Tác phẩm tiêu biểu nhất trong dòng văn học chữ Nôm
B. Hoạt động hình thành kiến thức1. Đọc văn bản Show 2. Tìm hiểu văn bản a) Ghi lại vào vở tên các tác phẩm, tác giả, thể loại của các tác phẩm (hoặc đoạn trích) văn học Việt Nam trung đại được học và đọc thêm trong chương trình Ngữ văn THCS theo bảng sau:
Từ khóa tìm kiếm Google: giải bài 33 tổng kết phần văn học thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi, tổng kết phần văn học thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi trang 124, tổng kết phần văn học thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi sách ngữ văn 9, giải ngữ văn 9 sách vnen chi tiết dễ hiểu. Truyện thơ Nôm hay Truyện Nôm thể thơ tiếng Việt viết bằng chữ Nôm (thường là thơ lục bát) để kể chuyện (trần thuật). Đây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh về hiện thực của xã hội và con người với một phạm vi tương đối rộng, vì vậy có người gọi truyện thơ Nôm là trung thiên tiểu thuyết (tiểu thuyết vừa). Nội dung của truyện thơ Nôm thường phản ánh đời sống xã hội cũng như thể hiện quan niệm, lí tưởng nhân sinh của tác giả thông qua việc miêu tả và thường là miêu tả chi tiết, tường thuật lại một cách tương đối trọn vẹn cuộc đời, tính cách nhân vật bằng một cốt truyện với chuỗi các biến cố, sự kiện nổi bật. Truyện thơ Nôm tiêu biểu cho văn học cổ điển Việt Nam, nở rộ vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, do viết bằng tiếng Việt dùng chữ Nôm nên được gọi là truyện Nôm. Truyện Nôm là một bộ phận văn học độc đáo và thể hiện nét thẩm mỹ độc đáo của nền văn học phong kiến Việt Nam mà không nền văn học nào có được.
Truyện thơ Nôm có nhiều nguồn gốc cốt truyện khác nhau:
Dù cốt truyện xuất phát từ nguồn nào thì các truyện thơ Nôm vẫn ít nhiều phản ánh các vấn đề của thực tại xã hội và con người đương thời cũng như phản ánh tâm tư, nguyện vọng của tác giả về những điều tốt đẹp hơn cho những nhân vật trong truyện.
Có hai cách phân loại truyện thơ Nôm:
Theo Đại học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, các tác phẩm truyện thơ Nôm có thể được phân chia như sau:[1] Cho đến nay việc phân loại các tác phẩm truyện thơ Nôm vẫn còn nhiều khó khăn do sự khác biệt giữa thể loại văn học này với các thể loại văn học khác là không quá sâu sắc[8] Truyện thơ Nôm thường hướng đến hai chủ đề chính:
Chủ đề giải phóng tình yêu đôi lứa: Đây là chủ để nổi bật trong các truyện thơ Nôm bác học mà nổi bật và dễ thấy nhất là các tác phẩm như Sơ kính tân trang, Truyện Kiều... Trong các truyện này, các cặp đôi nhân vật “tài tử – giai nhân” đã đến với nhau bằng tình cảm yêu đương tự nhiên, chân thật, say đắm của tuổi trẻ và đầy tính lãng mạn. Những cặp đôi nhân vật cũng thường phải vượt qua những trở ngại của lễ giáo và của các thế lực xã hội khác (nhờ sự trợ giúp nhất định của các lực lượng thần kì hoặc tiến bộ) để cuối cùng nên duyên chồng vợ, hưởng hạnh phúc lứa đôi tương đối trọn vẹn, lí tưởng nhằm chứng minh cho tình yêu đôi lứa mãnh liệt của nhân vật trong truyện.