĩ, cán bộ cách mạng, chúng ta có thể thấy được cảm xúc trữ tình sâu lắng qua điệp cấu trúc câu: “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình về mình có nhớ không?”. Sự láy đi láy lại của câu hỏi tu từ đã xoáy sâu vào nỗi nhớ và sự day dứt khôn nguôi. Quãng đường đồng hành đầy nghĩa tình và “thiết tha mặn nồng” giữa nhân dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng đã được diễn tả qua khoảng thời gian “Mười lăm năm ấy”. Đó là những tháng ngày đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, gợi lên sự bao bọc của nhân dân: “Thương nhau chia củ sắn lùi/ Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”. Cuộc kháng chiến của dân tộc ta vì thế luôn ngời sáng sức mạnh của tinh thần đoàn kết và mang tính toàn dân. Biết bao ân tình, gắn bó một lần nữa được gợi nhắc qua những hình ảnh “cây”, “núi”, “sông”, “nguồn” – không gian quen thuộc nơi núi rừng ẩn dụ cho lối sống ân nghĩa thủy chung. Như vậy, qua bốn câu thơ đầu, chúng ta có thể thấy được giọng điệu tâm tình, thủ thỉ tràn đầy cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến của đồng bào dân tộc.

Cuộc đối thoại trữ tình tiếp tục được tiếp nối qua lời đáp của người ra đi – những cán bộ chiến sĩ cách mạng:

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Bốn câu thơ đã thể hiện rõ sự lưu luyến bịn rịn, dù chưa chia xa những viễn cảnh nhớ nhung đã hiện lên trước mắt. Đại từ “ai” ngân vang cùng sự “tha thiết” đã nhấn mạnh vào tình cảm, cảm xúc đặc biệt của người ra đi và sự thấu hiểu đối với cảm xúc của người ở lại. Điều này khiến cho câu thơ giống như một câu trả lời gián tiếp khẳng định người ra đi sẽ mãi mãi không quên được “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” và luôn một lòng hướng về và nhớ đến “cây”, “núi”, “sông”, “nguồn”. Trạng thái này được xoáy sâu hơn nữa qua những tính từ miêu tả cảm xúc như “bâng khuâng”, “bồn chồn”. Hình ảnh người ở lại đã được khắc họa trong tâm tưởng của những chiến sĩ cách mạng qua hình ảnh hoán dụ “Áo chàm” – màu áo đặc trưng của đồng bào Việt Bắc. Cuộc chia ly cứ thế diễn ra trong sự bâng khuâng xúc động, và tất cả mọi cảm xúc dường như nén lại: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.

Chỉ với tám câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được tài năng của nhà thơ Tố Hữu trong việc sử dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo và linh hoạt thể thơ lục bát – thể thơ dân tộc với những đặc trưng riêng trong cách gieo vần và nhịp điệu. Đồng thời, kết cấu bài thơ được kiến tạo theo lối đối đáp giao duyên qua cặp đại từ “mình – ta” khiến lời thơ chất chứa yêu thương như những lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau. Câu chuyện cách mạng, kháng chiến vốn thuộc lĩnh vực chính trị khô khan được tái hiện đầy tâm tình và sâu lắng như một câu chuyện tình yêu ngọt ngào, làm nổi bật tình cảm ân tình thủy chung, cao đẹp của nghĩa tình cách mạng.

Như vậy, qua tám câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể khẳng định: “Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc thì dù viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người”. Câu chuyện cách mạng, kháng chiến mang tính chính trị, gắn với sự kiện lịch sử cụ thể vì thế khi đi vào trang thơ “Việt Bắc” vẫn chất chứa cảm xúc và da diết, bồi hồi. Điều này đã thể hiện rõ đặc trưng chính trị – trữ tình trong phong cách thơ Tố Hữu. Đồng thời tạo nên nét đặc sắc và sức hấp dẫn của bài thơ.

—————–HẾT——————–

Việt Bắc là bài thơ trữ tình chính trị nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu, người được mệnh danh là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng. Tìm hiểu chi tiết về nội dung cũng như đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Việt Bắc, bên cạnh bài Phân tích 8 câu thơ đầu trong bài thơ Việt Bắc trên đây, các em không nên bỏ qua những bài văn hay lớp 12 cùng chủ đề khác như: Tính dân tộc qua bài Việt Bắc, Cảm nhận về đoạn trích trong bài thơ Việt Bắc, Bình giảng bức tranh tứ bình trong bài Việt Bắc, Phân tích nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc trong bài Việt Bắc, Tố Hữu.

