Tại sao nói, pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất của nhà nước để quản lý xã hội

Tại sao nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật

  • doc
  • 9 trang
Tại sao Nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật?
BÀI LÀM
Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, cùng với Nhà nước, pháp luật ra
đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, pháp luật là phương tiện, công cụ
quan trọng để duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự
phát triển xã hội. Bên cạnh tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo, các quy định của
tổ chức xã hội, dư luận xã hội, các quy ước của cộng đồng dân cư…thì pháp luật là
công cụ quản lý xã hội chủ yếu của Nhà nước, giữa Nhà nước và pháp luật luôn có
mối quan hệ qua lại, tác động tương hỗ lẫn nhau. Từ khi xuất hiện, pháp luật luôn
gắn với giai cấp cầm quyền. Đối với xã hội có phân chia và đối kháng giai cấp,
mọi hoạt động của đời sống xã hội được đưa vào trong khuôn khổ pháp luật nhằm
mang lại lợi ích cho giai cấp thống trị. Trên thực tế, pháp luật của những Nhà nước
gắn với giai cấp tiên tiến của thời đại thì thường phù hợp với xu hướng phát triển
tiến bộ, vì nó bao hàm những chuẩn mực, những quy định nhằm bảo vệ lợi ích
chân chính và phẩm giá con người. Ngược lại, nếu pháp luật của Nhà nước gắn với
giai cấp đang suy tàn, không còn vai trò lịch sử thì thường chứa đựng yếu tố trì trệ,
bảo thủ, đi ngược lại lợi ích chân chính. Trong trường hợp như vậy, pháp luật sẽ
không phản ánh được những yêu cầu đạo đức tiến bộ, phù hợp với xu hướng phát
triển khách quan của thời đại.
Trước đây, trong lịch sử, Nho giáo đã lấy đạo đức để răn dạy con người. Với
chủ trương "đức trị", Nho giáo đã "đạo đức hoá chính trị và đề cao, thậm chí đến mức
tuyệt đối hoá việc quản lý xã hội bằng cách nêu gương, cảm hoá, làm cho dân chúng
an tâm và từ đó, hy vọng tạo nên sự ổn đình xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh
hưởng to lớn, tích cực đối với đời sống xã hội, Nho giáo cũng có những mặt hạn chế,
tiêu cực và bảo thủ. Đối lập với chủ trương "đức trị" là tư tưởng “pháp trị”. Thực tế

cho thấy, đã từng có những vị vua dùng pháp luật để cai trị đất nước. Với chủ trương
"pháp trị", họ đã có những chính sách thiết thực, thưởng phạt phân minh, đưa xã hội
đi vào cuộc sống có quy tắc, vận hành theo khuôn khổ của phép nước. Tuy nhiên, cả
tư tưởng "đức trị" và "pháp trị" thời phong kiến, bên cạnh mặt tích cực, đều có tính
chất phiến diện. Thực ra, những tư tưởng ấy chỉ là những biện pháp khác nhau mà các
thế lực thống trị sử dụng để củng cố địa vị và quyền lực của mình.
Do đó, xã hội phải được quản lý bằng pháp luật, trên phương diện lý luận
cũng như thực tiễn, pháp luật luôn có vai trò bảo vệ các giá trị chân chính, bảo vệ
các quyền lợi chính đáng của con người, đồng thời, tạo điều kiện cho con người
phát huy những năng lực thực tiễn của mình. Việc thực thi pháp luật cũng đồng
nghĩa với việc đảm bảo trên thực tế các quyền thiêng liêng của con người, sự tôn
trọng các giá trị xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí
và nguyện vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần
thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Sở dĩ Nhà nước phải thực hiện quản lý xã
hội bằng pháp luật, bởi lẽ, trong cuộc sống vai trò của pháp luật được thể hiện ở
trên mọi phương diện và các khía cạnh của cuộc sống, cụ thể:
Thứ nhất, pháp luật có vai trò quan trọng đối với các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Pháp luật là phương tiện ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Trong các văn bản pháp luật của nhà nước đều có những
điều khoản quy định quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, để đảm bảo được các
quyền và lợi ích của công dân pháp luật còn có những điều khoản quy định mọi
hành vi xâm phạm đến các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân đều bị xử lý
nghiêm minh. Pháp luật không chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
công dân mà còn quy định cả cơ chế pháp lý, các quy định pháp luật thủ tục để
thực hiện các quyền và lợi ích, hợp pháp của công dân, các quyền và lợi ích đó

được pháp luật quy định, bảo vệ trong tất cả các lĩnh vực quan hệ xã hội. Các cuộc
cải cách, điều chỉnh pháp luật và cải cách bộ máy nhà nước đều hướng tới mục tiêu
là bảo vệ một cách tốt nhất các quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
Thứ hai, pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước
Là một cơ chế phức tạp, để thực hiện quyền lực nhà nước, bộ máy Nhà
nước luôn phải được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật. Bên cạnh những
quy định của hiến pháp mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước đều được tổ chức và
hoạt động theo những văn bản pháp luật nhất định. Việc tổ chức bộ máy nhà nước
theo pháp luật sẽ đảm bảo được tínhchính xác, chặt chẽ, tính thống nhất cao trong
tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, đồng thời cũng thể hiện tầm quan trọng
của hoạt động quản lý nhà nước tạo ra sức mạnh tổng hợp, có tổ chức của bộ máy
nhà nước. Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật cũng tránh
được hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn hoặc tuỳ tiện, lạm quyền, tạo ra một cơ
chế đồng bộ thực hiện có hiệu quả quyền lực nhân dân.
Pháp luật là một công cụ cực kỳ quan trọng trong tay nhà nước để điều
chỉnh các quan hệ xã hội: tác động tới kinh tế và các yếu tố của các kiến trúc
thượng tầng xã hội. Nhà nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật. Pháp luật là
công cụ quản lý xã hội của nhà nước, do nhà nước đặt ra nhưng trong xã hội văn
minh,nhà nước cũng phải tự hạn chế bởi pháp luật, chịu phục tùng, phải thi hành
pháp luật do chính mình đặt ra. Có như vậy mới bảo vệ được quyền của công
dân,tránh sự lạm quyền,bảo đảm sự công bằng và sự phát triển bình thường của
nhà nước.Pháp luật chỉ có thể hiện được trong đời sống khi có sự đảm bảo của nhà
nước ở đây một lần lữa ta càng thấy rõ nhà nước và pháp luật có quan hệ qua lại
hữu cơ với nhau, cùng phát sinh tồn và phát triển.
Thứ ba, pháp luật là vũ khí chính trị để nhân dân lao động chống lại các
giai cấp áp bức bóc lột.