[9][10] Chủ đề đấu tranh cho công lí xã hội: Đây là chủ đề nổi bật trong các truyện thơ Nôm bình dân như mà nổi bật là các tác phẩm khuyết danh như Phạm Tải – Ngọc Hoa, Tống Trân – Cúc Hoa, Thoại Khanh – Châu Tuấn... (ở một số truyện thơ Nôm bác học, chủ đề đấu tranh cho công lí xã hội cũng được đề cập như Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên... nhưng chỉ là chủ đề phụ, cái chính vẫn là tình yêu đôi lứa trong xã hội phong kiến cũ). Các truyện này thường kết thúc có hậu (nhờ sự trợ giúp của các yếu tố thần kì, kì bí hay các nhân vật mang tính nghĩa hiệp), thoả mãn mơ ước về một xã hội công bằng, về sự thay đổi số phận của các tầng lớp dưới thấp hèn trong xã hội. Các mối tình cao đẹp, trong sáng cũng được nâng niu, ca ngợi. Đồng thời chủ đề trong những tác phẩm thơ Nôm khuyết danh cũng là những cuộc đấu tranh của những người bị áp bức chống cường quyền bạo chúa bảo vệ tình yêu thủy chung, bảo vệ hạnh phúc gia đình, bảo vệ nhân phẩm. Qua cuộc đấu tranh nhiều khi không cân sức ấy, tác giả truyện Nôm bình dân có ý thức làm nổi bật được những đề mà loại tác phẩm này luôn hướng đến
Tóm lại tất cả những nhân vật phản diện này để đạt được mục tiêu ích kỷ, đê hèn của mình đã không từ một âm mưu, một thủ đoạn đen tối, hiểm độc nào nhằm thỏa mãn diều mà chúng cần. Chúng đã giày xéo lên những đạo đức, luân lý cơ bản nhất, giày xéo lên những pháp luật mà chúng đặt ra, giày xéo lên tính mạng của người dân và phá hoại hạnh phúc của bao nhiêu người vô tội.
Đồng thời với việc tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, tác giả của bộ phận văn học này đã nói lên được nỗi thống khổ của quần chúng lao động (hạnh phúc tan vỡ, tính mạng bị đe dọa...) với một thái độ đồng cảm sâu sắc.
Ba vấn đề này được coi là ba đặc điểm chính về nội dung của truyện Nôm bình dân. Ba đặc điểm này cũng đã nói lên rằng truyện Nôm bình dân có một nội dung gần gũi với quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của quần chúng lao động.
Theo nhà văn Nguyễn Lộc thì “truyện Nôm bình dân có khác”[9], “tự do yêu đương thực chất chưa phải là vấn đề”. Ông cho rằng: “Truyện Nôm bình dân chủ yếu đặt vấn đề bảo vệ tình vợ chồng, nói rộng ra là bảo vệ gia đình trong thời kì tan rã của chế độ phong kiến”. Quả thật như vậy, cuộc đấu tranh vượt qua thử thách của những nhân vật chính trong loại truyện thơ Nôm cổ tích là hướng đến việc khẳng định đạo lí gia đình, ca ngợi đạo nghĩa vợ chồng mang màu sắc giáo huấn, răn đời. Đó không phải là cuộc đấu tranh vươn tới ước mơ giải phóng cá nhân, tự do trong tình yêu, hôn nhân đôi lứa. Chính vì vậy mà ta thấy đôi nhân vật nam nữ trong loại truyện Nôm cổ tích kết hôn một cách dễ dàng ngay từ đầu truyện, còn đôi lứa trong loại truyện Nôm TTGN phải trải qua cuộc đấu tranh sinh tử mới đạt tới cái đích cuối cùng là hôn nhân. Đúng như nhận định của Đổng Quốc Viêm trong Minh Thanh tiểu thuyết tư trào: “Tiểu thuyết TTGN chính diện biểu hiện văn nhân, biểu hiện lí tưởng tình ý của văn nhân. Dù ở trình độ nào cũng có thể nói, đấy là kiểu loại văn học tự mình viết về mình”[11] Ngoài ra, xét về mặt văn hóa tư tưởng, chúng ta thấy loại truyện Nôm bộc lộ rõ ý thức hệ và nhân sinh quan của Nho gia. Tài tử và giai nhân dù tình cảm có “vượt rào” đến đâu thì cũng dừng lại trong vòng lễ nghĩa phong kiến. Tài năng, phẩm hạnh của tài tử và giai nhân phản ánh rõ mẫu hình lí tưởng của nhà Nho. Còn ở loại truyện Nôm truyền kì ta thấy ảnh hưởng rõ nét tư tưởng Đạo giáo. Yếu tố thần tiên, thoát tục của Đạo giáo chi phối rất lớn đến hành trạng nhân vật và diễn biến của truyện. Với loại truyện Nôm cổ tích thì tư tưởng Phật giáo và tín ngưỡng dân gian thể hiện khá rõ nét: mô típ cầu Trời khấn Phật được con; người cõi trên đầu thai xuống trần; Phật, Trời thử thách đức hạnh của nhân vật chính; được Trời, Phật, thần thánh ban cho phép lạ và cứu giúp khi hoạn nạn;… Thế giới thiên đình, địa phủ, người chết xuống âm ti được hoàn sinh trở lại dương gian, tư tưởng quả báo luân hồi... tham gia vào rất nhiều vào loại truyện này.
