So sánh đào tạo và bồi dưỡng

Mô hình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khu vực công tại một số quốc gia và những gợi mở đối với Việt Nam

Ngày đăng: 20/10/2021 03:02
Mặc định Cỡ chữ
Bài viết giới thiệu mô hình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khu vực công của một số quốc gia, qua đó đưa ra những gợi mở đối với Việt Nam trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Ảnh minh họa: internet

Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khu vực công sẽ góp phần rất quan trọng vào việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thúc đẩy sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước...; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”[1]. Chính vì vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đặt ra hiện nay, góp phần đạt được các mục tiêu phát triển đất nước. Nghiên cứu mô hình đào tạo, bồi dưỡng công chức của một số quốc gia có thể là nguồn kinh nghiệm tham khảo quý cho Việt Nam, khi chúng ta mong muốn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đạt chất lượng cao, làm việc có hiệu quả.

Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước...; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung” - Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

1. Mô hình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khu vực công của một số quốc gia

1.1. Mô hình của Singapore

Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore được coi là hình mẫu về phát triển nguồn nhân lực. Để có được đội ngũ công chức đủ mạnh, Singapore đã quan tâm đến hệ thống đào tạo từ cấp bậc phổ thông. Hệ thống giáo dục của Singapore rất linh hoạt và luôn hướng đến khả năng, sở thích cũng như năng khiếu của từng cá nhân nhằm giúp họ phát huy cao nhất tiềm năng của mình. Bên cạnh việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học - công nghệ mới vào giảng dạy, chương trình đào tạo của Singapore luôn chú trọng vào giáo dục nhân cách, truyền thống văn hóa dân tộc.

Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng công chức nhằm phát huy cao độ tiềm lực của con người phát triển được Chính phủ Singapore đặc biệt quan tâm. Điều đó được thể hiện trước hết ở việc đầu tư rất lớn cho đào tạo [xây dựng cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên; chính sách ưu đãi…]. Việc đào tạo, bồi dưỡng công chức theo hướng mỗi người đều cần được phát triển tài năng riêng; tạo thói quen học tập suốt đời, liên tục học hỏi để mỗi công chức có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ phục vụ tốt cho nền công vụ. Chính phủ Singapore xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong các khóa đào tạo ngắn hạn, dài hạn, đào tạo kế nhiệm, bài bản, từ xa. Thời gian đào tạo tối thiểu bắt buộc là 100 giờ trong một năm đối với mỗi công chức. Trong đó, 60% nội dung đào tạo về chuyên môn, 40% nội dung đào tạo liên quan đến phát triển[2].

Có nhiều khóa học khác nhau dành cho các đối tượng. Khóa học làm quen với công việc dành cho công chức mới được tuyển dụng, hoặc mới chuyển công tác từ nơi khác đến; khóa học cơ bản đào tạo để công chức thích ứng với công tác của mình trong năm công tá cđầu tiên; khóa học đào tạo nâng cao để giúp công chức đạt hiệu quả cao nhất trong công việc; khóa học mở rộng tạo điều kiện cho công chức vượt ra khỏi công việc của mình, có thể làm những công việc khác liên quan khi cần thiết; khóa đào tạo tiếp tục để nâng cao khả năng làm việc của công chức trong tương lai. Các khóa học này liên quan chặt chẽ tới đường chức nghiệp và việc chỉ định vị trí công việc của công chức. Hàng năm, Chính phủ Singapore dành khoảng 4% ngân sách cho công tác đào tạo, bồi dưỡng. Công chức được đi học sau đại học bằng học bổng của Chính phủ với điều kiện sau khi học phải phục vụ trong các cơ quan của Chính phủ từ 03 đến 05 năm, nếu không thì phải hoàn trả phí đào tạo.

1.2. Mô hình của Trung Quốc

Chính phủ Trung Quốc rất quan tâm đến việc đào tạo và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực hiện có trong nước, nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực này khi chuyển sang phát triển kinh tế tri thức. Trung Quốc đã đề ra Chiến lược tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo nhân tài, trong đó đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả. Nội dung của Chiến lược là: lấy nhân tài chấn hưng đất nước, xây dựng đội ngũ nhân tài đông đảo, chất lượng cao; kiên quyết quán triệt phương châm tôn trọng lao động, trí thức, tôn trọng nhân tài và sự sáng tạo, lấy thúc đẩy phát triển làm xuất phát điểm cơ bản của công tác nhân tài, điều chỉnh nhân tài một cách hợp lý, lấy xây dựng năng lực làm cốt lõi, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nhân tài, kiên trì đổi mới sáng tạo, nỗ lực hình thành cơ chế đánh giá và sử dụng nhân tài một cách khoa học[3]...

Trung Quốc đặc biệt chú trọng nâng cao trình độ chính trị, phẩm chất, năng lực chuyên môn nhằm xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp và có chất lượng cao, đây là một phần trong Chiến lược thực hiện và đẩy nhanh quá trình cải cách hệ thống công vụ.

Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng chủ yếu được xây dựng dựa vào vị trí của từng công chức. Thông thường một khóa học của công chức bao gồm khóa học cơ bản và khóa học chuyên môn, gọi là mô hình “cơ bản + chuyên môn”. Trong đó, khóa học cơ bản đi sâu vào các nội dung như: về học thuyết chính trị, về luật hành chính, về hành chính công, về phát triển kinh tế - xã hội..; khóa học chuyên môn thường được thiết kế dựa vào các nhu cầu khác nhau của công chức ở các nhóm và các cấp khác nhau, thể hiện tính chuyên môn trong đào tạo cho các cấp và các loại công chức khác nhau. Tỷ lệ của các khóa học thường được sắp xếp là 30% cơ bản và 70% chuyên môn. Cấu trúc và thời lượng bài học có thể được sắp xếp theo tỷ lệ bài giảng là 70%, thảo luận và trao đổi là 10%, điều tra là 10%, giấy tờ và văn bản là 5%, các khóa học kinh nghiệm là 5%[4].

Có thể nói, công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức của Trung Quốc khá linh hoạt song vẫn theo đúng nguyên tắc công khai, công bằng, cạnh tranh, chọn được người giỏi; lý luận gắn với thực tế, học tập gắn liền với ứng dụng, coi trọng hiệu quả thiết thực; không bồi dưỡng đủ thì không đề bạt. Đặc biệt, Trung Quốc rất chú trọng rèn luyện năng lực thực hành của công chức trong thực tiễn, coi đây là một trong ba tố chất chủ yếu tạo nên phẩm chất công chức, đó là trình độ lý luận chính trị, năng lực hoạt động thực tiễn và tính tự trọng, tự lập.

Giảng viên ở các trường hành chính, trường Đảng các cấp và các cơ sở đào tạo khác, bên cạnh đội ngũ giảng viên chuyên trách được đào tạo bài bản và thường xuyên được bồi dưỡng cập nhật kiến thức, còn có đội ngũ giảng viên kiêm chức. Nguồn giảng viên kiêm chức khá đa dạng và hình thức lựa chọn linh hoạt. Những công chức có năng lực chuyên môn cao, các chuyên gia hoặc các học giả từ các trường cao hơn và từ các viện nghiên cứu khoa học có thể được lựa chọn vào vị trí này.

Để nắm bắt được sự thay đổi trong quá trình thực thi công vụ của công chức, Chính phủ Trung Quốc chú trọng đánh giá quá trình đào tạo, bồi dưỡng của họ qua hai cách thức chủ yếu là đánh giá thái độ học tập và đánh giá kết quả học tập. Việc đánh giá thái độ học tập dựa vào việc học viên tham gia đầy đủ thời gian đào tạo theo quy định và việc chấp hành kỷ luật nghiêm túc. Kết quả học tập được đánh giá dựa trên số điểm của các bài kiểm tra, tiểu luận, đề tài. Việc đánh giá học viên trong trường được thực hiện dưới hình thức "Mẫu đăng ký đánh giá đào tạo công chức", đó là những thông tin phản hồi tới cơ quan, đơn vị mà học viên đang công tác. Đây là một trong những cơ sở cho quy trình kiểm tra và đánh giá hàng năm của bộ phận tổ chức nhân sự.

1.3. Mô hình của Nhật Bản

Nhật Bản là một trong những quốc gia đi đầu trong phát triển nguồn nhân lực. Chính phủ Nhật Bản đặc biệt chú trọng tới giáo dục - đào tạo, thực sự coi đây là quốc sách hàng đầu. Nội dung chương trình bồi dưỡng kiến thức cho công chức Nhật Bản thường tập trung vào lĩnh vực pháp luật quản lý nhà nước. Ví dụ, những kiến thức về chuyên môn trong các khóa bồi dưỡng theo chức danh được thiết kế thành 6 chương trình: 1] Bồi dưỡng cho công chức mới được tuyển dụng; 2] Tập huấn cho lãnh đạo nhóm; 3] Tập huấn cho các trưởng nhóm; 4] Tập huấn cho các phó trưởng phòng; 5] Tập huấn cho trưởng phòng; 6] Các hội thảo quản lý theo ngành, theo lĩnh vực.

Mục tiêu các khóa bồi dưỡng theo lĩnh vực chuyên môn đặc thù ở Nhật Bản nhằm giúp công chức có kiến thức chuyên môn, kỹ năng nâng cao trong các lĩnh vực hoạt động công vụ. Nội dung gồm các vấn đề lý luận cơ bản như: đạo đức và nghĩa vụ của công chức; phương pháp làm việc của công chức; nội dung công việc của công chức; cơ chế phối hợp công việc và trách nhiệm giải trình của công chức; pháp luật và kinh tế: Hiến pháp Nhật Bản, Luật hành chính, Luật dân sự, kinh tế, tài chính công, Luật chính sách, Luật dịch vụ công cộng địa phương; tổ chức bộ máy chính quyền và tài chính: hệ thống chính quyền địa phương, hệ thống nhân sự địa phương, hệ thống thuế và tài chính địa phương, xu hướng và các vấn đề về phân cấp của chính quyền, chiến lược nhân sự trong phân cấp của chính quyền, lý thuyết chính quyền địa phương so sánh; các lý thuyết chính sách công: lý thuyết chính sách công cơ bản; lý thuyết và thực tiễn của quản lý công mới; thủ tục và chiến lược xây dựng chính sách; đánh giá chính sách của chính quyền địa phương; khảo sát và thống kê xã hội cơ bản; địa lý và Chính phủ Nhật Bản.v.v[5].

