Tại sao công nông là gốc cách mạng

Chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng XHCN - Giá trị và những nội dung cần bổ sung, phát triển

Tác giả

Chủ nhật, 03/02/2019 09:25 0 Bình luận

[Mặt trận] - Lý luận về liên minh giai cấp và tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn liền với xây dựng chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, hệ lý luận về liên minh giai cấp và các tầng lớp trong xã hội được Đảng ta kiên định thực hiện và bổ sung, phát triển, xây dựng nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng

Giá trị bền vững của ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’

Quan niệm chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp

Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh công - nông

C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận bàn đến liên minh công - nông và đi đến kết luận rằng, những cuộc cách mạng sắp tới chỉ có thể thu được những thắng lợi nếu giai cấp nông dân ủng hộ những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, nếu không thì bài “đơn ca” cách mạng của giai cấp vô sản sẽ trở thành bài “ai điếu”.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói đến khả năng và sự cần thiết phải đoàn kết giai cấp vô sản với các tầng lớp trung gian. Sau cách mạng 1848 - 1852 ở Tây Âu, các ông thấy rõ, vấn đề liên minh giữa giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội, nhất là giai cấp nông dân trở thành vấn đề có tính sống còn đối với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của Công xã Pa-ri [năm 1871] cũng là do giai cấp công nhân không liên minh được với giai cấp nông dân. Từ thực tiễn lịch sử sinh động của Công xã Pa-ri, C.Mác đã bổ sung cho lý luận của mình về liên minh công - nông: đó là vai trò hết sức quan trọng của giai cấp nông dân không chỉ trong việc giành chính quyền mà còn cả trong việc giữ chính quyền.

Tuy nhiên, sự cần thiết của liên minh công - nông không chỉ từ phía giai cấp công nhân, mà còn từ phía giai cấp nông dân. Giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng không thể thoát khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, không thể được giải phóng một cách thực sự và triệt để nếu không liên minh với giai cấp công nhân, không trở thành người bạn đồng minh của giai cấp công nhân. C.Mác khẳng định: “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại thì dĩ nhiên là những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của nông dân, phải liên minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là giai cấp vô sản cách mạng”1. Vì “... người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên của mình”2. Tuy vậy, để có thể liên minh được với giai cấp nông dân, cần phải thấy rõ đặc điểm, vai trò của giai cấp nông dân trong tiến trình cách mạng.

Trong giai cấp nông dân, có một bộ phận cốt lõi là tiểu nông. Về kinh tế, mỗi gia đình nông dân là một đơn vị kinh tế gần như tự túc hoàn toàn, cho thấy tính liên kết giữa họ rất ít. Về xã hội, quan hệ xã hội của họ có tính chất dòng họ, địa phương, làng xã, khiến tầm nhìn, suy nghĩ của người nông dân rất hạn chế. Về văn hóa - tư tưởng, sống trong những điều kiện kinh tế - xã hội như vậy, nên trình độ học vấn của nông dân rất thấp kém, tư tưởng bảo thủ và họ không có hệ tư tưởng riêng. Chính đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa - tư tưởng đã quy định vị trí, vai trò của giai cấp nông dân trong xã hội tư bản là tầng lớp trung gian, họ có thể ngả theo giai cấp công nhân và cũng có thể ngả theo giai cấp tư sản. Vấn đề là, trên thực tế ai đem lại và bảo vệ lợi ích cho họ.

Về nội dung của liên minh công - nông, không chỉ dừng ở sự liên minh về chính trị, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ rõ sự liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì liên minh về kinh tế là liên minh cơ bản, thường xuyên và lâu dài, là cơ sở cho liên minh trên các lĩnh vực khác.

Theo Ph.Ăngghen, nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng vô sản là phải không ngừng giải thích cho nông dân thấy rằng, chừng nào chủ nghĩa tư bản đang còn nắm chính quyền thì tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng mà thôi, tuyệt đối chắc chắn là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất quy mô nhỏ, bất lực và lỗi thời của họ. Chỉ cần cho nông dân thấy lợi ích chân chính của họ là phải chuyển ruộng đất của họ thành tài sản của hợp tác xã, tức là đưa nông dân đi vào sản xuất hợp tác: “Dù sao thì điều chủ yếu cũng là phải làm cho nông dân hiểu rằng chúng ta chỉ có thể cứu vãn và bảo tồn được tài sản của họ bằng cách biến tài sản đó thành tài sản hợp tác xã và thành những doanh nghiệp hợp tác xã”3. Ph.Ăngghen cũng cho rằng, đó là khâu trung gian trong việc chuyển nền sản xuất cá thể của nông dân quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát triển tư bản chủ nghĩa.