"Vân xem trang trọng khác vời Hoạt động của nhân vật truyện thơ Nôm Việt Nam cũng được miêu tả theo nguyên tắc ước lệ. Nhìn chung, nhân vật truyện thơ Nôm vẫn chưa thoát khỏi những khuôn mẫu của nhân vật truyện cổ tích và vị thế mang đầy đủ đặc trưng của nhân vật truyện cổ tích. Chúng ta hãy xem xét các nhân vật trong Thoại Khanh – Châu Tuấn, Phạm Công – Cúc Hoa… đều như được đúc ra từ một khuôn. Một số nhân vật nam như Lý Công, Phạm Công, Châu Tuấn đều mồ côi từ nhỏ, đều là những học trò nghèo phải đi ăn mày hoặc dắt mẹ đi ăn mày như vẫn nuôi chí học thành tài và cuối cùng đều thi đỗ Trạng Nguyên. Trong tình yêu họ đặc biệt thủy chung son sắt. Mặc dù thành đạt bị vua ép gã công chúa đều tìm cách chối từ cho dù bị đày ra viễn xứ, xa vợ con hàng chục năm trời vẫn không nguôi nhớ thương. Còn hầu hết các nhân vật nữ thường xinh đẹp tuyệt vời, một lòng hiếu thảo với mẹ chồng, đảm đang nuôi chồng ăn học và lúc gặp hoạn nạn khó khăn xa chồng họ vẫn luôn giữ tròn danh tiết, kiên trinh đợi chờ. Đó là nét phẩm chất chung của nhân vật truyện thơ Nôm Việt Nam. Vì vậy theo nhận xét của Kiều Thu Hoạch trong “Truyện Nôm – nguồn gốc và bản chất thể loại”: “Thế giới nhân vật truyện thơ Nôm có tính chất lí tưởng hóa nhiều hơn là hiện thực”. Những nhân vật tốt, tích cực không bao giờ chịu thất bại trước những thế lực phản động có quyền uy mãnh mẽ trong xã hội để cuối cùng đi đến kết thúc tốt đẹp. Ngay cả những truyện Nôm bác học như truyện Kiều, Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga… cũng xây dựng nhân vật nhằm đi tới tình huống kết thúc có hậu này. Và để thực hiện điều này tác giả truyện thơ Nôm đôi khi phải nhờ đến sự hỗ trợ của các yếu tố thần kỳ. Mặt khác, nhân vật truyện thơ Nôm bình dân thường không thông qua việc miêu tả ngoại hình hay phân tích nội tâm mà chủ yếu được thể hiện thông qua hành động. Ngôn ngữ đối thoại được dùng để biểu hiện cảm nghĩ của nhân vật. Đây là nguyên tắc về nghệ thuật có tính chất cơ bản trong việc xây dựng nhân vật truyện.