Bài làm

Cuộc vui nào không kể đến phút chia ly. Nhưng có lẽ để mang đến một bức tranh chia ly trong sự bịn rịn của người ra đi, kẻ ở lại như cách mà Tố Hữu thể hiện trong 8 câu thơ đầu của bài thơ Việt Bắc chắc chắn xưa nay chưa ai có thể lặp lại cảm xúc chân thật đến run rẩy từng làn da thơ thịt đến thế:

“- Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

– Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Không chỉ là 8 câu thơ mà đó còn là khúc giao thời của lòng người: cuộc bàn giao giữa chiến tranh và hòa bình đặt ra những vấn để tư tưởng, tình cảm rất bức thiết. Liệu cuộc sống hòa bình, yên vui có làm cho người ta quên đi nhân dân đã đổ máu xương làm nên thành công của cuộc cách mạng, ham hưởng thụ hòa bình có làm người ta quên đi những tháng năm gian khổ, nghĩa tình: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.

Chỉ những lúc người ta dễ quên nhất ấy, bài thơ “ Việt Bắc” xuất hiện vừa để ôn lại một thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng, vừa như một lời nhắc nhở kịp thời, sâu lắng làm lay động lòng người. Hãy nhớ lấy máu xương và nghĩa tình sâu nặng của nhân dân, hãy giữ lấy những tình cảm thủy chung của nhân dân đối với Cách mạng. Đây là thời điểm nhắc nhở rất có ích không chỉ cho lúc bấy giờ mà còn cho cả mai sau.Vị trí đoạn trích nằm ở phần đầu bài thơ, tái hiện một Việt Bắc trong tình yêu và nỗi nhớ của anh cán bộ miền xuôi. Đó là khúc ân tình trong bài ca trữ tình – chính trị “Việt Bắc” đằm thắm vào bậc nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại.

Khung cảnh mở đầu cho Việt Bắc mà Tố Hữu mang đến là 8 câu thơ gây xúc động lòng người bởi sự lưu luyến, bịn rụn, bang khuâng của kẻ di người ở lại trong ngày chia tay. Không khó để nhận ra 4 câu thơ đầu là lời cả người ở lại.

Trong cuộc chia tay ất người ở lại là người lên tiếng trước giống như trong ca dao dân ca, giao duyên xưa. Người ở lại đã gợi nhắc những kỷ niệm gắn bố suốt 15 năm với biết bao gian khổ, khổ khăn. Là Tố Hữu cố ý vẽ cảnh ly biệt nên đứng trước cảnh ly biệt ấy ta như bị nhuốm màu chia ly. Thêm đó việc tác giả đặt 2 đại từ “mình – ta” ở 2 câu đầu câu thơ càng tạo ra cảm giác xa xôi trăn trở ở giữa là tình cảnh băn khoăn day dứt khôn nguôi của người ở lại.

Người ở lại không nén được lòng mình nên đã đưa ra câu hỏi dồn dập, tha thiết “có nhớ ta”, “có nhớ không?”… lời người ở lại sợ người ra đi trở về thành thị xa xôi, vui nhộn sẽ quên hết kỷ niệm. 2 câu hỏi, một câu hỏi về thời gian, một câu hỏi về không gian, thời gian (15 năm) một quãng thời gian không phải quá dài mà cũng không phải quá ngắn những đã có biết bao cuộc tình, biết bao kỷ niẹm gắn bó thiết tha mặn nồng.

Câu hỏi về không gian thì người ở lại nhớ người ra đi, nhớ cảnh và người Việt Bắc có biết bao người tình đối với người kháng chiến. Người ở lại gợi nhắc nhở người ra đi: Người ở lại cũng hồi tưởng nhớ về quê hương, bởi núi là quan hệ của cây, người là nơi bắt nguồn của mỗi dòng sông… Câu thơ gợi đến câu ca dao “Con người có tổ có tông/ Như chim có tổ, như sống có nguồn”. Người ở lại là người hỏi người ra nhưng đồng thời cũng hành động vẫn sẽ mãi mãi nhớ trọn tấm lòng thuỷ chung của mình dù hoàn cảnh có đổi thay. Để rồi từ đó, người ra đi đáp lại người ở lại bằng bốn câu thơ:

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

4 câu thơ tiếp của khổ đầu chính là tiếng lòng của người ra đi. Người ra đi không trả lời trực tiếp câu hỏi của người ở lại nhưng trong lòng cũng mang nặng một nỗi nhớ khôn nguôi, người ra đi im lặng lắng nghe lời của người ở lại. Sự im lặng ấy là để tri âm tiếng ai đó ngân vang đai sâu vào tâm hồn mình. Người ra đi không trực tiếp nói bằng lời nó được diễn tả bằng sự bân khuâng trong tâm hồn đầy nhớ thương.