C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ nguyên tắc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và nông dân. Nguyên tắc thứ nhất là, không được dùng bạo lực đối với nông dân, “... mà là bằng những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội”4. Nguyên tắc thứ hai là, tự nguyện, không được gò ép, bắt buộc đối với nông dân: “Chúng ta kiên quyết đứng về phía người tiểu nông... để cho họ có thời gian suy nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh đất của họ nếu họ chưa có thể quyết định như thế”5. Nguyên tắc thứ ba là, tiến dần từ thấp đến cao: phải phát triển các hợp tác xã từ bậc thấp đến bậc cao, từ quy mô từng xã đến quy mô liên xã. Các ông cho rằng, để nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội một cách thuận lợi, nhà nước phải có nhiệm vụ giúp đỡ nông dân trong cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trong sách lược đối với nông dân, theo Ph.Ăngghen, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản không thể coi nông dân là một khối thống nhất, vì họ không ngừng phân hóa, do đó, sách lược của các đảng xã hội chủ nghĩa cần phải khác nhau đối với các thành phần nông dân khác nhau.

Không chỉ dừng lại ở việc luận giải tính tất yếu, nội dung, và nguyên tắc của liên minh công - nông, C.Mác phê phán quan điểm của phái Látxan cho rằng: “Ngoài giai cấp vô sản ra, hết thảy mọi giai cấp khác chỉ là một khối phản động”. C.Mác đã nhắc lại “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” có ghi: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản, thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản thì trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”6.

C.Mác khẳng định: “Látxan thuộc làu cuốn “Tuyên ngôn cộng sản”, cũng như các tiến đồ của ông ta thuộc những thánh thư do ông ta viết ra. Sở dĩ ông ta xuyên tạc cuốn “Tuyên ngôn” một cách thô bỉ như thế vì đó chỉ là để biện hộ cho sự liên minh của ông ta với những kẻ thù chuyên chế và phong kiến chống giai cấp tư sản”7. C.Mác lý giải phái Látxan cho rằng: “Việc giải phóng lao động phải là sự nghiệp của giai cấp công nhân, đối với giai cấp công nhân tất cả các giai cấp khác chỉ gộp thành một khối phản động”8 thì đó là một điều phi lý. Thực chất quan điểm Látxan đòi phủ định khả năng tham gia cách mạng của giai cấp nông dân và tiểu tư sản; phủ nhận một vấn đề chiến lược của cách mạng vô sản là vấn đề bạn đồng minh tạm thời và lâu dài của giai cấp vô sản, đã đẩy giai cấp vô sản vào thế bị cô lập, điều đó chỉ có lợi cho giai cấp bóc lột.

C.Mác phê phán phái Látxan đưa ra yêu sách: Tổ chức những “Hợp tác xã sản xuất” của công nhân do nhà nước giúp đỡ. C.Mác cho rằng: Đề ra yêu sách này mục đích làm cho phong trào công nhân quay về hoạt động bè phái, thay thế đấu tranh giai cấp bằng những hoạt động bè phái, làm cho phong trào công nhân đi vào thế cô lập trước mặt kẻ thù giai cấp. Theo C.Mác, nói rằng những người lao động muốn xây dựng những điều kiện sản xuất tập thể theo quy mô xã hội và trước hết theo quy mô dân tộc, điều đó chỉ có nghĩa là: họ cố gắng tìm cách lật đổ những điều kiện sản xuất hiện nay và việc đó không liên quan gì tới việc thành lập những hợp tác xã do nhà nước giúp đỡ. Lập luận của Látxan và quan điểm phủ định liên minh công - nông của bọn cơ hội chủ nghĩa trong Quốc tế II có mối liên hệ tư tưởng rất rõ ràng, cho nên phê phán của C.Mác đối với chủ nghĩa Látxan trên vấn đề này đã vạch ra đường lối cơ bản cho việc phê phán chủ nghĩa cơ hội sau này trong phong trào cộng sản quốc tế.

Quan điểm của V.I.Lênin về liên minh công - nông

Kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vị trí, vai trò của liên minh công - nông, V.I.Lênin cho rằng, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản.