Đặc biệt, ở câu mở đầu và kết thúc truyện Nôm tính công thức, ước lệ thể hiện khá rõ. Ở nhiều truyện Nôm khác nhau, chẳng biết nội dung truyện thế nào nhưng nhất thiết người kể vẫn phải mở đầu hoặc kết thúc bằng những lời ca tụng tốt đẹp, hay bằng những lời lẽ có tính chất chúc mừng:
Thậm chí ở Truyện Kiều mặc dù nội dung phản ánh sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đã kinh rẽ phụ nữ và những người tài hoa bị vùi dập dưới sự chi phối của quyền lực nhưng vẫn được mở đầu bằng câu thơ công thức:
Đây là một đặc điểm rất dễ nhận dạng ở loại hình truyện thơ Nôm nhưng cũng cần hiểu thêm rằng đó là những bình phẩm, bình luận mang triết lý nhân sinh của người kể chuyện – của tác giả. Đó là kiểu tư duy nhân dân mà đâu đó chúng ta vẫn thường hay gặp ở những câu thành ngữ, túc ngữ trong kho tàng văn học dân gian. Mặc khác, người kể chuyện trong truyện thơ Nôm, đặc biệt là truyện thơ Nôm bình dân hay có lối kể dân dã, mộc mạc. Đó là nét đẹp chân chất gần gũi, bình dị nhưng không kém phần duyên dáng vốn có của người nông dân Việt Nam. Điều này cũng lý giải vì sao truyện thơ Nôm mặc dù qua kiểm soát gắt gao của triều đình phong kiến nhưng vẫn lưu truyền và sống mãi với thời gian, vẫn được nhân dân yêu thích, truyền tụng.
Thủ pháp dựng truyệnSự khác biệt về thi pháp giữa loại truyện thơ Nôm tài tử – giai nhân và loại truyện thơ Nôm cổ tích mà ta thấy rõ khi xem xét ở phương diện thủ pháp dựng truyện. Chúng ta dễ dàng nhận thấy sự ảnh hưởng, chi phối của Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong thủ pháp dựng truyện của loại truyện thơ Nôm cổ tích. Thế giới tâm linh đa sắc nhiều vẻ ấy đã thể hiện một cách sống động trong loại truyện thơ Nôm có phong cách bình dân này. Những tình tiết mang tính tâm linh thần kì ấy là những yếu tố “kĩ thuật” quan trọng kiến tạo cốt truyện, nối kết các trường đoạn Gặp gỡ – Tai biến – Đoàn viên của truyện thơ Nôm cổ tích với nhau và làm cho chúng mềm mại, uyển chuyển. Nói về cốt truyện của truyện Nôm bình dân, nhà văn Nguyễn Lộc nhận xét rằng, “những tình tiết, những sự kiện không có ý nghĩa khách quan chân thực của nó, mà chỉ có tác dụng soi sáng hay tô đậm cho đặc điểm của tính cách nhân vật”, “chi tiết nhiều khi được cường điệu đến mức hoang đường”.[16] Về vấn đề nhân vật chính diện không bao giờ thất bại, kết thúc có hậu, ông cho rằng, “rõ ràng là lí tưởng hóa chứ không phải hiện thực”. “Và chính vì vậy mà trong cốt truyện của truyện Nôm bình dân, nhà thơ thường sử dụng rất nhiều yếu tố ngẫu nhiên, phi thường, nhiều yếu tố có tính chất thần linh”.[16][17] Những yếu tố Phật giáo và tín ngưỡng dân gian thường được tác giả “hiện thực hóa” trong thế giới truyện thơ Nôm thông qua các mô típ thần kì có tính phổ biến.[18] Những mô típ thường thấy là:
Hình thức đầu tiên và sơ khai của các truyện Nôm là những bài hát tự sự của các nghệ nhân hát rong (hay nhiều sách vở đương thời gọi là nghề ca hát. Hiện tượng hát rong theo từng đám nhỏ xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ nào cho đến chưa xác định được, chỉ biết rằng khi có các đô thị thì đã có nhiều người sống bằng nghề này một phần do nhu cầu thưởng thức âm nhạc lớn của xã hội, nhất là sau thế kỷ XV). Những bài hát tự sự này phần lớn được các nghệ nhân tự sáng tác hoặc dựa trên cơ sở cũ của truyện cổ dân gian, hay một tích cũ được lưu truyền từ đời này sang đời khác hoặc rút ra từ một truyện Nôm đã có trước như Quan Âm thị Kính... Càng về sau, những bài hát này càng