Thể hiện ý trí nhà nước của nhân dân lao động, pháp luật là vũ khí chính
trị mà nhân dân dùng để chống lại các giai cấp áp bức bóc lột. Dựa vào pháp luật
nhân dân tiến hành trấn áp các lực lượng phản cách mạng, giữ vững an ninh chính
trị trật tự an toàn xã hội ,ghi nhận và củng cố chính quyền nhân dân. Pháp luật là
phương tiện thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng ,nhà nước ,pháp luật cũng
là công cụ để cải tạo xã hội cũ trong các lĩnh vực kinh tế , chính trị , văn hoá-xã
hội…đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân lao động .
Tóm lại, Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng đều thuộc thượng tầng
kiến trúc xã hội luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Pháp luật là
phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội, tạo ra một trật tự xã hội phù hợp với ý chí
nhà nước, mang lại đời sống hạnh phúc cho nhân dân 1. Nhà nước ra đời có nhiệm
vụ quản lý xã hội, việc quản lý xã hội của nhà nước phải bằng pháp luật, chỉ có
việc quản lý xã hội bằng pháp luật thì mục đích việc quản lý mới đạt được và có
hiệu quả cao. Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có
một bộ máy quản lý, duy trì trật tự xã hội, vì sự tồn tại và phát triển của xã hội
nhằm mục đích bảo vệ lợi ích, địa vị của giai cấp thống trị và của toàn xã hội. Nhà
nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi tổ chức và
cá nhân trên lãnh thổ của mình. Với tư cách là tổ chức đại diện chính thức của toàn
xã hội, nhà nước ban hành pháp luật - một công cụ quản lý xã hội sắc bén, hiệu quả
và đòi hỏi sự tôn trọng, thực hiện nghiêm minh của mọi tổ chức và cá nhân trong
xã hội.
Dựa vào những thuộc tính của mình, pháp luật trở thành công cụ quản lý có
hiệu quả nhất trong các công cụ quản lý xã hội của nhà nước và là công cụ không
thể thay thế trong giai đoạn hiện nay. Pháp luật còn là công cụ bảo vệ lợi ích của
nhà nước, lợi ích xã hội và mỗi người dân. Muốn bảo vệ lợi ích nhà nước, xã hội,
1

TS. Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, NXB Chính trị quốc gia năm 2008

nhân dân, Nhà nước phải dựa trên căn cứ pháp lý và theo những trình tự thủ tục
luật định.
Trong xã hội hiện nay, Nhà nước phải thực hiện quản lý xã hội bằng pháp
luật bởi vì pháp luật là phương tiện, công cụ quan trọng để duy trì, bảo vệ trật
tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội. Sở dĩ cho rằng
pháp luật là công cụ quản lý xã hội quan trọng của Nhà nước bởi vì:
- Pháp luật là vũ khí chính trị để nhân dân chống lại các lực lượng thù địch,
phản cách mạng, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật
cũng là công cụ để cải tạo xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã
hội…định hướng cho xã hội phát triển, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
- Pháp luật là phương tiện mà thông qua đó Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà
nước và xã hội. Dưới hình thức pháp luật, đường lối chính sách của Đảng sẽ được
triển khai thực hiện nhanh, chính xác và có hiệu quả cao trên quy mô toàn xã hội
- Pháp luật là cơ sở pháp lý để bộ máy nhà nước tổ chức và hoạt động. Nhà
nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật, nó cần tới pháp luật để quy định thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước, xác định mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước
với nhau, giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và nhân dân bảo đảm tính
chặt chẽ, thống nhất, chính xác và tạo sức mạnh tổng hợp của bộ máy nhà nước.
- Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý hiệu quả các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội. Pháp luật được sử dụng để phối hợp, quy tụ những hoạt động
cá nhân riêng rẽ trong xã hội nhằm đạt được những mục đích mong muốn, duy trì
đời sống cộng đồng xã hội. Có thể nói hầu hết các lĩnh vực quan trọng của đời
sống cộng đồng xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội…đều được nhà nước
quản lý bằng pháp luật. Và chỉ quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực quan trọng

đó của đời sống xã hội thì mục đích của việc quản lý mới đạt được và có hiệu quả
cao.
Thông qua pháp luật, Nhà nước đề ra các kế hoạch và chính sách phát triển
các lĩnh vực đời sống xã hội, xác định cơ cấu, tổ chức và hoạt động, các biện pháp
kiểm tra, giám sát của nhà nước đối với lĩnh vực xã hội đó, đưa ra các biện pháp
hữu hiệu để xử lý các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Pháp luật có thể
thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự pháp triển và cũng có thể kìm hãm sự phát
triển của lĩnh vực hoạt động xã hội nào đó vì sự tiến bộ xã hội và hạnh phúc của
nhân dân.
- Pháp luật thiết lập và bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện dân chủ xã hội.
Bằng pháp luật, Nhà nước quy định các quyền, tự do dân chủ của nhân dân. Thông
qua pháp luật Nhà nước xác định địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội, xác định
mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội khác, giữa Nhà nước với nhân
dân. Pháp luật còn góp phần giải quyết những tranh chấp, điều hòa lợi ích giữa
Trung ương và địa phương, giữa các vùng, miền, giữa các lực lượng, các nhóm xã
hội khác nhau. Dựa vào pháp luật, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
- Pháp luật là phương tiện giáo dục con người mới. Trong xã hội, pháp luật
là một trong những phương tiện để giáo dục con người mới năng động, sáng tạo,
có niềm tự hào dân tộc, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xâu dựng và
bảo vệ tổ quốc. Bằng những quy định của mình, pháp luật giáo dục cán bộ, nhân
dân trách nhiệm của người dân, ý thức sống, làm việc theo Hiếp pháp, pháp luật,
giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc, tôn
trọng các quy tắc của đời sống cộng đồng. Pháp luật còn giáo dục công dân yêu lao
động, yêu Tổ quốc, có tình thần quốc tế chân chính, đoàn kết, hữu nghị vì hòa bình

và tiến bộ xã hội... Ý nghĩa giáo dục to lớn của pháp luật còn thể hiện ở việc pháp
luật quy định những biện pháp khen thưởng và trừng phạt phù hợp với các hành vi
pháp luật của tổ chức và cá nhân trong xã hội.
- Pháp luật tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho việc hình thành những
quan hệ mới trong xã hội. Pháp luật luôn hướng tới việc thúc đẩy hình thành những
quan hệ xã hội mới thể hiện sự bình đẳng, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa những
người lao động trong xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật còn là cơ sở pháp lý để đấu
tranh với những hiện tượng tiêu cực trong quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của
đất nước mình.
- Pháp luật là công cụ bảo vệ hữu hiệu quyền công dân, quyền con người,
bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ công lý. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo
pháp luật. Pháp luật còn có tác dụng ngăn ngừa, xử lý các hiện tượng tiêu cực
trong đời sống xã hội vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.
- Pháp luật bảo vệ, tạo điều kiện cho những công cụ quản lý xã hội khác phát
triển vì xã hội công bằng, hạnh phúc, văn minh, tốt đẹp hơn. Đồng thời, hạn chế và
loại trừ những quy định không tiến bộ, bất cập của những công cụ đó với xã hội.
Như vậy, có thể nói, pháp luật là công cụ quan trọng để quản lý, giữ gìn trật
tự xã hội, để giải quyết các xung đột trong xã hội, là phương tiện để cải biến xã
hội.
Bên cạnh đó, trong những công cụ quản lý xã hội thì pháp luật được xem là
một trong những công cụ quản lý xã hội hiệu quả nhất hiện nay, bởi vì so với
những công cụ xã hội khác, pháp luật có những ưu thế cơ bản sau đây [2]:

2

TS. Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, NXB Chính trị quốc gia năm 2008

