So sánh bầy người nguyên thủy và công xã thị tộc

Trong khi lao động sản xuất, cải tạo thiên nhiên, con người cũng tự cải tạo bản thân mình. Đến thời hậu kì đồ đá cũ [khoảng 4 vạn năm trước đây], con người đã hoàn thành quá trình tự cải biến mình và trở thành Người tinh khôn hay còn gọi là Người hiện đại [Homo Sapiens]. Từ đó công xã thị tộc – tổ chức xã hội cơ bản của xã hội nguyên thủy cũng bắt đầu hình thành, chặt chẽ hơn, ổn định hơn bầy người nguyên thủy.

Sự xuất hiện Người tinh khôn

Đến thời hậu kì đồ đá cũ [khoảng 4 vạn năm trước đây], con người đã hoàn thành quá trình tự cải biến mình và trở thành Người tinh khôn hay còn gọi là Người hiện đại [Homo Sapiens]

Đặc điểm của Người tinh khôn

Người tinh khôn có cấu tạo cơ thể phát triển như người ngày nay. Các bộ phận cơ thể đã trở nên hoàn thiện, hai bàn tay nhỏ, khéo Iéo; các ngón tay – nhất là ngón cái linh hoạt hơn; trán cao, xương hàm nhỏ và không còn nhô ra phía trước; não đặc biệt phát triển [khoảng 1300 – 1500 cm3].

Sự xuất hiện Người tinh khôn là bước nhảy vọt thứ hai, sau bước nhảy từ vượn thành Người tối cổ. Di cốt của họ đã đươc tìm thấy ở hầu khắp các lục địa, chứng tỏ Người tinh khôn đã sinh sống ở hầu khắp mọi nơi trên trái đất.

Tìm hiểu thêm con người xuất hiện từ bao giờ?

Phân loại Người tinh khôn

Do sinh sống lâu dài ở những vùng có hoàn cảnh thiên nhiên khác nhau, nên ngay từ lúc đó ở Người hiện đại đã xuất hiện những đặc điểm khác nhau về màu da, về hình dáng mắt, môi, về đường cong và chiều cao của sống mũi, về cấu tạo và màu sắc của tóc v.v… Và cũng dựa trên những đặc điểm đó, người ta phân biệt ba đại chủng tộc khác nhau:

  • Ơrôpêôít sống chủ yếu ở châu Âu, Bắc Phi, Tây Á. Bắc Ấn;
  • Nêgơrôít sống ở vùng xích đạo và một số vùng khác của châu Phi và châu Á;
  • Môngôlôít bao gồm phần lớn cư dân sống ở châu Á và cả thổ dân người da đỏ châu Mỹ

Qua hàng triệu năm sinh sống, cư dân của 3 đại chủng tộc luôn luôn có sự giao tiếp, xáo trộn, lai tạo với nhau tạo nên các tiểu chủng tộc và từ đó hình thành các tộc người hiện đại. Vì vậy, ngày nay trên thế giới, bên cạnh những tộc người tiêu biểu cho 3 đại chủng trên, còn có những tộc người trung gian, là những thế hệ “con lai” của các đại chủng như tiểu chủng Ấn – Âu, Nam Á v.v…

Sự hình thành Công xã thị tộc

Công xã thị tộc hình thành cùng sự xuất hiện của Người tinh khôn

Sự xuất hiện Người tinh khôn đã diễn ra đồng thời với những thay đổi hết sức lớn lao trong đời sống vật chấttổ chức xã hội của loài người.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất với hình thức lao động tập thể, cuộc sống định cư và việc dùng lửa đã dần dần thắt chặt mối quan hệ của cộng đồng người nguyên thủy. Bầy người nguyên thủy với mối quan hệ lỏng lẻo, không bền vững của nó đã không còn thích hợp nữa và dần dần được thay thế bằng một tổ chức cộng đồng mới chặt chẽ hơn, ổn định hơn. Cộng đồng mới này được tổ chức theo mối quan hệ dòng máu, mọi thành viên đều bình đẳng về lợi ích vật chất và địa vị xã hội, cùng hợp tác với nhau trong lao động. Tổ chức đó là công xã thị tộc – tổ chức xã hội cơ bản của xã hội nguyên thủy đã hình thành.