được bồi bổ thêm về mặt nội dung cũng như nghệ thuật và đến một lúc nào đó bài hát đã được biết đến và được sử sách ghi chép lại và được phổ biến rộng rãi thì tác phẩm đó chính thức trở thành một truyện Nôm (lọai này có thể kể đến các truyện như Trương Chi, Tấm Cám). Nơi thứ hai là nơi sinh ra và lưu truyền các truyện Nôm là các nhà chùa của đạo phật. Để tuyên truyền đạo phật cho các tín đồ mà phần đông là không biết chữ, một số nhà sư có học đã nghĩ ra cách diễn Nôm một số sự tích trong kinh phật, hình thức này ngày càng phát triển và nhiều truyện Nôm đã xuất hiện theo con đường này tuy nhiên chúng vẫn giữ được những ý chính trong kinh phật. Thể loại này không phát triển do sự phổ biến chỉ nằm trong một chùa hay lớn cũng chỉ một làng biết đến nên hầu hết bị thất truyền. Các hình thái của truyện Nôm được chia thành 2 loại: Truyện Nôm ra đời và tồn tại với hình thái đầu tiên là truyện Nôm truyền khẩu. Loại này được phổ biến rộng rãi trong dân gian và được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Sau một thời gian dài, khi phong trào truyện Nôm truyền khẩu phát triển mạnh mẽ trong xã hội với một tầng lớp đông đảo thì các nho sĩ bình dân và bác học đã mạnh dạn sử dụng loại hình văn học này để sáng tác, hoặc ghi chép lại những truyện Nôm đã có vào sách vở để tiện cho việc tra cứu. Từ đó truyện Nôm viết được xuất hiện. Cũng như mọi hình thái sáng tác, truyện Nôm không phải là đã kế tiếp nhau một cách dứt khoát mà mỗi cái khi xuất hiện đều tồn tại song song với những cái xuất hiện trước hoặc sau nó. Nhưng do các ghi chép đương thời quá thô sơ và chịu nhiều ảnh hưởng từ xã hội phong kiến nên cho đến nay chúng ta vẫn chưa xác định được truyện Nôm viết xuất hiện vào thời gian nào và sự phát triển của nó trong lịch sử văn học. Bởi vì cho đến nay hầu hết các truyện Nôm còn lại đều không có tên tác giả và thời điểm sáng tác cụ thể rõ ràng. Các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào mối quan hệ giữa nội dung tác phẩm và hiện thực đời sống xã hội, căn cứ vào tài liệu từng bị cấm đoán của giai cấp thống trị còn lưu giữ được cho đến ngày nay, căn cứ vào hình thức ngôn từ và thể loại mà đi đến một nhận định sơ bộ về sự phát triển của bộ phận văn học này như sau: Chính giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX là giai đoạn bộ phận văn học này ra đời và phát triển, thời kỳ cực thịnh của nó là khoảng thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Phần lớn các truyện Nôm lưu hành hiện nay cũng ra đời trong hai thế kỷ này. Sang đầu thế kỷ XX việc sáng tác truyện Nôm dần dần chấm dứt vì thể loại văn xuôi hiện đại ra đời đã đủ sức thay thế nó bởi sự phù hợp với thời cuộc cũng như phù hợp với đại bộ phận nhân dân đương thời. Khuyết danhHiện nay vẫn còn lưu giữ một số lượng khá lớn truyện Nôm nhưng không còn tên tác giả và thời điểm sáng tác, người ta gọi bộ phận văn học này là truyện Nôm khuyết danh. Có ba nguyên nhân giải thích cho sự thiếu hụt về các ghi chép về tác giải và thời điểm sáng tác là:
Tuy đây là một thể loại văn học được lưu truyền rất rộng rãi trong quần chúng nhân dân tuy nhiên những hạn chế là điều không thể tránh khỏi. Một trong số có thể nhắc đến:
Những hạn chế trên là tất yếu vì sống trong xã hội phong kiến các tác giả không thể thoát khỏi ảnh hưởng nhiều hay ít của tư tưởng thống trị xã hội cũng như không thể vượt qua được hạn chế của lịch sử.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Truyện_thơ_Nôm&oldid=68616549” |