- Thứ nhất, pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Việc ban
hành pháp luật của Nhà nước được tiến hành thông qua nhữn trình tự thủ tục chặt
chẽ và phức tạp với sự tham gia của rất nhiều các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các tổ chức và các cá nhân nên pháp luật luôn có tính khoa học, chặt chẽ,
chính xác trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Thứ hai, pháp luật do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của Nhà nước và
nhân dân, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Nhân dân thông qua nhà nước để nâng ý chí
của mình lên thành ý chí của nhà nước dưới dạng quy tắc xử sự chung do chính
quyền nên được Nhà nước và nhân dân tự giác thực hiện. Ngoài ra, pháp luật có
những chế tài nghiêm khắc để đảm bảo thực hiện pháp luật nghiêm minh như phạt
tiền, phạt tù, tù chung thân, tử hình…với sự đảm bảo của Nhà nước pháp luật được
tôn trọng và thực hiện nghiêm minh.
- Thứ ba, pháp luật chủ yếu bao gồm các quy tắc xử sự chung, được thể hiện
trong những hình thức xác định, có kết cấu logic rất chặt chẽ và được đặt ra không
phải xuất phát từ một trường hợp cụ thể mà là sự khái quát hóa từ rất nhiều những
trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Do đó, pháp luật có tính khái quát cao, là
khuôn mẫu để các tổ chức, cá nhân thực hiện.
- Thứ tư, pháp luật mang tính bắt buộc chung, không phải chỉ áp dụng cho
một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho toàn xã hội, tất cả các tổ chức và cá nhân
liên quan.
- Thứ năm, pháp luật có phạm vi rộng lớn, hầu hết các quan hệ xã hội đều
được pháp luật điều chỉnh.
- Thứ sáu, pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức, tạo sự thống
nhất, chặt chẽ, rõ ràng, chính xác về nội dung của pháp luật.

Mặc dù, pháp luật có vai trò quan trọng trong quản lý xã hội của Nhà nước.
Song, pháp luật không phải là công cụ quản lý xã hội vạn năng mà pháp luật cũng
có những hạn chế của mình. Chẳng hạn, ngoài tính khách quan thì pháp luật còn
mang tính chủ quan, nghĩa là nó phụ thuộc vào ý chí của những người có thẩm
quyền trong quy trình ban hành pháp luật. Tính khái quát cao của pháp luật đôi khi
không sát với trường hợp cụ thể. Pháp luật còn bị ràng buộc bởi cơ chế điều chỉnh
pháp luật phức tạp, đôi khi phiền hà, cứng nhắc.
Tóm lại, trong đời sống pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, pháp luật là
phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành của xã hội, pháp luật
không chỉ là một công cụ, phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội hữu hiệu, mà
còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển lành mạnh hoá đời sống xã hội và
góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. Trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện
nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan
nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh.

Tải về bản full

Đặc điểm của pháp luật

Pháp luật có 03đặc điểm[dấu hiệu] cơ bản sau đây:

Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện

Pháp luật do Nhà nước ban hành thông qua rất nhiều những trình tựthủ tụcchặt chẽ và phức tạp với sự tham gia của rất nhiều các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cáctổ chứcvà cáccá nhânnên pháp luật luôn có tính khoa học, chặt ché, chính xác trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiềubiện pháp, trong đó cácbiện pháp cưỡng chếnhà nước rất nghiêm khắc nhưphạt tiền, phạt tù cóthời hạn,tù chung thân… Với sự bảo đảm của nhà nước đã làm cho pháp luật luôn được các tổ chức và cá nhân tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, có hiệu quả trong đời sống xã hội.

Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, gồm những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung

Pháp luật gồm các quy tắc xử sự chung, được thể hiện trong nhữnghình thứcxác định, có kết cấu loorrich rất chặt chẽ và được đặt ra không phải xuất phát từ một trường hợp cụ thể mà là sự khái quát hóa từ rất nhiều những trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Điều này đã làm cho quy định pháp luật có tính khái quát hóa cao, là những khuôn mẫu điển hình để cácchủ thể[tổ chức, cá nhân] thực hiện theo khi gặp phải những tình huống mà pháp luật đã dự liệu.

Pháp luật mang tính băt buộc chung, các quy định pháp luật được dự liệu không phải cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức và cá nhân có liên quan. Xuất phát từ vị trí, vai trò của nhà nước trong xã hội [tổ chức đại diện chính thức cho toàn xã hội], nên pháp luật là bắt buộc đối với tất cả, việcthực hiện pháp luật

Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức:

Pháp luật luôn được thể hiện dưới những hình thức phải nhất định, nói cách khác, những quy định pháp luật phải được chứa đựng trong cácnguồn luậtnhưtập quán pháp,tiền lệpháp,văn bảnquy phạm pháp luật … Sự xác định chặt chẽ về hình thức là điều kiện để phân biệt giữa pháp luật với những quy định không phải là pháp luật, đồng thời, cũng tạo nên sự thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng, chính xác về nội dung của pháp luật.

Ngoài các đặc điểm cơ bản nói trên, pháp luật còn có những điểm khác nữa như tính ổn định, tính hệ thống …

1. Điều chỉnh quan hệ xã hội là gì?

Điều chỉnh quan hệ xã hội là việc sử dụng các công cụ để tác động lên các quan hệ xã hội, làm cho chúng trở nên thay đổi và phát triển theo những mục đích, định hướng nhất định nhằm duy trì và bảo vệ trật tự xã hội.Điều chỉnh quan hệ xã hội thực chất là điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó, làm thay đổi hành vi của họ.

Hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội là tổng thể các loại quy phạm xã hội được hình thành do nhu cầu của đời sống để điều chỉnh hành vi của con người, điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm quản lí xã hội. Hệ thống này được coi là khuôn mẫu, chuẩn mực cho các hành vi ứng xử cụ thể của các chủ thể khi họ tham gia vào các quan hệ xã hội nhất định.

Quan hệ xã hội là các quan hệ giữa các chủ thể với nhau phát sinh trong đời sống con người hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: là quá trình sản xuất và phân phối của cải vật chất, để đạt được mục đích của con người trong các lĩnh vực về nhu cầu văn hóa, tinh thần cũng như trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội. Quan hệ xã hội được phân thành hai loại đó là: quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần. Quan hệ xã hội tồn tại khách quan và không lệ thuộc vào ý chí của con người.

Pháp luật là gì?

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra, ban hành hoặc là thừa nhận, mang tính bắt buộc phải thực hiện và được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, cưỡng chế nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp mình.

Qua đây có thể thấy định nghĩa của pháp luật có chứa đựng các yếu tố như:

Thứ nhất: Pháp luật được xác định là hệ thống các quy tắc xử sự chung, bao gồm các quy phạm mang tính pháp luật và tính đạo đức, được áp dụng trên phạm vi cả nước, đối với mọi chủ thể trong xã hội

Thứ hai: Pháp luật mang tính bắt buộc chung và được đảm bảo thực hiện. Tức là đối với các quy định của pháp luật được áp dụng chung trong cộng đồng, chủ thể không có quyền đặt ý chí chủ quan của mình vào quyết định là thực hiện hay không.

Vì vậy nên pháp luật cũng đảm bảo cho việc thực hiện này bằng các biện pháp giáo dục, tuyên truyền, ở mức độ có hành vi chống đối thì sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Điều này đã góp phần tạo ra sự công bằng và bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể

Thứ ba: Con đường hình thành của pháp luật là được Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận của Nhà nước đối với những tập quán, tiền lệ đã có sẵn và được nâng lên thành pháp luật

Thứ tư: Bản chất nội dung của pháp luật là nhằm thể hiện ý chí của giai cấp thống trị

Với những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung pháp luật chính là những yêu cầu, đòi hỏi hoặc cho phép của nhà nước đối với hành vi ứng xử của các chủ thể trong xã hội. Nói cách khác, pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước; thông qua pháp luật, nhà nước cho phép người dân được làm gì, không cho phép họ làm gì hay bắt buộc họ phải làm gì, làm như thế nào…

Như vậy khi nói đến pháp luật thì thường sẽ nói đến những quy phạm mang tính phổ biến, tức là nói đến những khuôn mẫu chung và có tính phổ biến. Trong xã hội hiện nay không chỉ pháp luật có tính quy phạm mà đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo, các tổ chức chính trị-xã hội đều có tính quy phạm.

