Tại sao nói văn hóa Đông Nam á là một nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng

VĂN HÓA ĐÔNG NAM Á MỘT NỀN VĂN HÓA THỐNG NHẤT TRONG SỰ ĐA DẠNG

- - - ˜ ™ - - -

* Quá trình nhận biết về khu vực văn hóa Đông Nam Á

Khu vực Đông Nam Á từ xưa, trong các sách cổ của Ấn Độ đã được nói đến với những cái tên như Suvarnabhumi [đất vàng] hay Suvarnadvipa [Đảo vàng], người Trung Hoa thì gọi là Nam Dương, tương tự người Nhật Bản củng dùng từ Nan Yo để chỉ Đông Nam Á, tức Nam Dương như Trung Hoa, người Ả Rập gọi là Zabag, còn người Hy Lạp, La mã từ giữa thế kỷ II TCN cũng gọi là Chryse [đất vàng]. Như vậy là từ xa xưa, thế giới đã biết đến khu vực văn hóa Đông Nam Á. Sở dĩ như vậy là vì tầm quan trọng về mặt vị trí địa lý của khu vực Đông Nam Á, vốn đã được chú ý đến từ rất lâu. Đông Nam Á thường được gọi là “ngã tư đường”, “hành lang” hay “cầu nối” giữa thế giới Đông Á với Tây Á và Địa Trung Hải.

Tuy vậy, từ trước thế kỷ XIX Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ như một khu vực địa lí - lịch sử - văn hóa - chính trị riêng biệt. Bởi nó đã bị lu mờ giữa hai nền văn minh phát triển rất rực rở là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ. Nhưng kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II đến nay, khu vực văn hóa Đông Nam Á ngày càng được công nhận rộng rải trong khoa học. Nhưng không chỉ dừng lại ở việc dựng lại các vương triều, các nền văn minh cổ ở đây, mà Đông Nam Á đang từng bước được xem xét như một khu vực lịch sử - văn hóa – kinh tế - chính trị thật sự.

Người ta đã khẳng định được rằng: trước khi tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ thì cư đân Đông Nam Á đã có một nền văn hóa bản địa khá phát triển. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước, một nền văn hóa Đông Sơn phát huy hết sức rực rở mà biểu tượng là những chiếc trống đồng rất nổi tiếng được tìm thấy ở khắp Đông Nam Á. Đông Nam Á cũng là nơi thuần dưởng các loài thú sớm nhất thế giới [trâu, bò, chó].

* Văn hóa Đông Nam Á, một nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng

- Tính thống nhất, tính khu vực của Đông Nam Á trước hết được thể hiện ở chủ thể của văn hóa Đông Nam Á. Ngay từ buổi bình minh của lịch sử _ Đông Nam Á đã là một trong những cái nôi hình thành loài người, đây là địa bàn hình thành của đại chủng phương Nam [Australoid].

Vào khoảng 10.000 năm trước [thời đại đồ đá giữa], có một dòng người thuộc đại chủng Mongoloid từ phía dảy Himalaya thiên di về hướng Đông Nam, tới vùng Đông Nam Á thì dừng lại và hợp chủng với cư dân Melanesien bản địa [thuộc đại chủng Australoid], dẫn đến sự hình thành chủng Indonesien [cổ Mã Lai _ Đông Nam Á tiền sử]. Với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, nhỏ, thấp. Từ đây chủng này lan tỏa, họ có mặt trên toàn bộ Đông Nam Á cổ đại. Đông Nam Á cổ đại được xác định trên một khu vực địa lý rộng lớn. Ngoài 11 nước Đông Nam Á hiện nay thì Đông Nam Á cổ đại được xác định phía Bắc gồm toàn vùng Hoa Nam Trung Quốc [phía Nam sông Dương Tử], đảo Đài Loan, một số lảnh thổ ở Đông Bắc Ấn Độ, quần đảo Andaman và Nicoba trong vịnh Bengal, châu Đại Dương và cả đảo Madagasca ở Đông Nam châu Phi [tổ tiên chính là người Mã Lai di cư sang].

Chính mối liên hệ này đã tạo nên sự thống nhất cao độ của khu vực văn hóa Đông Nam Á. Sự thống nhất do cùng một cội nguồn là một loại hình Indonesien, chính điều đó đã tạo ra bản sắc chung cho văn hóa Đông Nam Á.