1.4. Mô hình của Hàn Quốc

Từ năm 2001, Chính phủ Hàn Quốc công bố Chiến lược quốc gia lần thứ nhất về phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001-2005. Tiếp đó, các chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực trong các thời kỳ tiếp theo được xây dựng và thực hiện hiệu quả[6]. Nội dung chính của các chiến lược này đề cập tới sự tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, trường đại học và các cơ sở nghiên cứu; nâng cao trình độ sử dụng và quản lý nguồn nhân lực, nâng cao tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực trong khu vực công; xây dựng hệ thống đánh giá và quản lý kiến thức, kỹ năng và công việc; xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin cho phát triển nguồn nhân lực; xây dựng và phát triển thị trường tri thức...

Chính phủ Hàn Quốc rất chú trọng nội dung bồi dưỡng về đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức với hai mục tiêu: đảm bảo sự hỗ trợ nhằm duy trì kiểm soát hành chính và để thay đổi tư duy của công chức. Ngoài đạo đức công vụ, lý thuyết về dân chủ cũng là một trong những nội dung quan trọng trong bồi dưỡng công chức, bởi vì đảm bảo tính hợp pháp chính trị cũng là một mục tiêu của bồi dưỡng về đạo đức công vụ. Các khóa học về đạo đức công vụ được thực hiện theo ba hình thức: 1] Một chương trình riêng biệt, độc lập với các chương trình bồi dưỡng khác; 2] Được tích hợp trong chương trình bồi dưỡng khác như “Phân tích tham nhũng”, “Tình hình quốc tế”, “Sứ mệnh và kỷ luật của công chức”...; 3] Được bồi dưỡng dưới hình thức trải nghiệm thực tế. Đối với hình thức này, người học sẽ được tham gia vào một nhóm cụ thể để thực hiện các dự án cụ thể. Các nhóm thực hiện những chuyến đi thực địa đến các vùng nông thôn, các cụm công nghiệp và các di tích lịch sử cũng như chính quyền các cấp để trải nghiệm, trao đổi thông tin. Các hoạt động này giúp nâng cao nhận thức của người học về đạo đức công chức, đạo đức công vụ, cách thức phục vụ người dân tốt hơn[7].

2. Những gợi mở đối với Việt Nam

Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khu vực công ở Việt Nam còn gặp những khó khăn nhất định. Từ kinh nghiệm của các quốc gia nêu trên, có thể rút ra những giá trị tham khảo đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khu vực công ở Việt Nam như sau:

Một là, cần nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, công chức, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành về vai trò, ý nghĩa của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức để có những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác này. Khi nhận thức được tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng, mỗi cán bộ, công chức không chỉ tích cực học tập, trau dồi năng lực quản lý, điều hành cho bản thân mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ, mà quan trọng hơn là tạo ra cơ chế, chính sách thông thoáng và điều kiện thuận lợi để công chức tham gia tích cực vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng.

"Gắn đào tạo với sử dụng, đánh giá, đãi ngộ và phát triển cán bộ, công chức. Bố trí nhân sự theo đúng chuyên môn được đào tạo, theo yêu cầu của công việc; xây dựng môi trường làm việc dân chủ, sáng tạo, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh; có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám hành động và dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền. Tăng cường đào tạo và sát hạch chất lượng nhân sự, kiên quyết thay thế những người yếu kém về phẩm chất và năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời, cần đổi mới đánh giá theo hướng tập trung vào hiệu quả công việc của công chức”.

Hai là, tăng cường chỉ đạo thống nhất công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức từ Trung ương đến địa phương, đồng thời thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng, hợp lý về thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp, các đơn vị trong công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức; bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, giữa cơ quan chủ trì với cơ quan phối hợp.

Ba là, hoàn thiện các quy định về các khóa đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc mà công chức phải trải qua trước khi nhận nhiệm vụ, hoặc được luân chuyển, bổ nhiệm, thăng tiến lên các vị trí quản lý cao hơn. Mặt khác, cần gắn kết giữa chính sách đào tạo, bồi dưỡng với các nội dung khác trong công tác cán bộ như quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, trả lương, xếp lương và nâng lương... tạo sự liên thông, đồng bộ có tác dụng khuyến khích công chức vươn lên trong học tập và công tác.

Bốn là, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khu vực công ở các cơ sở đào tạo. Đào tạo phải gắn liền với thực tiễn, bám sát nhu cầu và đòi hỏi của thực tiễn, gắn đào tạo lý thuyết với thực hành. Để thực hiện, cần phải làm tốt những nội dung sau:

- Hệ thống hóa và nâng cao chất lượng chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng công chức. Việc xây dựng chương trình phải chú ý hơn tới nhu cầu của người học, phù hợp với từng đối tượng cán bộ, công chức và có tính hướng dẫn kỹ năng, nghiệp vụ cao; giảm kiến thức lý luận. Khi thiết kế nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần tham khảo ý kiến đánh giá, nhận xét, góp ý của chính những người học và của cơ quan, đơn vị cử đi học. Thực tế cho thấy, nội dung chương trình chỉ thu hút được người học khi thực sự thiết thực đối với họ.

- Xác định rõ mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng đối với từng đối tượng cán bộ, công chức, từ đó xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp và sát với nhu cầu, tránh tình trạng một nội dung bài giảng áp dụng cho tất cả các đối tượng.

- Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức toàn diện, tiếp tục mở rộng những lớp học chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ, công chức trên một số lĩnh vực như quản lý hành chính về tài chính, quản lý hành chính về tổ chức… gắn với các chức danh cụ thể như công chức văn phòng, công chức địa chính.v.v.