Tính quy phạm của pháp luật được thể hiện ở chỗ đây chính là khuôn mẫu chung cho nhiều người cùng thực hiện và cần phải tuân theo; khuôn mẫu này sẽ được áp dụng nhiều lần trong không gian và thời gian và thời gian rộng lớn.

Xã hội học xây dựng pháp luật

09/09/2021

TS. PHẠM THỊ DUYÊN THẢO

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn
Tóm tắt: Xã hội học xây dựng pháp luật là một loại nghiên cứu pháp lý - xã hội; theo đó, xây dựng pháp luật được tiếp cận dưới góc độ là một hiện tượng xã hội, xem xét các khía cạnh, bản chất xã hội, các bảo đảm cơ sở xã hội học của xây dựng pháp luật, các yếu tố xã hội tác động đến xây dựng pháp luật, cơ chế xã hội của xây dựng pháp luật cũng như hiệu quả, sự tác động ngược trở lại của xây dựng pháp luật đối với đời sống xã hội.
Từ khóa: Xã hội học, xây dựng pháp luật.
Abstract: Sociology of lawmaking is a type of socio-legal study; accordingly, law-making is approached from the perspective of a social phenomenon to consider the concept and nature of sociology so that it is to ensure the sociological basis of law-making, the social factors to impact on law-making, the social mechanism of law-making as well as the effectiveness, the reverse impacts of law-making on social life.
Keywords: Sociology; lawmaking.

Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Bản chất xã hội của xây dựng pháp luật
Trước hết, xây dựng pháp luật [XDPL] chính là một loại thiết kế xã hội[1], bao gồm việc dựng cho xã hội một "bản vẽ", một bộ khung, mô hình, góp phần vào việc định hình, định hướng xã hội theo một hệ thống các quy ước nhất định. Hoạt động XDPL thực chất là tạo nên các quy phạm pháp luật [QPPL] - quy tắc của hành vi - để tác động vào các quan hệ xã hội, làm chúng đi theo đúng khuôn khổ mà xã hội mong muốn. Các khuôn khổ đó sẽ cung cấp quy tắc ứng xử, mô hình hóa hành vi của các thành viên trong xã hội, kiềm chế họ không thực hiện hoặc bắt buộc phải thực hiện những hành vi nhất định, hoặc sẽ hành xử như thế này mà không phải như thế khác. XDPL tạo ra các khung khổ để thay đổi các hành vi có xu hướng cản trở sự phát triển [đặc biệt là hành vi của các công chức nhà nước] và ngược lại.
XDPL xuất phát từ nhu cầu của xã hội, trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhu cầu điều chỉnh này, cùng các quyền, lợi ích, phần lớn trùng hợp với mong muốn của các cá nhân, các nhóm trong xã hội. Hoạt động XDPL không những nằm trong quá trình vận hành chung của xã hội, mà với các QPPL được xây dựng chủ động, mang tính "đón đầu", "phòng ngừa" xã hội trong quá trình điều chỉnh, còn thể hiện sự định hướng xã hội.
XDPL được vận hành nhờ các chất liệu đa dạng từ cuộc sống, chịu sự tác động nhiều chiều từ các khía cạnh, yếu tố khác nhau trong xã hội. Từ các yếu tố chung như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, bối cảnh quốc tế, ý thức pháp luật, truyền thống lịch sử cho đến các yếu tố trực tiếp như: tổ chức, năng lực, kỹ năng, kỹ thuật soạn thảo, phạm vi, tính chất, đối tượng điều chỉnh...
XDPL, đến lượt mình, cũng tác động trở lại mạnh mẽ đến các khía cạnh xã hội. Nó không chỉ là hoạt động chủ đạo góp phần tạo nên cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh, định hướng các quan hệ xã hội, mà còn là một hệ thống các thông tin xã hội tương ứng được thể hiện qua nội dung, cách thức điều chỉnh của các QPPL. XDPL góp phần quy phạm hóa các chuẩn mực xã hội khác như: đạo đức, phong tục, tập quán, các quy tắc của tổ chức chính trị, xã hội, làm đa dạng cách thức và gia tăng hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội.
2. Cơ chế xã hội trong xây dựng pháp luật
Khác với cơ chế pháp lý trong XDPL, luôn mang tính quyền lực nhà nước với các quy trình luật định, cơ chế xã hội trong XDPL có đặc thù riêng, là quá trình gắn với sự tham gia của các lực lượng xã hội, gồm công dân, nhóm, tổ chức, hội nghề nghiệp, các thành phần khác nhau của xã hội dân sự vào việc XDPL của Nhà nước.
Cơ chế xã hội trong XDPL có thể xuất hiện ở giai đoạn này hay giai đoạn khác, hoặc lặp đi lặp lại trong các giai đoạn của quá trình XDPL. Các hình thức của cơ chế đó là: nhận biết, phản ánh, thiết lập; tham gia; phản kháng, phản biện xã hội và giám sát xã hội trong XDPL.
Nhận biết, phản ánh, thường xuất hiện ở giai đoạn đầu của quá trình XDPL. Từ thực tiễn, các thành phần xã hội nhận thức, đánh giá về trạng thái, tính chất, hiệu quả của các quy phạm pháp luật hiện hành trong khi điều chỉnh quan hệ xã hội. Những bất cập, thiếu khuyết của pháp luật sẽ được nhận diện. Bất cập có thể đến từ sự mâu thuẫn về lợi ích, mức độ thiếu tương thích trong đáp ứng nhu cầu xã hội, sự yếu kém về kỹ thuật lập pháp, sự biến động của các quan hệ xã hội hoặc đến từ những tình huống xã hội thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước. Những tình huống xã hội xuất hiện lặp đi lặp lại, nhất là tình huống mang yếu tố không bình thường, không chỉ giúp cho việc nhận diện vấn đề mà còn cho thấy các lỗ hổng của pháp luật hiện hành, kéo theo nhu cầu phải sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan. Ví dụ, việc gia tăng các giao dịch về cây hoa phong lan đột biến với giá hàng chục, hàng trăm tỷ đồng đã thu hút không ít người lao vào đầu tư với mong muốn kiếm siêu lợi nhuận vì tin rằng sẽ có người bỏ tiền nhiều hơn để mua lại. Các hành vi lừa đảo theo đó cũng gia tăng, dẫn đến nhiều nghi vấn về tính xác thực của giao dịch. Ở góc độ pháp lý, nhiều ý kiến cho rằng, để những tình huống xã hội dạng này ngày càng xuất hiện là do những bất cập về pháp luật. Cụ thể, trong trường hợp nếu hộ gia đình, cá nhân trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp [trồng trọt] chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác, thì sản phẩm nông nghiệp trong trường hợp này không chịu thuế giá trị gia tăng theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2016 và được miễn thuế thu nhập cá nhân theo quy định tại Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007. Theo đó, việc cân nhắc, bổ sung các quy định về thuế và cơ chế kiểm soát đối với loại tình huống pháp lý này sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc minh định các giao dịch, giúp người dân không bị cuốn vào những giao dịch tiềm ẩn đầy rủi ro, bất ổn có thể làm đảo lộn cuộc sống và mất trật tự an ninh.
Gắn liền với nhận thức, hoạt động phản ánh sẽ diễn ra, nhằm tái hiện các vấn đề xã hội - pháp lý liên quan đến các đặc trưng, hệ quả xã hội hoặc tính chất của các QPPL, nhằm đạt được những nhu cầu từ thực tiễn. Một biểu hiện phổ biến trong cơ chế nhận thức, phản ánh là dư luận xã hội. Dư luận xã hội là các ý kiến còn lại sau quá trình phân tích, đánh giá của các thành phần xã hội về những vấn đề mà họ cảm thấy có ý nghĩa hoặc động chạm đến lợi ích, giá trị chung. Thông qua dư luận xã hội, quá trình nhận biết, phản ánh trong XDPL của các thành phần xã hội được công khai, cập nhật.
Sự tham gia trong XDPL là quá trình người dân, các lực lượng xã hội có thể góp phần hoạt động của mình vào xây dựng các quyết định, chính sách pháp luật có ảnh hưởng đến hành vi, các quyền và lợi ích của họ. Sự tham gia của xã hội vào XDPL thông thường đến từ các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp từ các văn bản QPPL, các đối tượng khác chịu sự tác động của các dự thảo văn bản QPPL, của các tổ chức xã hội, chuyên gia, hoặc từ các chủ thể khác trong tương quan với nhận thức, mức độ quan tâm của họ đến XDPL. Các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản QPPL thuộc nhóm yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, cơ chế tham gia có những đặc thù, ảnh hưởng từ yếu tố thể chất, tinh thần của nhóm. Sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học có ý nghĩa quan trọng, bởi họ thường có tri thức, kỹ năng, gia tăng cơ hội xây dựng được các VBQPPL có chất lượng, hiệu quả. Sự tham gia của các đối tượng có lợi ích liên quan có thể làm cho họ hành xử khác đi. Đặc biệt, khi sự tham gia không phải với tư cách là các đối tượng nghiên cứu thụ động, mà với tư cách là các chủ thể tích cực, chủ động vào các chương trình phân tích được tiến hành "sẽ thúc đẩy một chương trình lập pháp ngày càng dân chủ"[2].
Ở Việt Nam, sự tham gia của xã hội vào XDPL được ghi nhận tại Điều 28 Hiến pháp năm 2013, cụ thể hóa tại Điều 5 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 "bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL". Cơ chế tham gia của xã hội vào XDPL không chỉ đảm bảo quyền của công dân, nhằm thu hút, phát huy năng lực sáng tạo của nhân dân mà còn gia tăng trách nhiệm của Nhà nước trong quá trình tạo ra các sản phẩm pháp luật đáp ứng nhu cầu xã hội, phục vụ con người[3].
Phản biện, phản kháng xã hội: Phản biện xã hội trong XDPL là việc bày tỏ ý kiến một cách có hệ thống và có cơ sở khoa học đối với các chính sách, pháp luật ở những công đoạn nhất định của quá trình XDPL, là "nhận diện, tìm ra điểm đúng, sai, bất hợp lý của chính sách được đưa ra để giải quyết vấn đề phát sinh, từ đó có thể kiến nghị điều chỉnh hay thậm chí là hủy bỏ chính sách đó, đề xuất chính sách mới, phù hợp hơn để giải quyết vấn đề"[4]. Nhờ cơ chế phản biện, mức độ tương thích, hiệu quả của chính sách pháp luật sẽ được nhận diện, những lập luận, đề xuất đưa ra sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách pháp luật khi được ban hành. Phản biện có thể diễn ra trực tiếp tại các hội nghị lấy ý kiến, tiếp xúc cử tri của đại biểu dân cử hoặc thông qua việc đăng tải ý kiến trên phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các tổ chức mà mình là thành viên hoặc qua việc đối thoại với các chủ thể có văn bản được phản biện.
Phản kháng xã hội trong XDPL có mục đích loại bỏ hoặc kiềm chế việc xây dựng hoặc ban hành những chính sách, pháp luật mà các chủ thể phản kháng thấy không hợp lý, không có ích cho xã hội, cộng đồng. Phản kháng và phản biện xã hội trong XDPL không hoàn toàn giống nhau, nhưng đều là những cách thức thể hiện thái độ, phản ứng tích cực của xã hội đối với các vấn đề liên quan đến XDPL, nhằm hướng tới chất lượng, hiệu quả của các sản phẩm lập pháp, lập quy.
Giám sát xã hội trong XDPL là việc công dân, các thành phần xã hội, thông qua các cách thức được pháp luật quy định, tiến hành quan sát, theo dõi, kiểm tra hoạt động XDPL của các chủ thể có thẩm quyền xem có đúng đắn, hợp pháp, hợp lý, chất lượng, hiệu quả không. Cách thức giám sát có thể qua khiếu nại, tố cáo, qua báo chí, phương tiện truyền thông đại chúng hoặc qua việc thực hiện dân chủ ở cơ sở trong liên quan đến quá trình XDPL.