Bộ máy tổ chức của công xã thị tộc

Thị tộc thực chất là một tổ chức xã hội gồm khoảng vài chục gia đình, với 3 – 4 thế hệ có cùng huyết tộc với nhau. Trong thị tộc, lớp con cháu có thói quen kính trọng và vâng lời ông bà, cha mẹ. Ngược lại, lớp ông bà, cha mẹ đều chăm lo, bảo đảm nuôi dạy tất cả lớp con cháu của thị tộc như nhau. Trong mỗi gia đình, con cái có thể được bố mẹ săn sóc, trìu mến, nhưng trẻ em của tất cả các gia đình thì không có sự phân biệt nhau về mức độ quan tâm của thị tộc.

Nhiều thị tộc có quan hệ dòng máu xa gần hợp thành một bộ lạc. Mỗi hộ lạc có tên gọi, nơi ở, ruộng đất, sông ngòi, rừng và đồng cỏ riêng. Các thành viên của bộ lạc cùng nói một thổ ngữ, cùng theo một tín ngưỡng và thực hiện những nghi thức cúng lễ riêng. Bộ lạc có quyền rất lớn đối với thị tộc, như công nhận hoặc bãi miễn tù trưởng, và thủ lĩnh quân sự của thị tộc. Đứng đầu bộ lạc là một thủ lĩnh được trao quyền giải quyết những công việc của bộ lạc theo quyết định của hội nghị bộ lạc. Hội đồng bộ lạc bao gồm thủ lĩnh bộ lạc, thủ lĩnh quân sự, các tù trưởng của thị tộc và nhiều khi cả tăng lữ nữa. Hội đồng này có quyền thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của bộ lạc như tuyên chiến, đình chiến, đón tiếp hoặc cử sứ giả đi.

Trong giai đoạn đầu của xã hội thị tộc, bộ lạc thường chia làm hai “nửa”, mỗi “nửa” gồm 2 hoặc 4 thị tộc – gọi là một bào tộc. Bào tộc có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các nghi lễ tôn giáo, hội hè và tổ chức lực Iượng vũ trang bảo vệ bộ lạc. Bào tộc cũng có trách nhiệm giải quyết những vụ xích mích trong bộ lạc hoặc bầu thủ lĩnh của bộ lạc.

Thời gian tồn tại của Công xã thị tộc

Sau khi ra đời ở hậu kì đồ đá cũ, công xã thị tộc phát triển thịnh vượng vào thời đồ đá giữa và giai đoạn sơ, trung kì thời đại đồ đá mới. Đến giai đoạn hậu kì thời đại đá mới, ở một số nơi, công xã thị tộc đã dần dần tan rã, nhường chỗ cho một xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo và sự bất bình đẳng

Trong suốt thời gian tồn lại đó, công xã thị tộc đã trải qua hai giai đoạn phát triển, gắn liền với hai hình thức tổ chức khác nhau của thị tộc, đó là thị tộc mẫu hệ và thị tộc phụ hệ.

Lịch sử thế giới cổ đại - NXB Giáo dục,

Xã hội nguyên thủy [hay còn gọi là công xã thị tộc] là giai đoạn đầu tiên và dài nhất trong lịch sử phát triển của loài người, từ khi có con người xuất hiện trên Trái Đất đến khi xã hội nguyên thuỷ chuyển đổi thành xã hội giai cấp và xuất hiện chế độ nhà nước.