V.I.Lênin chỉ rõ: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản [tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v.] hoặc với phần lớn những tầng lớp đó; liên minh nhằm chống lại tư bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự của giai cấp tư sản và những mưu toan khôi phục của giai cấp ấy, nhằm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội”9.

Theo luận điểm này, V.I.Lênin chỉ ra: Xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng cách mạng của chuyên chính vô sản thì khối liên minh này đã tập hợp được những giai cấp và tầng lớp xã hội đông đảo và mạnh nhất trong các giai tầng xã hội, trong đó giai cấp công nhân là tiên tiến nhất. Xét về nguyên tắc lãnh đạo xã hội, thì người lãnh đạo cao nhất và duy nhất chỉ là giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, vai trò đó chỉ được giữ vững khi đảng tổ chức và lãnh đạo được khối liên minh. Xét về lợi ích cơ bản thì nguyên tắc cao nhất và mục tiêu của chuyên chính vô sản là vì lợi ích toàn thể nhân dân lao động. Như vậy, sức mạnh và độ bền vững của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là thể hiện sức mạnh của Đảng, Nhà nước và tính hiện thực quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động, đó là những yếu tố cơ bản của chuyên chính vô sản.

V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn “chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu không có kinh tế nông nghiệp làm cơ sở, thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền công nghiệp.

V.I.Lênin nêu nhiều luận điểm về liên minh công - nông - trí thức. Trong đó có luận điểm: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp không phải vô sản [tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức]”10. Người còn khẳng định: “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giữa kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được”11.

Trong tác phẩm “Những người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”, V.I.Lênin phê phán quan điểm phi lịch sử của phái “dân tuý” cho rằng nông dân là lực lượng chủ yếu của cách mạng. Đồng thời, khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cho rằng, đã có chủ nghĩa tư bản thì có đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những điều kiện vật chất cho chế độ mới, và đồng thời cũng tạo ra một lực lượng xã hội mới: Giai cấp công nhân công xưởng - nhà máy, giai cấp vô sản thành thị. Tuy phải chịu cùng một sự bóc lột tư sản, mà xét theo thực chất kinh tế của nó thì sự bóc lột toàn thể nhân dân lao động ở Nga cũng là một sự bóc lột như thế, nhưng giai cấp đó lại được đặt trong những điều kiện đặc biệt có lợi cho sự giải phóng của nó: chẳng có cái gì gắn bó nó với cái xã hội cũ hoàn toàn xây dựng trên sự bóc lột; chính bản thân những điều kiện lao động của nó và hoàn cảnh sinh sống của nó đã tổ chức nó lại, buộc nó phải suy nghĩ, làm cho nó có khả năng bước lên vũ đài đấu tranh chính trị”12.

Theo V.I.Lênin, đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản, là một tất yếu và đó là cuộc đấu tranh mạnh mẽ nhất, tập trung nhất và quyết liệt nhất, trong cuộc đấu tranh đó giai cấp công nhân phải liên minh với nông dân, vì nông dân là lực lượng của cách mạng. Ông đề cập tư tưởng liên minh công - nông và cho rằng, đường lối thì của một giai cấp, còn lợi ích thì của sự liên minh giai cấp. Giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, nhưng không chỉ đem lại lợi ích cho giai cấp công nhân mà cho cả giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động.

Về thái độ đối với nông dân và tư tưởng liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo, trong tác phẩm “Những người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”, V.I.Lênin cho rằng, do quan niệm không đúng, nên Plêkhanốp đã đoạn tuyệt với nông dân, V.I.Lênin đã luận chứng vai trò của nông dân, đưa ra tư tưởng liên minh công - nông và yêu cầu cần phải ủng hộ yêu sách của họ. Người chỉ rõ: Phải có thái độ đúng với nông dân, tuyên truyền giác ngộ họ, cần phải đoạn tuyệt với tư tưởng nông dân, nhưng không đoạn tuyệt với nông dân, mà phải có sách lược với họ. Và cho rằng, những người dân chủ - xã hội có nhiệm vụ thành lập một đảng công nhân mácxít và đề ra tư tưởng liên minh cách mạng giữa giai cấp công nhân và nông dân, coi đó là phương sách chủ yếu để lật đổ chế độ Nga hoàng, bọn địa chủ và giai cấp tư sản.