- Tính thống nhất về mặt văn hóa của khu vực và tính đa dạng của các tộc người lại làm nên những đặc trưng bản sắc riêng của từng vùng văn hóa được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, bao hàm trong nó rất nhiều thành tố cả về vật chất lẩn tinh thần của văn hóa Đông Nam Á. Đơn nhiên, trong quá trình phát triển, văn hóa Đông Nam Á đã tiếp thu nhều yếu tố mới từ bên ngoài mà tiêu biểu nhất là từ Trung Hoa, Ấn Độ, Ả Rập và phương Tây. Nhờ sự giao lưu này, văn hóa Đông Nam Á đã đạt được những thành tựu mới mẻ trong quá trình phát triển của mình. Sau đây là một số điểm tiêu biểu được thể hiện:

Về ngôn ngữ - chử viết: Sự đa dạng của ngôn ngữ được thể hiện ở chổ các quốc gia Đông Nam Á hiện có tới hàng chục, thậm chí hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Như ở Indonesia có đến 200 ngôn ngữ dân tộc khác nhau cùng tồn tại; ở Philippin củng có tới 80 ngôn ngữ dân tộc khác nhau [1998]. Tương tự, các quốc gia Đông Nam Á khác củng là các quốc gia đa ngôn ngữ. Tuy nhiên, các ngôn ngữ Đông Nam Á đều chỉ thuộc về một trong số 4 ngữ hệ sau đây: Nam Á, Nam Đảo, Thái, Hán – Tạng. Và xa hơn nữa, chúng đều bắt nguồn từ một nguồn gốc chung là ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử. Đó là một sự thống nhất cao độ. Về chữ viết, từ đầu công nguyên, khi cần ghi chép các dân tộc Đông Nam Á đã vay mượn chữ Hán [như ở Việt Nam] và chữ Pali – Sanskrit [ở các nước khác] của Trung Hoa, Ấn Độ để xây dựng chử viết riêng cho dân tộc mình. Tuy nhiên, từ thế kỷ XIII , chử viết Ả Rập đã ảnh hưởng mạnh mẻ đến các quốc gia hải đảo như Malaysia, Indonesia. Từ thế kỷ XVI, với sự can thiệp của các quốc gia phương tây, chử viết của các quốc gia Đông Nam Á được chuyển đổi theo hướng Latinh hóa [chữ viết Brunay, Malaysia, Indonesia, Philippin và Việt Nam] được sử dụng ngày nay.

Về phong tục tập quán: Ở Đông Nam Á có đến hằng trăm dân tộc khác nhau, vì thế phong tục, tập quán rất đa dạng, tạo nên một bức tranh đa sắc. Mặc dù rất đa dạng, song những tập tục ấy vẫn có nét gần gủi, tương đồng nhau, là mẩu số chung quy tụ, giao thoa trên nền tảng của cơ sở văn hóa bản địa Đông Nam Á _ Một nền tảng văn minh nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là cách ăn mặc với một bộ trang phục chung là Sàrông [váy], khố, vòng đeo tai, vòng đeo cổ,… Đó là tục ăn uống với các thức ăn chính là cơm, rau, cá và hoa quả [hiện nay, thịt ngày càng quan trọng trong cuộc sống hiện đại]. Đó là tục ăn hỏi trước khi tổ chức đám cưới linh đình. Tục chôn theo người chết những thứ cần thiết cho cuộc sống mà khi còn sống họ thường ưa thích. Đó là tục nhai trầu, cưa và nhuộm răng đen, xăm mình; rồi đến cả các trò vui chơi giải trí như thả diều, thi chọi gà, bơi thuyền,… Trong cách ăn ở, ngôi nhà chung của các dân tộc Đông Nam Á là nhà sàn “cao cẳng” thích hợp với mọi địa hình của khu vực và phù hợp với khí hậu nóng ẩm của khu vực Đông Nam Á.

Về lể hội: Củng giống như sự đa dạng của phong tục, tập quán. Có thể nói, ở mổi dân tộc mùa nào, tháng nào trong năm củng có lể hội. Nếu thống kê con số lể hội thì chắc chắn sẽ có đến con số hàng trăm. Tất nhiên, trong sự đa dạng ấy, các lể hội ở Đông Nam Á chủ yếu tập trung vào ba hình thức chính: Lễ hội nông nghiệp [Như lễ xuống đồng của người Việt, lễ mở đường cày đầu tiên của người Thái, lễ dựng chòi cày của người Chăm,…], lễ hội tôn giáo [như lễ hội chùa Keo, chùa Hương ở Việt Nam,…], lễ tết [như tết nguyên đán, tết phật,…].

Về tín ngưỡng bản địa: Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cùng sinh ra và lớn lên trong một khu vực địa lí, văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước. Tín ngưỡng bản địa Đông Nam Á dù hết sức đa dạng, nhiều vẽ nhưng vẫn thuộc về ba loại chính: Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên [Các cư dân Đông Nam Á như ở Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanma, Indonesia,… thờ cả hạc, rùa, rắn, voi, cá sấu,…], tín ngưỡng phồn thực [thờ sinh thực khí tượng trưng cho cơ quan sinh dục nam, nữ; các tục tóe nước, tục cầu mưa, tục đánh đu,…], tín ngưỡng thờ cúng người đã mất [tục thờ cúng tổ tiên, ông bà]. Cái chung đó xuất phát từ thuyết vạn vật hữu linh, tức thuyết mọi vật đều có hồn.