- Ngoài phương pháp thuyết trình, nghe, ghi truyền thống, cần tăng cường các bài tập tình huống, trao đổi thảo luận, tham quan khảo sát, kiểm tra sát hạch các kiến thức đã học vào vận dụng thực tế. Mặt khác, cần phân loại học viên, ví dụ, đối với các địa phương vùng ven đô, thị trấn, ngoài những kiến thức chung cho những cán bộ, công chức cần bổ trợ kiến thức về quản lý đô thị. Đối với các địa phương vùng sâu, vùng xa, cần bổ trợ kiến thức quản lý nhà nước về môi trường, dân tộc và tôn giáo. Mặt khác, cần có sự phân loại học viên theo trình độ để đưa vào các lớp học khác nhau, từ đó xác định mục tiêu và nội dung giảng dạy nhằm đạt kết quả cao trong công tác đào tạo, bồi dưỡng.

- Cần tiếp tục tăng cường xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Mở rộng xây dựng đội ngũ giảng viên kiêm chức, thỉnh giảng là những báo cáo viên, các chuyên gia đầu ngành, các nhà lãnh đạo, quản lý trong các lĩnh vực để đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng ngày càng cao của công chức.

Năm là, xây dựng tiêu chí đảm bảo chất lượng, đánh giá chất lượng công chức sau đào tạo, bồi dưỡng một cách công khai, minh bạch, đúng thực chất. Không nên đề cập đến chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức qua việc thống kê số lượng các loại bằng cấp, bởi vì vấn đề này chưa thực sự phản ánh đúng năng lực, trình độ của mỗi cán bộ, công chức./.

------------------------

Ghi chú:
[1] Xem: Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Website Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, //tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-3669
[2] Xem: //www.cscollege.gov.sg/Pages/Default.aspx - Website của Trường Công vụ Singapore.
[3] Đào Thị Tùng, Kinh nghiệm trong đào tạo, bồi dưỡng công chức ở một số nước, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2011.
[4] Xem: //www.chinatoday.com/gov/a.htm.
[5],[7] Nguyễn Minh Phương, Nội dung chương trình bồi dưỡng công chức của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam, //snv.laocai.gov.vn/1237/27797/45975/357220/dao-tao-boi-duong-cbccvc/noi-dung-chuong-trinh-boi-duong-cong-chuc-cua-mot-so-nuoc-tren-the-gioi-va-kinh-nghiem.
[6] Education System in Korea - www.eslteachersboard.com/cgi-bin/korea.../index.pl.

PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà - Phó Trưởng khoa, Khoa Nhà nước - Pháp luật và Lý luận cơ sở, Học viện Hành chính Quốc gia

tcnn.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Một số điểm mới về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức

Thứ sáu - 22/10/2021 08:58
Ngày 18/10/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 89/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Theo đó, so với Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, Nghị định số 89/2021/NĐ-CP có một số điểm mới như sau:
1. Về đối tượng
Nghị định số 89/2021/NĐ-CP bỏ đối tượng “công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập” trong Nghị định số 101/2017/NĐ-CP nhằm phù hợp với khái niệm công chức theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức năm 2019.

Theo đó, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng gồm có: [1] Cán bộ trong các cơ quan nhà nước; [2] Công chức trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị-xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và công chức xã, phường, thị trấn [sau đây gọi là cấp xã].

2. Về hình thức bồi dưỡng
Nghị định số 89/2021/NĐ-CP bỏ 02 hình thức bồi dưỡng: tập sự và bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành bắt buộc hàng năm [thời gian thực hiện tối thiểu là 01 tuần/01 năm; một tuần được tính bằng 05 ngày học, một ngày học 08 tiết], đồng thời bổ sung hình thức bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ, chức danh cán bộ, công chức cấp xã.

Theo đó, có 04 hình thức bồi dưỡng theo quy định hiện nay: [1] Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức, [2] Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ, chức danh lãnh đạo, quản lý, [3] Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ, chức danh cán bộ, công chức cấp xã, [4] Bồi dưỡng theo yêu cầu vị trí việc làm.

3. Về nội dung bồi dưỡng
Nghị định số 89/2021/NĐ-CP bỏ 02 nội dung bồi dưỡng: Kiến thức quản lý chuyên ngành, chuyên môn, nghiệp vụ; đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp; kiến thức hội nhập quốc tế và Tiếng dân tộc, tin học, ngoại ngữ, đồng thời, bổ sung 01 nội dung bồi dưỡng: Kiến thức, kỹ năng theo yêu cầu vị trí việc làm.

Theo đó, có 04 nội dung bồi dưỡng theo quy định hiện nay: [1] Lý luận chính trị, [2] Kiến thức quốc phòng và an ninh, [3] Kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước [4] Kiến thức, kỹ năng theo yêu cầu vị trí việc làm.

4. Về chứng chỉ chương trình bồi dưỡng
Nhằm phù hợp với quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức năm 2019, Nghị định số 89/2021/NĐ-CP đã bỏ các nội dung sau:

- Chứng chỉ chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức [không có yêu cầu về chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức để nâng ngạch].

- Chứng chỉ chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức có giá trị thay thế chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp tương ứng.

- Chứng chỉ chương trình bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành là một trong những căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ trong năm của cán bộ, công chức, viên chức.

Nghị định số 89/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung quy định: Viên chức có chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật được sử dụng thay thế chứng chỉ chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành tương ứng.