Một nguyên tắc trong liên minh giai cấp, tầng lớp theo quan điểm của V.I.Lênin đó là vấn đề thỏa hiệp cả với giai cấp tư sản. Trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản”, V.I.Lênin đã phê phán: “Những người cộng sản Đức đã gạt bỏ việc tham gia nghị viện phản động tư sản và việc tham gia các công đoàn phản động”13. V.I.Lênin còn khẳng định: Đấu tranh cách mạng có lúc phải thoả hiệp. Bởi vì, tiến hành cách mạng không phải hoàn toàn thuận lợi và dễ dàng, mà còn có những lúc cách mạng gặp khó khăn. Trong những hoàn cảnh khó khăn phức tạp đòi hỏi người cách mạng phải biết lựa chiều, liên minh, thoả hiệp để tránh tổn thất cho cách mạng. Cách mạng không phải chỉ biết có tiến công, khoa học tiến công phải được bổ sung bằng khoa học rút lui khi cần thiết, rút lui là để chuẩn bị tiến công những thắng lợi lớn hơn. Vì vậy, V.I.Lênin đòi hỏi: Những người cộng sản có nhiệm vụ phải tìm kiếm và tìm ra một hình thức thoả hiệp thích đáng để có thể, một mặt làm dễ dàng và xúc tiến việc thống nhất hoàn toàn và cần thiết với cách ấy, mặt khác, không làm trở ngại gì đến cuộc đấu tranh tư tưởng và chính trị của những người cộng sản. Người nhấn mạnh nguyên tắc: “Không bao giờ được thoả hiệp, không bao giờ được lựa chiều chỉ làm hại cho sự mở rộng ảnh hưởng của giai cấp vô sản”14.

Như vậy, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức không chỉ là nhu cầu nội tại của cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà nó còn xuất phát từ những cơ sở khách quan khác, cụ thể: Thứ nhất, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là điều kiện đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, là điều kiện quyết định thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội mới. Thứ hai, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là mối liên hệ tự nhiên gắn bó và sự thống nhất lợi ích cơ bản của tất cả các giai cấp, tầng lớp. Thứ ba, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là do sự gắn bó thống nhất giữa sản xuất công nghiệp, nông nghiệp với khoa học kỹ thuật. Nếu không có sự liên minh chặt chẽ của cả 3 lực lượng này thì các ngành kinh tế sẽ khó phát triển. Đúng như V.I. Lênin đã khẳng định: “… thực hiện liên minh công nông là một việc khó, nhưng vô luận thế nào đó cũng là khối liên minh vô địch duy nhất để chống lại bọn tư bản”15.

Hầu hết những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa như đã trình bày cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tuy nhiên, có những luận điểm đã bị lịch sử vượt qua, chẳng hạn luận điểm “liên minh công - nông là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản”. Bởi vì hiện nay, cơ cấu xã hội - giai cấp ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đã thay đổi. Nhiều nước tỷ lệ dân cư là nông dân đã giảm xuống tuyệt đối; hơn nữa, quá trình trí thức hóa công nhân, công nhân hóa nông dân cũng đang diễn ra mạnh mẽ. Vậy, phải căn cứ vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng quốc gia, dân tộc để xác định liên minh giai cấp và các tầng lớp cho đúng…

Mặt khác, hiện nay trên thế giới, nhất là ở các nước xã hội chủ nghĩa không dùng thuật ngữ “chuyên chính vô sản”, thay vào đó sử dụng thuật ngữ có cùng bản chất là “hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa”. Một trong những đặc điểm của của hệ thống chính trị đó là một hệ thống tổ chức, hệ thống chuyên chính của giai cấp thống trị, do giai cấp công nhân thống trị lãnh đạo nhằm thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền lực của giai cấp công nhân; là sự liên minh giai cấp trong đấu tranh giành, giữ, củng cố và sử dụng quyền lực chính trị và trên bề mặt xã hội, nó đại diện cho toàn xã hội.