Người ở lại nói “thiết tha” người ra đi thì nghe thiết tha tạo nên một sự hô ứng đồng vọng thật gần gũi, thân thương. Trong câu thơ tác giả sử dụng rất nhiều từ láy giàu sức gợi cảm: bâng khuâng, bồn chồn,… cho thấy trong cuộc chai tay cả người ở kẻ đi đến lưu luyến, nghẹn ngào.

Giữa người đi và kẻ ở chỉ biết cầm tay nghẹn ngào không nói lên lời trong cái cầm tay ấy chứa bao điều muốn nói thành lời nhưng không thể nói ra. Cuộc chia tay giữa người cán bộ về xuôi có hình ảnh “áo chàm”- Hình ảnh hoán dụ tượng trưng cho toàn bộ người dân Việt Bắc trong ngày tiễn biệt, những người cách mạng về xuôi, hành động buông áo. Hình ảnh ấy còn gợi nhắc tình cảm thuỷ chung sâu sặng:

“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳn nhoà”

Người ở lại đặt ra câu hỏi nhưng người ra đi không trực tiếp trả lời câu hỏi đó mà thay vào đó người ra đi thể hiện tình cảm lưu luyến, bịn rịn trong buổi chia tay. Ấn tượng ban đầu đã tác động đến người ra đi: “Tiếng ai tha thiết bên cồn”. “Ai” là đại từ không xác định. “Ai” có thể là nhân vật đang xuất hiện trước mắt người ra đi, quen thuộc với người ra đi – một con người cụ thể xuất hiện “bên cồn” trong buổi chia li. “Ai” có thể là bất cứ người dân Việt Bắc đã cùng sống, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với người ra đi.

Dù hiểu theo cách nào thì ấn tượng tác động đến người ra đi là âm thanh tiếng nói tha thiết – đó chính là âm thanh rất đỗi ngọt ngào, thiết tha, sâu lắng. Và âm thanh đó dường như gọi về biết bao kỉ niệm, biết bao buổi trò chuyện tâm tình và âm thanh đó gọi về mối tình keo sơn gắn bó thân thiết giữa người ở lại với người ra đi.

Chính âm thanh đó đã khiến cho người ra đi “Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. Câu thơ ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối trong tương quan đối lập giữa bên trong và bên ngoài. “Trong dạ” thì “bâng khuâng” còn hành động bên ngoài biểu hiện sự “bồn chồn” thấp thỏm của người ra đi, nhưng lại có sự tương đồng trong cảm xúc và hành động. Chính vì cảm xúc “bâng khuâng” thì mới có hành động “bồn chồn” đó được.

Dấu ba chấm xuất hiện cuối dòng thơ như nốt nặng không lời, nhưng chính nó lại quý giá hơn rất nhiều những lời nói thường ngày bởi cái cầm tay đã nói lên tất cả những lưu luyến, bịn rịn. Câu thơ kết lại đoạn thơ có nhịp thơ thay đổi khác thường. Sự thay đổi của nhịp thơ không chỉ tạo nên sự ngập ngừng cho giọng điệu của câu thơ mà còn tạo nên cái ngập ngừng của tình cảm. Và đồng thời sự khác lạ trong nhịp thơ ấy đã diễn tả sự khác lạ trong diễn biến tình cảm của kẻ ở người đi.

Đoạn thơ là tiếng lòng của người đi kẻ ở trong buổi chia tay đầy bịn rịn, lưu luyến, bâng khuâng nó được thể hiện bằng lối đối đáp quen thuộc trong ca dao dân ca. Cặp đại từ xưng hô “mình-tôi” giống như một khúc hát giao duyên vừa đằm thắm vừa nặng nghĩa tình “Mình” ở đây là tình cảm của người ra đi kháng chiến về xuôi “ta” là để chỉ người dân Việt Bắc. Cặp đại từ xưng hô “mình-ta” trong ca dao dân ca được sử dụng để nói về tình yêu đôi lứa, tình cảm riêng tư nhưng ở đây TH đã sử dụng để chuyển tải tình cảm của người cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc và ngược lại. Đó là tình cảm chúng thuỷ gắn bó giữa nhân dân và cách mạng.

Hãy kể cho tôi một câu chuyện chia ly khiến chúng ta lắng động cùng mỗi câu chữ. Việt Bắc chính là thế, chỉ với tám dòng thơ mở đầu, người đọc cảm nhận một cách khá đầy đủ âm hưởng chung của cả bài thơ, âm hưởng khúc hát đối đáp, khúc hát ru nhẹ nhàng sâu lắng. Cùng với ngôn ngữ đậm màu sắc trữ tình của ca dao chúng ta có thể cảm nhận một cách sâu sắc đặc trưng trữ tình chính trị của thơ Tố Hữu.