Các hình thức của cơ chế xã hội của XDPL có quan hệ mật thiết, tiếp nối, hòa trộn trong quá trình XDPL. Để giám sát, cần nhận biết, phản ánh và ngược lại. Giám sát cung cấp dữ liệu sống động cho quá trình phản kháng, phản biện xã hội, nhằm hướng tới chất lượng, hiệu lực thực sự của pháp luật. Ở góc độ tích cực nhất, các cơ chế xã hội của XDPL là biểu hiện mạnh mẽ sự tham gia đa dạng, chủ động của nhân dân vào hoạt động XDPL, cũng là sự cạnh tranh cần thiết trong tương quan với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của cơ chế pháp lý của XDPL.
3. Bảo đảm cơ sở xã hội học trong xây dựng pháp luật
Bảo đảm cơ sở xã hội học của XDPL là những yếu tố làm cho XDPL chắc chắn được thực hiện, duy trì hoặc có đầy đủ nhữnggìcần thiết để triển khai hiệu quả. "Trong xã hội học pháp luật, hoạt động thu thập và phân tích thông tin xã hội cần thiết cho việc soạn thảo có kết quả các QPPL được hiểu là cơ sở xã hội học của hoạt động XDPL"[5]. Nội dung bảo đảm cơ sở xã hội học trong XDPL gồm:
-Thông tin xã hội học về chính sách pháp luật
Là một trong những chính sách công có vị trí quan trọng trong đời sống pháp lý, chính sách pháp luật là "chiến lược hoạt động của Nhà nước trong lĩnh vực điều chỉnh pháp luật, cũng như hoạt động phản ánh các lợi ích xã hội trong việc phân bổ lại các lĩnh vực ảnh hưởng của các điều chỉnh xã hội khác nhau"[6]. XDPL cần phải có các thông tin xã hội học về chính sách pháp luật vì, "chính sách là nội dung, văn bản pháp luật là vỏ bọc chứa đựng các chính sách đó dưới dạng ngôn ngữ và hình thức pháp lý"[7]. Thông tin xã hội học về chính sách pháp luật cơ bản đến từ quá trình phân tích chính sách. Quá trình này cần thiết, bởi nó đảm bảo mục tiêu của pháp luật là phục vụ lợi ích công cộng hoặc một bộ phận nhất định trong công chúng; giúp cho các nhà lập pháp hiểu rõ "mức độ tác động của các biện pháp cưỡng chế thi hành tới đâu và lường trước những phản ứng ngược lại; đặt sản phẩm lập pháp trong một chuỗi các hoạt động theo trật tự cố định, từ lúc nhận biết nhu cầu, xác định phương án, thiết kế phương án, cho đến lúc thông qua; giúp nhận biết mối liên hệ của văn bản chuẩn bị ban hành với những văn bản cùng lĩnh vực, từ đó tăng tính hiệu quả; hướng tới mức độ tương thích giữa chi phí và lợi ích để cân nhắc xem có cần ban hành văn bản QPPL đó hay không[8]. Trong quá trình phân tích chính sách, sự tham vấn rộng rãi ý kiến của quần chúng, các bộ ngành liên quan sẽ góp phần nâng cao chất lượng, làm minh bạch hóa, đời sống hóa hoạt động XDPL.
-Thông tin xã hội học về hiệu quả của các QPPL hiện hành
Thông tin xã hội học về hiệu quả của QPPL hiện hành là toàn bộ các "kết quả như yêu cầu" của QPPL, những thông báo, dữ liệu thu nhận dưới góc độ xã hội về quá trình QPPL phát huy giá trị, vai trò của nó trong khi điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan. Các thông tin này có thể là: mức độ đáp ứng về mục tiêu, phạm vi, tính chất điều chỉnh các quan hệ xã hội trực tiếp của QPPL; kết quả của việc điều chỉnh ở cả góc độ tích cực, tiêu cực, nguyên nhân dẫn tới những kết quả đó; mức độ tương tác của QPPL với các QPPL liên quan và với cả hệ thống pháp luật; mức độ hiện thực hóa các dự báo của QPPL trong quá trình ban hành trước đó; những yêu cầu đặt ra cùng các giải pháp cụ thể để tiếp tục hoàn thiện QPPL, đáp ứng mục tiêu điều chỉnh xã hội. Thông tin xã hội học về hiệu quả của QPPL hiện hành cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến hoạt động XDPL. Nhờ những thông tin này, mà các chủ thể có thẩm quyền nhận thức được trạng thái của QPPL hiện hành dưới góc độ hiệu quả xã hội, từ đó có những ứng xử phù hợp liên quan đến những văn bản pháp luật sắp ban hành một cách thực chất, tránh hình thức, phiến diện. Qua các thông tin về hiệu quả xã hội của QPPL hiện hành, các chủ thể xây dựng pháp luật có cơ sở thực tiễn để cân nhắc kỹ lưỡng việc ban hành QPPL liên quan.
-Thông tin xã hội học về nhu cầu và các lợi ích pháp lý - xã hội
Nhu cầu là những đòi hỏi, mong muốn củacon ngườivề vật chất, tinh thần hoặc sự vật, hiện tượng nào đó như là điều kiện để tồn tại và phát triển. Lợi ích, ở một khía cạnh nhất định, nó "như là nhu cầu khách quan được chế định bởi vị trí xã hội của một cá nhân, một dân tộc, một nhóm xã hội nào đó”, "là sự phản ánh chủ quan những nhu cầu tồn tại khách quan”[9], "là mối quan hệ lựa chọn đã được nhận thức của nhu cầu”[10]. Trong thực tế, có rất nhiều nhu cầu và các lợi ích pháp lý - xã hội với các tính chất và mức độ khác nhau cần phải được nhận thức trong quá trình XDPL. Đó có thể là những nhu cầu, lợi ích chung thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, có thể là nhu cầu của cá nhân, tổ chức, các nhóm cộng đồng nhất định tương ứng. Việc xác định chính xác thông tin về nhu cầu và các lợi ích pháp lý - xã hội liên quan trong XDPL giúp cho việc lựa chọn được các nhu cầu, lợi ích mang tính ưu tiên, phù hợp với thực tiễn, trong tương quan với sự điều chỉnh trực tiếp của quy phạm pháp luật sắp ban hành. "Ở đây cần phải giải quyết hai nhiệm vụ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau: bảo đảm việc thu thập thông tin đầy đủ và chính xác về các lợi ích xã hội, các lợi ích pháp luật và có khả năng phân biệt lợi ích khách quan với các lợi ích chủ quan"[11].
Để xác định được nhu cầu, lợi ích mang tính ưu tiên dẫn đến các ưu tiên trong XDPL, cần căn cứ vào các thông tin như: sự nghiêm trọng của vấn đề xã hội cần điều chỉnh, phạm vi những vấn đề xã hội được xác định ảnh hưởng đến dân chúng, ai nằm trong nhóm bị ảnh hưởng; tác động xã hội của các văn bản QPPL được đề xuất, ai được lợi, ai chịu thiệt và trong phạm vi nào[12]... Các tiêu chí xác định việc ưu tiên trong XDPL có thể dựa vào việc giải quyết các vấn đề: "Cải thiện chất lượng điều hành nhà nước không, như thế nào? tạo thêm nhiều cơ hội việc làm không? Nâng cao sản xuất, hàng hóa và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu căn bản của đại bộ phận dân chúng không? Nâng cao sự công bằng không, nâng cao như thế nào?"[13]. Thông tin xã hội học về nhu cầu và các lợi ích pháp lý-xã hội sẽ giúp các cơ quan xây dựng pháp luật sử dụng các dữ kiện thực tế để quyết định dành các nguồn lực cho dự luật nào và theo thứ tự ra sao.
-Thông tin xã hội học về cơ chế hoạt động pháp lý - xã hội của các QPPL được soạn thảo
Cơ chế hoạt động pháp lý - xã hội của các QPPL được soạn thảo là cách thức, quá trình các QPPL hiện thực hóa việc tác động đến các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, trong tương quan với các yếu tố tác động, điều kiện đảm bảo của xã hội và pháp luật. Cơ chế này là sự kết hợp giữa quá trình điều chỉnh xã hội của pháp luật, thông qua các yếu tố pháp lý đặc thù với quá trình tham gia của các thành phần, yếu tố xã hội khác. Thông tin xã hội học về cơ chế hoạt động pháp lý - xã hội của QPPL được soạn thảo cung cấp một họa đồ các công đoạn điều chỉnh pháp luật của QPPL trong xã hội, trong tương quan với quá trình điều chỉnh của các QPPL liên quan. Từ đó, có thể nhận diện được sự phù hợp hay không của QPPL trong quá trình điều chỉnh, mức độ đáp ứng các yêu cầu của xã hội, mức độ tương thích của QPPL trong hệ thống pháp luật nói chung, hiệu quả điều chỉnh của QPPL đó ra sao.
Thông qua cơ chế hoạt động pháp lý - xã hội của QPPL được soạn thảo, tác động của các yếu tố như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, các quy phạm xã hội khác như đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo cũng được xem xét. Việc phân tích thực trạng và tìm lời giải cho mối tương quan giữa các yếu tố pháp lý với các yếu tố xã hội, giữa các quy phạm pháp luật với các quy phạm xã hội như đạo đức, tập quán cũng sẽ giúp thúc đẩy hay cản trở việc đạt được những mục đích, yêu cầu của pháp luật trong tương lai.
-Thông tin dự báo về hiệu quả, tác động xã hội của QPPL sẽ được ban hành
"Dự báo pháp luật là loại nghiên cứu nhằm mục đích dự đoán các trạng thái tương lai của pháp luật và của các hiện tượng do pháp luật quy định, mang tính chất xác suất, nhiều phương án"[14]. Mặc dù, chỉ mang tính chất dự đoán tương lai, dự đoán những thay đổi tiếp theo của trạng thái hiện có, nhưng dự báovề hiệu quả, tác động xã hội của QPPL sẽ được ban hành được xem là một trong những đảm bảo quan trọng của XDPL. Bởi lẽ, nó cung cấp các thông tin mang tính báo trước về tình hình hiệu quả, tác động xã hội của QPPL sẽ được ban hành có nhiều khả năng sẽ xảy ra, dựa trên cơ sở những số liệu, những thông tin đã có. Thông thường, các dự báo sẽ được gửi kèm các dự án đề xuất xây dựng hoặc dự thảo văn bản QPPL, và càng nhiều thông tin về dự báo càng tốt cho quá trình quyết định của chủ thể có thẩm quyền. Ở cấp độ cơ bản nhất, các dự báo phải chỉ rõ được ai sẽ là người được hưởng lợi, ai sẽ là người chịu ảnh hưởng; các chi phí của chính phủ; tác động của QPPL với các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh cùng tương quan với hệ thống các QPPL liên quan; mức độ trật tự và sự ổn định của các quan hệ xã hội sau khi được điều chỉnh; tình trạng pháp chế trong đời sống xã hội; những lợi ích vật chất và tinh thần được tạo ra; những hiện tượng và các quá trình khác của đời sống xã hội có thể xảy ra khi chịu sự tác động của pháp luật và quá trình điều chỉnh pháp luật...