Người San ở hoang mạc Kalahari, [ảnh năm 1892]

Tiến hóa loài người

Hộp này:

  • xem
  • thảo luận
  • sửa

−10 —

−9 —

−8 —

−7 —

−6 —

−5 —

−4 —

−3 —

−2 —

−1 —

0 —

Vượn
dạng người

Nakalipithecus

Ouranopithecus

Sahelanthropus

Orrorin

Ardipithecus

Australopithecus

Homo habilis

Homo erectus

Neanderthal

Homo sapiens

Vượn cổ xưa

Phân tách
LCA-Gorilla

Có thể đi hai chân

Phân tách
LCA-Tinh tinh

Bắt đầu đi hai chân

Đồ đá sơ khai

Rời châu Phi sớm nhất

Dùng lửa

Đến châu Âu

Nấu ăn

Quần áo

Tiếng nói

Người hiện đại


P
l
e
i
s
t
o
c
e
n
e


P
l
i
o
c
e
n
e


M
i
o
c
e
n
e


H

o

m

i

n

i

d

s

Tỷ lệ trục: Ma [triệu năm]
Xem thêm: Tiến hóa sự sống

Việc mô tả xã hội nguyên thủy được nêu trong khái niệm về Chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy do Karl Marx và Friedrich Engels đưa ra. Các nước trong Hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây đã biên tập trong sách giáo khoa phổ thông từ những năm 1950, và hiện còn dùng tại Việt Nam.[1]

Xã hội nguyên thủy phát triển kế thừa lối sống xã hội bầy đàn của linh trưởng tổ tiên, và thể hiện gần gũi nhất hiện có hai loài là tinh tinh và bonobo ở châu Phi [note 1]. Xã hội nguyên thủy cũng kết thúc khác nhau ở các vùng và dân tộc khác nhau. Nhiều dân tộc ở châu Phi, châu Á và Nam Mỹ đã có lối sống không thay đổi trong chục nghìn năm qua, và họ được coi là bảo tàng sống của loài người về thời nguyên thủy, như người Hadza [2][3], San [4][5] [Châu Phi], Sentinel [6] [Châu Á], Vanuatu [Châu Đại Dương],...

Người tinh khôn với số lượng nhất định, kế thừa lối sống linh trưởng tổ tiên, đã tổ chức thành thị tộc là những nhóm người gồm vài chục gia đình, có quan hệ gần gũi với nhau, thậm chí do cùng một bà mẹ đẻ ra [hay gọi là có quan hệ huyết thống với nhau], sống quây quần cùng làm chung ăn chung [7].

Người tinh khôn có khả năng ăn tạp, ban đầu sống dựa theo hái lượm cây trái và săn bắt các con thú. Bên cạnh kỹ năng tự kiếm ăn, họ đã biết hợp sức nhau săn đuổi, tức là dùng số đông người bao vây lấy bầy động vật, dồn cho chúng lao xuống vực, sau đó mới ném đá, phóng lao xuống cho chúng chết hẳn. Vì vậy, những công việc như thế, luôn đòi hỏi sự phối hợp ăn ý với nhau.[7]

Theo mô tả trong sách giáo khoa tại Việt Nam thì trong nội bộ thị tộc, người ta không phân biệt đâu là của anh và đâu là của tôi. Nói cách khác, trong thị tộc không có sở hữu tư nhân, nhưng có sở hữu của thị tộc.[7] Tuy nhiên, là một động vật xã hội thì trong thị tộc có sự phân chia đẳng cấp nhất định. Sự phân chia này xác định nhiệm vụ của cá thể trong các hoạt động có tổ chức khi săn bắt hoặc tranh chấp lãnh thổ. Tại các thị tộc khác nhau thì quan hệ quyền lực của đẳng cấp với nhau là khác nhau, giống như các dân tộc hiện đại đang có những tập quán khác nhau.

Mỗi thị tộc chiếm cứ một khu vực xác định, tức lãnh thổ của thị tộc. Sự phát triển không đều của các thị tộc, gồm có hoặc phát triển lên và phân chia ra các thị tộc mới, hoặc tàn lụi do bệnh tật hay tai biến, cùng với xâm lấn lãnh thổ của thị tộc khác, dẫn đến lãnh thổ có thể thay đổi. Áp lực dân số từ các thị tộc phát triển hơn, dẫn đến các biên giới lãnh thổ thay đổi theo định hướng nhất định, tạo ra hiện tượng gọi là Các dòng di cư sớm thời tiền sử.