Trước những biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đang điều chỉnh để thích nghi, nhằm kéo dài sự tồn tại của chúng… thì những nội dung cần bổ sung, phát triển quanđiểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa tập trung cần quan tâm, đó là: một là, vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong khối liên minh; hai là, nội dung thực chất của liên minh; ba là, nguyên tắc của liên minh, nhất là nguyên tắc bảo đảm về lợi ích; bốn là, phương thức tập hợp lực lượng…

2. Ý nghĩa của nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với Việt Nam hiện nay

* Quá trình nhận thức của Đảng ta về liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức

Trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức vào điều kiện cụ thể cách mạng Việt Nam, ngay từ văn kiện Đại hội lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, Đảng ta đã chỉ rõ: “Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân… Lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng do giai cấp công nhân lãnh đạo”16.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam năm 1991, Đảng ta xác định: xây dựng khối liên minh công - nông - trí làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”17.

Tổng kết thành tựu của 25 năm đổi mới, trong văn kiện Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ một trong năm bài học kinh nghiệm lớn là: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi của lịch sử”18.

Hiện nay, vấn đề liên minh công - nông đã được mở rộng thành liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và trở thành nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định, phải “tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”19, để lực lượng này thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nguyễn Thị Tuyết* - Hà Sơn Thái**

* Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

** Tiến sĩ, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Chú thích:

1. C.Mác và Ph.Ăngghen,Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 7, tr. 84 - 85.

2. C.Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 269.

3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 737 - 738.

4. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 736.

5. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 738.

6. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 613.

7. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 39.

8. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 37.

9. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 38, tr 452.

10. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 38, tr 452.

11. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 40, tr 218.

12. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t. 1, tr.234 -235.

13. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1978, t. 41, tr.72.

14. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1978, t. 41, tr.74.

15. V.I. Lênin, Toàn tập, [Tiếng Việt], Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1978, t. 39, tr. 340.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr.437.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.66.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 158.

Tags

​Chủ nghĩa Mác - Lênin liên minh giai cấp tầng lớp cách mạng xã hội chủ nghĩa

Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

22/04/2019

Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng

16/04/2019

Giá trị bền vững của ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’

11/04/2019

Báo chí với công tác tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới

27/03/2019

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của nông dân trong cách mạng Việt Nam

Đọc bài Lưu

Thực hiện chủ trương của Ban Bí thư Trung ương tại Văn bản số 7681-CV/VPTW ngày 14/4/2014 của Văn phòng Trung ương Đảng, công trình Tượng đài Bác Hồ với nông dân Việt Nam tại Quảng trường Thái Bình, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã được đầu tư xây dựng và hoàn thành. Đây là công trình trọng điểm của tỉnh Thái Bình, được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Tỉnh ủy, UBND tỉnh đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện, nhằm giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, khắc ghi tình cảm của Bác Hồ với giai cấp nông dân Việt Nam và sự tôn kính của nông dân Việt Nam nói chung và nhân dân Thái Bình nói riêng đối với Bác.

Được sự đồng ý của Đảng, Nhà nước, Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh Thái Bình tổ chức lễ khánh thành công trình Tượng đài Bác Hồ với nông dân Việt Nam từ 19 giờ 40 phút đến 21 giờ 40 phút ngày 12/12/2020 tại Quảng trường Thái Bình, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

Nhân dân Thái Bình phấn khởi chào đón Bác Hồ về thăm ngày 1/1/1967. Ảnh tư liệu

Sinh ra trong một gia đình nhà nho nguồn gốc nông dân, từ nhỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tham gia lao động sản xuấtcùng cha, đã từng chịu đựng gian khổ mất mát và thấu hiểu cái cảnh khổ cực của đồng bào, sau này Người nói: “Tôi tuy con nhà khoa bảng nhưng gốc nông dân”. Tuổi thơ của Người gắn liền với những người nông dân quanh năm vất vả, lại chịu dưới hai tầng áp bức của phong kiến, thực dân nên cuộc sống cơ hàn, đói rách. Lớn lên, hiểu biết hơn, Người đã đứng về phía nông dân mà chống lại chế độ thực dân phong kiến. Năm 1908, Người đã tham gia cuộc biểu tình của nông dân 6 huyện Thừa Thiên - Huế đòi chính quyền thực dân, phong kiến giảm sưu, giảm thuế, do bị mất mùa liên tiếp trong ba năm.