Bên cạnh đó, Nghị định số 89/2021/NĐ-CP còn quy định việc cán bộ, công chức, viên chức có chứng chỉ hoàn thành các chương trình bồi dưỡng quy định tại khoản 3, khoản 4, khoản 5, khoản 6, khoản 7 Điều 17 Nghị định số 101/2017/NĐ-CP [Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn ngạch công chức; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước trước khi bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý cấp xã; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành] hoặc đã được bổ nhiệm vào chức vụ, ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức trước ngày 30/6/2022 thì không phải tham gia các chương trình bồi dưỡng tương ứng theo quy định của Nghị định này.

Nghị định số 89/2021/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 10/12/2021./.

Tác giả bài viết: Mai Phương

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

I. Một số khái niệm liên quan.
1. Khái niệm cán bộ, công chức.
Các cơ quan quản lý nhà nước là một loại tổ chức đặc biệt được sử dụng quyền lực nhà nước để quản lý mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và là loại tổ chức trong đó nguồn nhân lực của tổ chức lại chính là những người được giao trực tiếp để thực hiện chức năng đó. Nhân sự trong các cơ quan HCNN là đội ngũ cán bộ, công chức theo quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008.Trong Điều 4 Luật đã ghi rõ:
“1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương [sau đây gọi chung là cấp tỉnh], ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh [sau đây gọi chung là cấp huyện], trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội [sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập], trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn [sau đây gọi chung là cấp xã] là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.”
Họ được nhà nước sử dụng, có những chính sách đãi ngộ vì vậy mà họ phải tuân theo các quy định của nhà nước đề ra để đảm bảo cho nhà nước có thể tồn tại và phát triển bền vững.
2. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng.
“Đào tạo” và “bồi dưỡng” là các thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến trong các văn bản quy phạm pháp luật cũng như các tài liệu nghiên cứu ở nước ta, tuy nhiên cách tiếp cận này cũng theo nhiều chiều khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, 2005: “Đào tạo: làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”; “Bồi dưỡng: làm cho năng lực hoặc phẩm chất tăng thêm”.
Theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 03 năm 2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức [có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/05/2010], tại Điều 5 giải thích: “Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học” và “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”.
Từ các cách tiếp cận trên, có thể đưa ra một quan niệm về đào tạo, bồi dưỡng như sau: đào tạo là quá trình trang bị những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp thích hợp để người được đào tạo có thể đảm nhận được một công việc nhất định; bồi dưỡng là quá trình nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp trên cơ sở của mặt bằng kiến thức đã được đào tạo trước đó.
II. Vai trò, chức năng của đào tạo, bồi dưỡng
1. Vai trò của đào tạo, bồi dưỡng.
Cán bộ công chức đóng vai trò quyết định đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Trong những năm qua với việc thực hiện cải cách hành chính, vấn đề đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước được đặc biệt chú trọng, vì thế chất lượng đội ngũ cán bộ công chức đã không ngừng tăng lên đáp ứng nhu cầu phát triển của đời sống xã hội.
Việc đào tạo, bồi dưởng CBCC có vai trò hết sức quan trọng:
Thứ nhất, trang bị kiến thức, kỷ năng, phương pháp cho việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ công chức.
Thứ hai,góp phầnxây dựngđội ngũ CBCC chuyên nghiệp có đủ năng lực để xây dựng nềnhành chínhtiên tiến, hiện đại.
Thứ ba, hoạt động đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước là một công cụ của phát triển chức nghiệp.Với những vai trò chủ yếu sau:
- Hoàn thiện chất lượng dịch vụ cung cấp cho công dân;
- Tăng số lượng dịch vụ được cung cấp;
- Giảm chi phí hoạt động;
- Giảm nhưng sai phạm không đáng có;
- Tăng sự hài lòng của công dân với tổ chức nhà nước;
- Tạo cho cán bộ , công chức cập nhật kiến thức của bản thân: bồi dưỡng để công chức thực thi tốt các văn bản pháp luật mới; cung cấp những kiến thức vềcông nghệmới; học tiếng nước ngoài[tiếng Anh, pháp ]; tạo ra đội ngũ công chức có chuyên môn,kỹ năngđể thực thi công vụ tốt hơn, nhằm thực hiện cải cách nền hành chính nhà nước; phát triển năng lực để hoạch định và thực thi chínhsáchcông; trung thành với chính phủ trong việc thực thi chính sách; thực hiện dịch vụ định hướng khách hàng theo hệ thống tiêu chuẩn; áp dụng kỹ năng quản lý mới; hoàn thiện đạo đức công chức nhằm chống tham nhũng;
- Tạo cơ hội để cơ cấu lại tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và nền hành chính nói riêng.
2. Chức năng của đào tạo, bồi dưỡng
2.1. Là phương tiện truyền thụ, trao đổi kiến thức, kĩ năng.
Thông qua đào tạo, bồi dưỡng, người lao động tiếp thu kĩ năng, kiến thức để thực thi công việc được giao một cách có hiệu quả và chất lượng. Khối kiến thức, kĩ năng được sắp xếp một cách có hệ thống bằng các chương trình, tài liệu và chúng được các cơ quan, tổ chức giảng dạy, trao đổi bằng nhiều phương pháp khác nhau nhưng phải đảm bảo khối lượng kiến thức, kỹ năng đó đến được với cán bộ, công chức. Do vậy, khối lượng kiến thức kĩ năng thực chất là một sản phẩm trí tuệ, khoa học được cung cấp tới người lao động thông qua phương tiện là đào tạo, bồi dưỡng.
Việc xác định đào tạo, bồi dưỡng là phương tiện truyền thụ, trao đổi kiến thức, kỹ năng đã khắc phục những nhược điểm, hạn chế của việc trang bị kiến thức, kỹ năng không qua đào tạo, bồi dưỡng. Đào tạo, bồi dưỡng có mục tiêu, đối tượng và theo từng nội dung, chương trình, tài liệu sẽ giúp quá trình học tập của cán bộ, công chức diễn ra nhanh hơn, hiệu quả hơn tạo động lực cho từng cán bộ, công chức phấn đấu trưởng thành và thúc đẩy quá trình cải cách hành chính được thuận lợi. Tuy nhiên để thực hiện tốt chức năng này thì khối lượng kiến thức, kỹ năng phải được thẩm định rất khoa học bởi các cơ quan có thẩm quyền thông qua các chương trình, giáo trình, tài liệu với các nội dung phong phú và đa dạng có chọn lọc, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam.
2.2. Chức năng đánh giá
Kết quả của việc đào tạo, bồi dưỡng là khối lượng kiến thức, kĩ năng mà người lao động tiếp thu được và các văn bằng, chứng chỉ phù hợp với kiến thức, kĩ năng đó. Đây là một trong những căn cứ để đánh giá năng lực, trình độ người lao động khi cơ hội tiếp thu là bình đẳng trong các khóa đào tạo, bồi dưỡng. Việc đánh giá, kiểm tra trước khi đào tạo bồi dưỡng sẽ là cơ sở cho việc xác định nội dung chương trình, giáo trình, tài liệu cũng như chất lượng đội ngũ giảng viên. Hoạt động này thực chất là quá trình thực hiện chưc năng đánh giá của đào tạo, bồi dưỡng.