 

Người Vanuatu tạo lửa, 2005

 

Người San hiện tại

Việc phát hiện ra kim loại để làm công cụ lao động có ý nghĩa hết sức to lớn. Trước kia con người chỉ biết sử dụng đá để làm công cụ. Cho tới khoảng 4000 năm TCN, con người đã phát hiện ra đồng kim loại. Đồng kim loại rất mềm, nên chủ yếu dùng làm đồ trang sức. Sau đó họ biết pha đồng với thiếc và chì cho đồng cứng hơn, gọi là đồng thau. Từ đó, người ta đã đúc ra được các loại rìu, cuốc, thương giáo, lao, mũi tên, trống đồng,v.v...[7]. Khoảng 3000 năm trước đây, cư dân ở Tây Á và Nam Âu là những người đầu tiên biết đúc và dùng đồ sắt để làm lưỡi cày, cuốc, liềm, kiếm, dao găm, v.v...

Nhờ có công cụ kim khí, con người có thể khai phá thêm đất hoang, tăng năng suất lao động, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, không chỉ đủ ăn mà còn có của dư thừa...

Do có công cụ lao động mới, tức sự xuất hiện các công cụ kim loại, một số người có khả năng lao động giỏi hơn, tạo ra nhiều của cải hơn đến nỗi dư thừa, hoặc lợi dụng vị trí hay uy tín của mình để chiếm đoạt một phần của cải dư thừa của người khác và trở nên giàu có, còn một số người khác lại khổ cực thiếu thốn.[7]

Chế độ "làm chung, ăn chung, hưởng chung" ở thời kì công xã thị tộc bị phá vỡ. Xã hội nguyên thủy dẫn tan rã, nhường chỗ cho xã hội có giai cấp.

  1. ^ Người cùng với tinh tinh và bonobo là 3 loài họ hàng với nhau.

  1. ^ Lịch sử, lớp 10. Người Kể Sử, 2017.
  2. ^ Marlowe, F. W. [2010]. The Hadza: Hunter-Gatherers of Tanzania. Berkeley: Univ. California Press. ISBN 978-0-520-25342-1.
  3. ^ Ndagala, D. K.; Zengu, N. [1994]. “From the raw to the cooked: Hadzabe perceptions of their past”. Trong Robert Layton [biên tập]. Who needs the past?: indigenous values and archaeology. London: Routledge. tr. 51–56. ISBN 0415095581.
  4. ^ Barnard, Alan [2007]. Anthropology and the Bushman. Oxford: Berg. tr. 4–7. ISBN 9781847883308.
  5. ^ “Who are the San? – San Map [Click on the image to enlarge]”. WIMSA. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017.
  6. ^ “Earth from Space: North Sentinel Island”. Cơ quan vũ trụ châu Âu [ESA]. ngày 29 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2015. The 72-square-kilometre-area North Sentinel Island is home to the fiercely independent Sentinelese tribe, known to reject any contact with outsiders. The Indian government carried out its 2001 census of the Island from a distance, counting a total population of 21 males and 18 females, although other estimates range higher, to a maximum of 500.
  7. ^ a b c d e Lịch sử 6 [Sách Giáo viên]. Nhà xuất bản Giáo dục. 2002.

2. Lương Ninh, Lịch sử thế giới cổ đại, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2002

  • Cổ nhân loại học
  • Nhân loại học
  • Người tối cổ
  • Người tinh khôn
  • Tiến hóa loài người
  • Cái nôi của nhân loại
  • Tiến trình tiến hóa loài người
  • Các dòng di cư sớm thời tiền sử
  • The Incredible Human Journey, phim tài liệu
  • Primitive culture, sách do Edward Burnett Tylor xuất bản năm 1871
  • Chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy

  • Chế độ công xã nguyên thủy tại Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Công xã thị tộc tại Từ điển bách khoa Việt Nam

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Xã_hội_nguyên_thủy&oldid=68175585”

Video liên quan

Chủ Đề