4. Các yếu tố tác động đến xây dựng pháp luật
Yếu tố tác động là những yếu tố làm cho quá trình XDPL có những ảnh hưởng, biến đổi nhất định. Đó có thể là các yếu tố chung như: kinh tế, chính trị, văn hóa, bối cảnh quốc tế, pháp luật, cũng có thể là các yếu tố cụ thể như: năng lực xây dựng pháp luật, vấn đề tổ chức, dư luận xã hội, cơ sở vật chất, kinh phí...
Kinh tế là yếu tố mang tính nền tảng, tác động đến XDPL ở nhiều khía cạnh, từ tính chất, cơ cấu cho đến nội dung, "kinh tế đóng vai trò liên kết, quyết định cả trong sự hình thành một loạt chế định của các ngành pháp luật khác, như chế độ tiền lương trong Luật lao động hoặc chế định tiền trợ cấp và sở hữu của vợ chồng trong pháp luật hôn nhân gia đình...; trong sự hình thành và hoạt động của pháp luật về đất đai, tài nguyên thiên nhiên"[15].
Chính trị, theo nghĩa chung nhất, là sự ổn định, bền vững của thể chế, của hệ thống chính trị, góp phần tạo lập môi trường thuận lợi cho XDPL. Cụ thể hơn, chính trị thể hiện qua chủ trương, chính sách của đảng cầm quyền, là cơ sở tư tưởng cho quá trình thể chế hóa hành pháp luật của Nhà nước, cung cấp những định hướng phát triển cho các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội.
Yếu tố pháp luật có tác động mạnh mẽ đến XDPL. Nó không chỉ thể hiện tính chất, mức độ điều chỉnh các quan hệ xã hội, lý do của việc XDPL mà còn tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này. Hệ thống pháp luật hiện hành có tác động trực tiếp đến quá trình XDPL bởi nó bộc lộ tính chất, phạm vi điều chỉnh cũng như sự thiếu hụt, mức độ, sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung. Đặc biệt, các quy định về quy trình, thủ tục, thẩm quyền, cũng như trách nhiệm pháp lý trong XDPL sẽ tác động đến chất lượng, cách thức XDPL.
Văn hóa nói chung, văn hóa pháp luật nói riêng cũng có tác động không nhỏ đến XDPL. Nó chi phối nhận thức, thái độ, kỹ năng của chủ thể có thẩm quyền, đồng thời tác động đến mức độ quan tâm, tham gia của các chủ thể khác trong xã hội vào quá trình kiểm tra, giám sát, đóng góp ý kiến trong XDPL. Nếu ý thức pháp luật của các cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước mang tính tích cực, coi trọng trách nhiệm, đạo đức công vụ, sẽ góp phần nâng cao chất lượng, tạo niềm tin cho các chủ thể liên quan trong XDPL.
Yếu tố năng lực XDPL là khả năng tạo ra được các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng, hiệu quả, thuộc về đội ngũ các chủ thể có thẩm quyền XDPL. Nó được tạo nên bởi một tổng thể gồm năng lực chuyên môn, khả năng đáp ứng mục tiêu, trách nhiệm về lòng trung thành, tính cẩn mật, khả năng chấm dứt hoặc từ chối tuân theo các chỉ đạo có thể gây ảnh hưởng đến tính minh bạch, chất lượng của quá trình XDPL. Năng lực XDPL là yếu tố tác động mang tính quyết định đối với chất lượng của các văn bản QPPL được ban hành, bởi nó trực tiếp biến các chính sách, chủ trương, định hướng chính trị, mong muốn, nhu cầu của xã hội... thành các quy định cụ thể của pháp luật, cái sẽ tác động trực tiếp đến hành vi của các chủ thể liên quan.
Dư luận xã hội là yếu tố để các lực lượng xã hội thể hiện quan điểm của mình về các vấn đề xã hội, trong đó có hoạt động XDPL. Dư luận xã hội góp phần tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ, thể hiện ý chí, mở rộng nền dân chủ xã hội, tích cực tham gia vào quá trình XDPL. Dư luận xã hội cũng là nguồn thông tin phản hồi có ý nghĩa quan trọng và thiết thực với XDPL, bởi mọi vướng mắc, thiếu hụt, khe hở của pháp luật đều có thể được nhận diện qua dư luận, từ đó giúp chủ thể có thẩm quyền ra các văn bản, quyết định phù hợp lòng dân. Dư luận xã hội cũng có sức mạnh to lớn trong việc định hướng, điều chỉnh hành vi của các thành viên trong xã hội, trong đó có hành vi của các chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động XDPL, để các chủ thể này lắng nghe dư luận một cách nghiêm túc, có những phân tích khoa học để rút ra được những kết luận chính xác về thực trạng các quan hệ xã hội đang cần có pháp luật điều chỉnh[16].
Yếu tố tổ chức cũng rất cần cho XDPL, vì suy cho cùng, mọi hoạt động muốn đạt hiệu quả, bắt buộc phải được tổ chức tốt. Yếu tố tổ chức trong XDPL đến từ nhiều khía cạnh, từ việc bố trí hợp lý về cơ cấu các chủ thể chịu trách nhiệm, cho đến tính khả thi của mọi công đoạn khi triển khai. Tất cả đều phải được nghiên cứu, tính toán hợp lý, khoa học, có kế hoạch cụ thể. Trong quá trình đó, trách nhiệm của các cá nhân phải được phát huy cao nhất, các bước, công đoạn phải có lộ trình và khả thi.
Yếu tố chi phí và cơ sở vật chất trong thực tiễn cũng ảnh hưởng lớn tới quá trình XDPL. Nó không chỉ làm cho hoạt động XDPL vận hành trôi chảy, mà còn chi phối cả đến thời gian hoàn thành, phạm vi, tính chất của văn bản pháp luật được soạn thảo. Nếu kinh phí, cơ sở vật chất thiếu thốn, không đáp ứng yêu cầu, không hợp lý, thì các chủ thể có thẩm quyền khó bảo đảm tiến độ triển khai nhiệm vụ, việc tổ chức cho các thành phần xã hội, cơ quan, tổ chức và người dân tham gia XDPL theo quy định ở các công đoạn cũng khó đạt chất lượng như mong muốn.
Các yếu tố cơ bản nêu trên, trong quá trình tác động đến XDPL luôn có tác động nhất định đến nhau, ảnh hưởng đến XDPL cả ở góc độ tích cực lẫn tiêu cực. Việc xem xét, nghiên cứu các yếu tố tác động đến XDPL là một khía cạnh quan trọng của các nghiên cứu pháp lý xã hội thuộc lĩnh vực XDPL. Nó giúp việc nhận diện mức độ, tính chất tác động, ảnh hưởng của các nhân tố xã hội, đồng thời phản ảnh nhu cầu của xã hội đối với quá trình điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ xã hội nhất định. Từ đó, có thể đưa ra các phương án, giải pháp tối ưu, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động và sản phẩm của XDPL.
5. Tác động xã hội trong xây dựng pháp luật
Như đã trình bày, XDPL chính là một loại thiết kế xã hội, XDPL trước hết là việc quy phạm hóa các hành vi mang tính điển hình, phổ biến của các chủ thể trong xã hội vào phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Từ đó, tạo ra một khung khổ pháp lý cho các quan hệ xã hội vận hành theo đúng mong muốn của Nhà nước và cộng đồng xã hội, tạo tiền đề cho một xã hội trật tự, ổn định, phát triển. "XDPL là việc biến ý chí của Nhà nước thành pháp luật và tạo cho nó một đặc tính pháp lý, nó cũng biến các yêu cầu của người dân thành pháp luật - yêu cầu mang tính quyền lực"[17].
XDPL cũng là hoạt động tạo nên sự kết nối giữa các thành viên trong quá trình tham gia vào các cơ chế xã hội - pháp lý của XDPL. Sự kết nối có thể qua việc cùng tạo nên dư luận xã hội về một vấn đề nhất định mà cộng đồng quan tâm, cũng có thể qua việc đóng góp ý kiến, tham gia, phản biện, phản kháng hoặc kiểm tra, giám sát quá trình XDPL của các chủ thể có thẩm quyền. XDPL vì vậy, có tác dụng tạo ra những liên kết và đồng thuận xã hội giữa các thành viên."Cân nhắc các vấn đề có tầm quan trọng quốc gia, các vấn đề và nhu cầu của công chúng là một chức năng quan trọng của lập pháp hiện đại. Thông qua chức năng này, lập pháp phản ánh dư luận xã hội về nhiều vấn đề khác nhau. Các cuộc tranh luận được tổ chức trong quá trình lập pháp có giá trị giáo dục rất lớn đối với người dân."[18]
Thông qua XDPL, người dân, các lực lượng khác nhau trong xã hội thể hiện quan điểm, nhu cầu, nguyện vọng của mình, cũng chính là những yêu cầu đối với Nhà nước trong quá trình hiện thực hóa các quyền mà nhân dân giao phó. XDPL cũng chính là quá trình hiện thực hóa các quyền con người, hiện thực hóa chủ quyền nhân dân và các trách nhiệm của Nhà nước. "Khi Nhà nước đề ra một chính sách và sau đó cam kết thực hiện chính sách đó, thì các nhà soạn thảo pháp luật phải chuyển hóa chính sách đó thành quy định của pháp luật để cho các cán bộ nhà nước khác thực thi. Sau cùng, Nhà nước chỉ có một con đường là thực thi các chính sách của mình thông qua việc ban hành và thực thi pháp luật"[19].
XDPL đôi khi cũng làm cản trở tiến trình dân chủ, hạn chế các quyền con người, nếu quá trình xây dựng diễn ra một cách hình thức, không thể hiện được ý chí, nguyện vọng cũng như sự tham gia của các thành phần xã hội, đặc biệt, khi sản phẩm của quá trình XDPL là những văn bản QPPL có chất lượng kém, không đáp ứng nhu cầu hoặc mâu thuẫn với hệ thống pháp luật đã ban hành.
Như vậy, xã hội học XDPL là loại nghiên cứu pháp lý-xã hội nhằm nhận thức hoạt động XDPL một cách sống động nhất, gắn liền với hơi thở của xã hội. Thông qua những khía cạnh xã hội trong hoạt động XDPL, vai trò của các thành phần xã hội ngày càng được nhìn nhận trong quá trình XDPL; đồng thời, hoạt động XDPL lập pháp được đảm bảo bởi cơ sở xã hội vững chắc góp phần nâng cao chất lượng, tính khả thi của các văn bản QPPL trong thực tiễn./.