Năm 1911, khi bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành luôn nghĩ đến một mục đích rất cụ thể: Làm sao xây dựng một xã hội mới, mà ở đó con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Năm 1920, khi bắt gặp Luận cương lần thứ nhất của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã vui mừng đến phát khóc: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta. Đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Người đã nhận ra rằng, cách mạng Việt Nam muốn thành công, phải theo đường lối cách mạng vô sản, thực hiện giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp để đi tới xã hội cộng sản. Trong cuộc cách mạng này, phải: “Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo. Mở mang công nghiệp và nông nghiệp”. Hồ Chí Minh cho rằng “Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa số trong dân tộc. Nền tảng của cách mạng dân chủ cũng là nông dân, vì nông dân là lực lượng cách mạng đông nhất chống phong kiến, chống đế quốc”.
Thấu hiểu những hy sinh, mất mát của nông dân nên ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh bãi bỏ thuế khóa bất công của thực dân Pháp, giảm tô 25% và chia ruộng đất của thực dân, phong kiến cho nông dân. Ngày 11/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư cho các điền chủ nông gia Việt Nam: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”.

Nhận thức và đánh giá đúng phong trào của nông dân đối với cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, Người chỉ rõ vị trí, vai trò to lớn nông dân vừa là động lực, vừa là lực lượng đông đảo, nòng cốt, và cũng là đối tượng vận động của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật sự ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân. Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh”. Khi đất nước lầm than, phong trào yêu nước của nông dân là “bà đỡ” cho phong trào công nhân phát triển và là điều kiện thúc đẩy cho Đảng ra đời. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp nông dân là lực lượng chủ yếu cùng với các giai cấp khác đấu tranh giành chính quyền, bảo vệ Đảng, bảo vệ độc lập dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành nhiều sự quan tâm đến nông dân. Người luôn luôn trăn trở, lo lắng đến cuộc sống của người nông dân, “những người đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến”. Chỉ thống kê trong 10 năm, từ 1955 - 1965, Người đã có 700 chuyến đi xuống cơ sở, trong đó, có nhiều chuyến đi thăm bà con nông dân các địa phương. Người đắp guồng chống úng, cầm gầu tát nước chống hạn với dân, lội ruộng thồ máy cấy lúa... Người quan tâm sâu sát, cụ thể đến mọi công việc của nhà nông. Những cuộc đi thăm này không phải là hình thức mà rất cần thiết với Người. Người muốn biết đồng bào, đồng chí, người dân ăn, ở, làm việc, học tập, sản xuất và chiến đấu như thế nào, để có sự quan tâm, chỉ đạo cho thiết thực, đây là cuộc sống, là tình cảm thiết tha của Người.

Tư tưởng, tình cảm, sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nông dân còn thể hiện trong nhiều bài viết về nông dân, nông nghiệp, bài nói chuyện khi đi thăm các địa phương, nhắc nhở chỉ đạo, khen thưởng, các bài báo khen chê, biểu dương thành tích, phê bình những việc làm chưa tốt, đặc biệt là những bài báo phản biện những kinh nghiệm, kiến thức về nông nghiệp mà Người học hỏi được trong các chuyến đi thăm trong nước, nước ngoài, hoặc qua sách, báo, đài...
Từ tình cảm đặc biệt dành cho nông dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh to lớn và vị trí cực kỳ quan trọng của người nông dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Vì vậy, trong bản “Báo cáo tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba, khóa II, một lần nữa Người đã khẳng định: “Giai cấp nông dân: Nông dân là tối đại đa số trong Nhân dân nước ta là bộ phận chủ chốt trong đội ngũ cách mạng, là giai cấp đóng góp nhiều nhất trong kháng chiến”. Và “Giai cấp nông dân chủ chốt là bần nông và trung nông là quân đội chủ lực của kháng chiến và của cách mạng dân chủ mới... Cách mạng ta hiện nay là chống đế quốc, chống phong kiến. Nông dân là lớp người đông nhất trong Nhân dân, cho nên họ là quân chủ lực của cách mạng”.

Tháng 01/1953, trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định những đóng góp to lớn của giai cấp nông dân đối với sự nghiệp cách mạng: “Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa số trong dân tộc. Nền tảng của cách mạng dân chủ cũng là nông dân, vì nông dân là lực lượng cách mạng đông nhất chống phong kiến, chống đế quốc”. Xác định vị trí, vai trò quan trọng của nông dân trong cách mạng, Người cho rằng chỉ lo “cơm ăn, áo mặc” cho họ thì chưa đủ, mà phải nâng cao dân trí cho họ, như thế họ mới được hưởng trọn vẹn độc lập, tự do. Người xem đói và rét đều là giặc, phải diệt giặc đói, diệt giặc dốt, bởi vì “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Quan trọng hơn, việc mang lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định là một trong hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam.