2.3. Chức năng phát triển
Phát triển năng lực người lao động là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhân sự đáp ứng những thay đổi bên ngoài và đòi hỏi của hoạt động thực tiễn trong nội bộ mỗi tổ chức. Nó đảm nhận việc tăng cường thêm khả năng và thái độ tích cực của nhân viên.
Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức được xem xét thông qua sự trưởng thành về số lượng, chất lượng và các yếu tố tâm lý. Chất lượng cán bộ, công chức phụ thuộc vào phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp.
Phát triển năng lực đội ngũ cán bộ, công chức là yếu tố quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Phát triển năng lực đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng những thay đổi bên ngoài nền công vụ và đòi hỏi phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong nền công vụ. Nó đảm bảo tăng cường thêm sinh lực cho khả năng và thái độ tích cực của cán bộ, công chức. Khả năng mà không kèm theo thái độ tích cực sẽ là mất thăng bằng, cũng như thái độ tích cực không kèm theo khả năng là trì trệ. Nhiều người chỉ ra rằng phát triển năng lực chính là sự tích lũy kiến thức, kỹ năng và thái độ của đội ngũ cán bộ, công chức.
III. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính nhà nước.
1. Các văn bản pháp lý liên quan.
- Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm. Trong đó, mục 4, chương IV đào tạo, bồi dưỡng công chức, từ điều 47 đến điều 49.
- Nghị định số 18/2010/NĐ- CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức [có hiệu lực thi hành từ ngày 01/5/2010 và bãi bỏ Chương III Nghị định số 54/2005/NĐ- CP ngày 19/4/2005];
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 được thông qua tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất tốt, tận tuỵ phục vụ nhân dân, có tính chuyên nghiệp cao” là một giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước, tạo bước chuyển biến mạnh về cải cách hành chính.
- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Nội Vụ số 104/2005/QĐ-BNV ngày 03 tháng 10 năm 2005 về việc ban hành quy chế cử cán bộ, công chức đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước.
- Quyết định 1738/QĐ-BTC năm 2012 phê duyệt Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng công, viên chức ngành Tài chính đến năm 2015” do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- Quyết định của thủ tướng chính phủ số 34/2006/QĐ-TTg ngày 08 tháng 02 năm 2006 phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006 – 2010.
- Quyết định số: 40/2006/QĐ-TTg, ngày 15 tháng 02 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006 – 2010
- Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg ngày 8/02/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xă, phường, thị trấn người DTTS giai đoạn 2006-2010.
Nhìn chung pháp luật nước ta đã có sự quy định khá rõ ràng, cụ thể trong vấn đề bồi dưỡng cán bộ công chức tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động diễn ra trong khuôn khổ quản lý của nhà nước, góp phần quan trọng trong công tác công vụ công chức. Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa cơ chế pháp lý này theo hướng đồng bộ, toàn diện và cụ thể quy chế, chế tài quản lý hoạt động bồi dưỡng cán bộ, công chức.
2. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính.
Muốn làm tốt nội dung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức hành chính thì yêu cầu trước tiên và cơ bản là phải có một chiến lược lâu dài với các bước đi cụ thể được thể hiện ở việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo. Nếu xây dựng được quy hoạch, kế hoạch đào tạo đảm bảo khoa học, phù hợp với tình hình thực tế khi triển khai thực hiện sẽ đạt hiệu quả cao, đúng các mục tiêu đề ra, còn ngược lại sẽ không đạt kết quả như mong muốn gây nên sự lãng phí, thậm chí là kế hoạch đó bị “phá sản”.
Để xây dựng được kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức tốt như trên vừa nêu, đòi hỏi phải làm tốt việc phân tích nhu cầu đào tạo [ai cần đào tạo? đào tạo những nội dung gì là thích hợp?] đồng thời xác định các mục tiêu cụ thể của việc đào tạo [đao tạo nhằm đáp ứng yêu cầu thực thi một chức trách, nhiệm vụ cụ thể hoặc đào tạo nhằm đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ], từ đó làm cơ sở cho việc tổ chức thực hiện đạt kết quả cao.
3. Quản lý, xây dựng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính
Ở nước ta hiện nay, Theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 03 năm 2010 của Chính phủ thì việc đào tạo, bồi dưỡng công chức được tiến hành ở các đơn vị như sau:
- Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương; tài liệu đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp huyện, cấp sở, cấp vụ và tương đương trở lên theo chương trình do Bộ Nội vụ ban hành.
- Học viện, Trường, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ [sau đây gọi chung là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng] tổ chức biên soạn tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch cán sự và tương đương, ngạch chuyên viên và tương đương, ngạch chuyên viên chính và tương đương; tài liệu đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng theo chương trình do Bộ Nội vụ ban hành; tài liệu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành.
- Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức biên soạn tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch cán sự và tương đương, ngạch chuyên viên và tương đương, ngạch chuyên viên chính và tương đương, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng theo chương trình do Bộ Nội vụ ban hành; phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ biên soạn tài liệu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành.
4. Xây dựng các chế độ khuyến khích công chức hành chính không ngừng học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác.
Đây là công tác xây dựng, ban hành và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chế độ, chính sách khuyến khích công chức hành chính tham gia các khoa đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, kiến thức cho bản thân, đồng thời nâng cao năng lực thực thi công vụ.
Chế độ, chính sách khuyến khích này bao gồm:
- Về vật chất: công chức tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng được chi kinh phí đào tạo [học phí nộp cho cơ sở đào tạo, chi phí nghiên cứu đề tài khoa học, chi phí tài liệu, đi lại, ăn ở trong thời gian đi học,…]; được hưởng nguyên lương và các chế độ khác theo quy định trong thời gian đi học, chế độ trợ cấp khuyến khích người có trình độ đại học công tác tại cấp xã,…[ Ví dụ: tại thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 01/07/2009 áp dụng mức trợ cấp là 750.000 đồng/ tháng đối với người có trình độ đại học chính quy công tác ở phường; 1.000.000 đồng/ tháng đối với người có trình độ đại học chính quy công tác ở xã ].
- Về mặt tinh thần: công chức tham gia các khóa đào tạo được tạo điều kiện thuận lợi về công việc, thời gian [giảm lượng công việc, bố trí người thay thế,…] để đảm bảo tham gia đầy đủ chương trình học và khi đạt kết quả học tập giỏi được khen thưởng,…
5. Kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính.
Đây là nội dung cơ bản và được thực hiện thường xuyên trong công tác quản lý hành chính nhà nước đối với đào tạo, bồi dưỡng công chức nhằm đảm bảo quá trình tổ chức đào tạo, bồi dưỡng công chức hoàn thiện tuân thủ các quy định về đào tạo, bồi dưỡng công chức do Chính phủ ban hành và triển khai theo đúng mục đích, yêu cầu, nội dung, tiến độ,…của các chương trình quy hoạch, kế hoạch đào tạo do các cơ quan có thẩm quyền đã xác định.
Nội dung kiểm tra, giám sát đối với công tác đào tạo gồm kiểm tra, giám sát việc thực thi các chế độ, chính sách về đào tạo cũng như các quy định về xây dựng chương trình, giáo trình và tài liệu đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra cấp chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng về tiêu chuẩn cơ sở đào tạo, cơ sở vật chất kĩ thuật, tiêu chuẩn giảng viên,…
Và nội dung đánh giá chất lượng đào tạo bao gồm những nội dung cơ bản sau: đánh giá hiệu quả quản lý đào tạo, bồi dưỡng [ xem xét những vấn đề về cơ chế, chính sách, xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch], đánh giá chất lượng và hiệu quả sau đào tạo, đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn tài chính cho công tác đào tạo.
IV. Hình thức đào tạo.
Có nhiều cách để phân loại các hình thức đào tạo bồi dưỡng, tùy vào từng mục đích và điều kiện cụ thể có thể áp dụng một hoặc kết hợp các hình thức với nhau nhằm đem lại hiệu quả cao trong quá tình thực thi công vụ.
Việc lựa chọn hình thức phù hợp sẽ nâng cao chất lượng của việc học, giảm được tối thiểu chi phí đào tạo, bồi dưỡng. Nhà quản lý cần phải xem xét kiểm tra để lựa chọn hoặc tạo điều kiện cho nhân viên của mình có được một môi trường làm việc, học tập thoải mái và thuận lợi.
Theo Nghị định 18/2010/NĐ-CP về đào tạo bồi dưỡng công chức có quy định tại Điều 15: Hình thức tổ chức đào tạo, bồi dưỡng:
1. Tập trung.
2. Bán tập trung.
3. Vừa làm vừa học.
4. Từ xa.
Khi nói đến hình thức đào tạo, bồi dưỡng thường có nhiều cách phân loại khác nhau. Về nguyên tắc có hai cách phân loại tổng quát:
- Đào tạo bồi dưỡng tại chức .
- Đào tạo, bồi dưỡng thoát ra khỏi công việc.
Tùy theo mục đích, phương pháp học ưa thích của nhiều người có thể phân loại thành kiểu chủ động và bị động. Nếu như kiểu chủ động đòi hỏi sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo, ý thức tự phân tích, khám phá, tìm tòi cao gắn với việc thực hành của người học thì kiểu thụ động lại bao gồm quan sát, chất vấn, đưa ra lời giải thích và sau đó đi đến tổng kết toàn bộ nội dung học.
Tùy theo từng mô hình đào tạo khác nhau mà có phương pháp đào tạo tương ứng. Ví dụ như với phương pháp thực hành sẽ gắn với mô hình hướng dẫn, với mô hình hội thảo thì thường sử dụng phương pháp sử dụng sáng kiến/ phân tích, còn mô hình thảo luận thì sẽ đặt ra các câu hỏi, lắng nghe để đưa ra ý kiến tranh luận cùng nhau.v.v…
Trong quá trình lựa chọn hình thức đào tạo, bồi dưỡng, cá nhân, tổ chức nói chung và cán bộ, công chức, cơ quan hành chính nhà nước nói riêng cần đảm bảo rằng người học có quyền tiếp cận với các chương trình đào tạo bao gôm nhân viên trong biên chế, những người làm việc bán thời gian và những người không đủ năng lực.
Trong các cơ quan hành chính nhà nước, đối với các cán bộ lãnh đạo, quản lý có thể sử dụng một số hình thức sau:
- Hình thức huấn luyện.
- Bồi dưỡng trước theo hình thức kế cận, thủ việc nhanh.
- Thuyên chuyển qua nhiều vị trí để mở rộng kinh nghiệm.
- Đào tạo thông qua tình huống, hình thức đóng vai.
- Bồi dưỡng tại chức.
- Tu nghiệp [bồi dưỡng bên ngoài].
Đối với cán bộ công chức tác nghiệp, các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phong phú hơn rất nhiều. Tuy nhiên cũng cần phải chú ý một số hình thức phổ biến và quan trọng như: bồi dưỡng giai đoạn tập sự, bồi dưỡng theo kiểu kết hợp tại chỗ làm việc và bên ngoài, tập việc trong môi trường tương tự môi trường của cơ quan, tổ chức, bồi dưỡng tại chức, đào tạo, bồi dưỡng tại chức.
Đào tạo từ xa là phương thức đào tạo mà giữa người dạy và người học không trực tiếp gặp nhau tại một điểm và cùng thời gian mà thông qua phương tiện nghe nhìn trung gian. Hình thức đào tạo này không gây tốn kém cho người học phải trực tiếp đến nơi học, tiết kiệm thời gian mà vẫn đảm bảo người học được cung cấp đầy đủ kiến thức. Bên cạnh đó, hình thức này không đảm bảo được ai cũng tham gia vào quá trình đào tạo, và người tham gia học phải có một trình độ nhất định, sự liên hệ, tương tác giữa giảng viên và học viên. Nội dung dạy học trong quá trình dạy học được truyền thụ, phân phối tới cho học viên chủ yếu thông qua các hình thức thể hiện gián tiếp như văn bản in, âm thanh, hình ảnh hoặc số liệu máy tính.
Ví dụ: thông qua một chiếc máy tính được nối mạng CBCC có thể tham gia các khóa đào tạo bồi dưỡng từ xa, tiết kiệm được rất nhiều chi phí và thuận lợi chho việc học tập dù ở bất kì nơi đâu.
Ngoài ra còn có các hình thức phương pháp đào tạo còn có thể phân theo các danh mục sau:
Kèm cặp thông qua những người có kinh nghiệm, kiến thức thợ bậc cao: Phương pháp này thường dùng để giúp cho các cán bộ quản lý và các nhân viên giám sát có thể học được các kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc trước mắt và công việc cho tương lai thông qua sự kèm cặp, chỉ bảo của những người quản lý giỏi hơn.
- Mô hình trò chơi, ứng xử giải quyết tình huống: là sự mô phỏng các tình huống hiện hành gần giống như phương pháp đóng vai, nó tạo được cảm giác thoải mái cho nhân viên khi tham gia.
- Hội thảo tập huấn trao đổi: phương pháp này hay còn gọi là phương pháp thảo luận là một phương pháp huấn luyện được sử dụng rộng rãi, trong đó các thành viên có chung mục đích thảo luận và cố gắng giải quyết vấn đề. Thông thường người điều khiển là một cấp quản trị nào đó.
- Đóng vai, thử: đây là một kỹ thuật đưa ra một vấn đề nan giải nào đó [có thật hay do tưởng tượng] rồi sau đó vấn đề được phân vai một cách tự nhiên. Các nhân viên sẽ tự nhập vai và xử lý tình huống đó.
- Huấn luyện tại nơi làm việc: phương pháp này thông thường được áp dụng đối với các nhân viên mới chưa có kinh nghiệm, được những nhân viên có kinh nghiệm chỉ dẫn.
- Luân chuyển công tác: Luân chuyển và thuyên chuyển công việc là phương pháp chuyển người quản lý từ công việc này sang công việc khác để nhằm cung cấp cho họ những kinh nghiệm làm việc ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong tổchức. Những kinh nghiệm và kiến thức thu được qua quá trình đó sẽ giúp cho họ có khả năng thực hiện những công việc cao hơn trong tương lai.
- Lớp học: tổ chức thành các lớp học đào tạo bồi dưỡng thêm chuyên môn cho nhân viên.
- Khác

Video liên quan

Chủ Đề