[1] Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật - những vấn đề cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015, tr.268.
[2] Ann Seidman, Robert B. Seidman, Nalin Abeyesekere, Soạn thảo luật pháp vì tiến bộ xã hội dân chủ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2003, tr.197.
[3] Xem Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Thị Minh Hà, Thúc đẩy sự tham gia của người dân trong hoạt động XDPL ở Việt Nam đáp ứng yêu câu cả cách tiếp cận dựa trên quyền con người, in trong sách “Sự tham gia của xã hội vào quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng trên thế giới và ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, tr.125-150
[4] Lê Thị Thiều Hoa, Phản biện xã hội và vai trò của phản biện xã hội ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 12 [412], tháng 6/2020, //www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/210566/Phan-bien-xa-hoi-va-vai-tro-cua-phan-bien-xa-hoi-o-Viet-Nam-hien-nay.html.
[5] Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật - những vấn đề cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015, tr.275.
[6] Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật - những vấn đề cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015, tr.195.
[7] Nguyễn Đức Lam, Phân tích chính sách trong quy trình lập pháp ở các nước, //thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/04/06/2615/.
[8] Nguyễn Đức Lam, Phân tích chính sách trong quy trình lập pháp ở các nước, //thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/04/06/2615/
[9] V.I. Pripisnov được dẫn theo bài viết “Lợi ích và vai trò động lực của nó đối với sự phát triển xã hội – PhầnI”, //caphesach.wordpress.com/2017/04/05/loi-ich-va-vai-tro-dong-luc-cua-no-doi-voi-su-phat-trien-xa-hoi-phan-i/.
[10] N.A. Gnilickij được dẫn theo bài viết “Lợi ích và vai trò động lực của nó đối với sự phát triển xã hội – PhầnI”, //caphesach.wordpress.com/2017/04/05/loi-ich-va-vai-tro-dong-luc-cua-no-doi-voi-su-phat-trien-xa-hoi-phan-i/.
[11] Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật - những vấn đề cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015, tr. 289.
[12] Ann Seidman, Robert B. Seidman, Nalin Abeyesekere, Soạn thảo luật pháp vì tiến bộ xã hội dân chủ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2003, tr.64.
[13] Ann Seidman, Robert B. Seidman, Nalin Abeyesekere, Xem xét Dự án Luật, Cẩm nang cho các nhà lập pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2004, tr.39.
[14] Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật - những vấn đề cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015, tr. 541.
[15] Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật - những vấn đề cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015, tr. 241.
[16] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Xã hội học pháp luật, Nxb. Tư pháp, năm 2018, tr. 253-255.
[17] Legislature: Meaning, Functions and Types of Legislature. Article shared by KKGhai, //www.yourarticlelibrary.com/constitution/legislature-meaning-functions-and-types-of-legislature/40337.
[18] Legislature: Meaning, Functions and Types of Legislature. Article shared by KKGhai, //www.yourarticlelibrary.com/constitution/legislature-meaning-functions-and-types-of-legislature/40337.
[19] Ann Seidman, Robert B. Seidman, Nalin Abeyesekere, Soạn thảo Luật pháp vì tiến bộ xã hội dân chủ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2003, tr.13.

[Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 10 [434], tháng 5/2021.]

Video liên quan

Chủ Đề