Không chỉ nhận thức và khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của nông dân đối với cách mạng và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Người còn chỉ rõ vị trí, vai trò của nông dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng ở nông thôn. Trong báo cáo trước Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư, khóa II, Người khẳng định: “Chính phủ quyết định phải triệt để giảm tô, để nông dân được hưởng lợi ích bước đầu của họ, để nông dân hăng hái đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến”. Và Người chỉ thị “Chính phủ định ra luật lệ cải cách ruộng đất, Đảng phái cán bộ về xã giúp đồng bào nông dân đấu tranh thực hiện Người cày có ruộng. Đó là bước đầu”. Từ đó, Người chỉ rõ trách nhiệm của người nông dân là “đã có ruộng, nông dân cần phải ra sức tăng gia sản xuất, để bảo đảm đời sống ấm no”. Người cũng xác định trách nhiệm của Đảng và Chính phủ: “Đảng và Chính phủ cũng sẽ giúp thêm, như thu mua lâm sản và thổ sản cho nông dân, giúp thêm cán bộ, cho vay vốn”. Nhưng vẫn lưu ý nhắc nhở “các cô, các chú chớ có ỷ lại, phải cố gắng tự lực cánh sinh là chính, việc giúp đỡ là phụ”.

Và trong Thư gửi Hội nghị nông vận và dân vận toàn quốc ngày 5/2/1953, Người đã viết: “Nông dân lao động là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất chắc chắn của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công ắt phải dựa vào quần chúng nông dân. Muốn dựa vào nông dân ắt phải bồi dưỡng lực lượng của họ. Muốn nông dân có lực lượng dồi dào thì phải làm cho họ có ruộng cày, có cơm ăn, áo mặc, nhà ở”. Như vậy, theo Người nhận thức đúng, đường lối, phương châm đúng là chưa đủ mà vấn đề quan trọng là để nông dân phát huy được vai trò, sức mạnh của mình.

Sau khi miền Bắc được giải phóng, từng bước xây dựng cơ sở vật chất để lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục đặt niềm tin vào giai cấp nông dân trong cuộc cách mạng này: “Nông dân ta đã anh hùng trong cách mạng, trong kháng chiến, trong cải cách ruộng đất, thì trong cuộc cách mạng biến đổi nông nghiệp từ thấp lên cao này nông dân ta cũng phải là anh hùng”. Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III, ngày 22/7/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, tất cả đường lối, phương châm, chính sách... của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của Nhân dân nói chung, của nông dân nói riêng. Muốn đạt mục đích đó thì nhất định phải củng cố và phát triển hợp tác xã cho thật tốt, phải nâng cao không ngừng thu nhập của xã viên. Người cũng đã chỉ rõ quá trình, bước đi để xây dựng “nông thôn mới” thiết thực, có hiệu quả, đó là phải xây dựng cơ sở vật chất cho người nông dân để họ ổn định và có điều kiện tăng gia sản xuất, trước hết là “nhà ở”. Người cho rằng muốn xây dựng nông thôn mới thì việc đầu tiên của nông thôn mới là xây dựng nhà ở cho đàng hoàng vì an cư thì mới lạc nghiệp.

Trước lúc đi xa, người để lại muôn vàn tình thương yêu cho đồng chí, đồng bào cả nước. Trong bản Di chúc, Người đã dành cho nông dân tình cảm gần gũi, thân thiết khi dùng cụm từ “đồng bào nông dân” để tuyên dương công lao to lớn và lòng trung thành vô hạn của họ đối với Đảng và Chính phủ trong hai cuộc kháng chiến. Căn dặn miễn thuế nông nghiệp cho nông dân, Người viết: “Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ. Khi ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”. Ước nguyện này tiếp tục thể hiện nhận thức đúng đắn của Người về vai trò quan trọng của nông dân trong sự nghiệp đấu tranh của dân tộc và vai trò của nông dân nông nghiệp đối với nền kinh tế nước nhà. Đồng thời cũng khẳng định sự quan tâm, tình cảm thân thiết của Người đối với “đồng bào nông dân”.

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nông dân là những chỉ dẫn quan trọng để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của dân tộc, từ cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc năm 1945 đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ [1945 - 1975] cũng như công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

Nguồn:sovhttdl.thaibinh.gov.vn Copy link

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Video liên quan

Chủ Đề