Tóm lại, ở mọi thành tố của văn hóa Đông Nam Á, chúng ta đều có thể thấy một sự thống nhất trong muôn hình muôn vẽ sự tồn tại đa dạng của chúng ở các dân tộc Đông Nam Á.

Văn hóa Đông Nam Á ngày nay vừa là sự kế thừa và phát huy vốn văn hóa bản địa truyền thống vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những yếu tố mới từ bên ngoài, cả phương Đông lẩn phương Tây. Trong kho tàng văn hóa đồ sộ của Đông Nam Á có rất nhiều yếu tố chung, làm nên cái “khung” Đông Nam Á, song củng có không ít những yếu tố đặc sắc, riêng biệt tiêu biểu cho mổi quốc gia, mổi dân tộc. Nói cách khác văn hóa Đông Nam Á là nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng.

Có thể khẳng định Đông Nam Á có có một bản sắc văn hóa riêng và ngày càng tiến bộ. Đông Nam Á hiện nay đang phát triển kinh tế, đất nước hết sức nhanh chóng và mạnh mẽ. Mà văn hóa là động lực quan trọng nhất của của sự phát triển một nước, một khu vực. Với bề dày văn hóa mang bản sắc chung, đặc sắc, các quốc gia Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ tiến xa hơn nửa, đạt được nhiều thành tựu mới trong tương lai, Đông Nam Á sẽ trở thành một khu vực hòa bình, ổn định, một khu vực phát triển, thịnh vượng của thế giới.



TÀI LIỆU KHẢO CỨU

1. Văn hóa Đông Nam Á – Mai Ngọc Chừ [1999].
2. Lược sử Đông Nam Á – Phan Ngọc Liên [2002].
3. Văn hóa Đông Nam Á – [khoa sư phạm – bộ môn lịch sử trường Đại học An Giang – 2010].
4. Cơ sơ văn hóa Việt Nam – Trần Ngọc Thêm [1999].
5. Dân tộc học đại cương – Ts. Nguyễn Thành Phương – trường Đại học An Giang.[center][justify][center][center][center]

Admin1
Tổng số bài gửi : 10
Join date : 03/12/2011

LikeDislike

    Tài liệu TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐÔNG NAM Á pptx

    Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [7.7 MB, 156 trang ]


    TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
    KHOA SƯ PHẠM
    BỘ MÔN LỊCH SỬ






    ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

    TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” CỦA
    VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐÔNG NAM Á


    Chủ tịch Hội đồng Ban Chủ nhiệm Khoa Chủ nhiệm đề tài


    Võ Văn Thắng Trần Thể Lê Thị Liên



    Chủ nhiệm đề tài: Ths. LÊ THỊ LIÊN



    Long Xuyên, tháng 6 năm 2010
    MỤC LỤC
    Trang
    Mục lục


    Lời cám ơn
    Lời nói đầu
    Phần tóm tắt
    Danh sách các biểu bảng, hình ảnh minh họa
    Viết tắt
    MỞ ĐẦU 1
    I. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu 1
    II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
    III. Phương pháp nghiên cứu 3
    IV. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
    NỘI DUNG 5
    Chương I
    NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG”
    5
    I. Điều kiện tự nhiên Đông Nam Á 5
    II. Dân tộc và ngôn ngữ Đông Nam Á 8
    III. Nền kinh tế truyền thống Đông Nam Á 12
    IV. Tiến trình lịch sử các quốc gia Đông Nam Á 14
    Chương II
    TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG”
    VỀ VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á
    21
    I. Thức ăn 21
    II. Trang phục 24
    III. Nhà ở 28
    IV. Kiến trúc và điêu khắc 31
    Chương III
    TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG”
    VỀ VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á
    40

    I. Chữ viết 40
    II. Tín ngưỡng bản địa - tôn giáo 42
    III. Lễ hội và phong tục tập quán 51
    IV. Nghệ thuật diễn xướng 63
    KẾT LUẬN 68
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
    PHỤ LỤC 74

    LỜI CÁM ƠN
    ""

    Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành gửi lời cám ơn đến:
    Viện nghiên cứu Đông Nam Á
    Thư viện Quốc Gia
    Thư viện Quân đội
    Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
    Phòng Tư liệu - Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
    Ban Giám Hiệu, phòng Quản lí Khoa học và Hợp tác Quốc tế, Thư viện và Hội
    đồng Khoa học Trường Đại học An Giang.
    Xin chân thành gửi lời cám ơn đến quý Thầy Cô, quý đồng nghiệp trường Đại học
    An Giang, đặc biệt xin chân thành cám ơn PGS.TS. Ngô Văn Doanh - Viện nghiên cứu
    Đông Nam Á, đã động viên và hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài này trong thời gian vừa
    qua.
    Do điều kiện thời gian và trình độ còn nhiều hạn chế, cho nên, đề tài của tôi không
    thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của quý
    Thầy Cô và quý đồng nghiệp, để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
    Xin chân thành cám ơn!
    Long Xuyên, tháng 6 năm 2010
    Chủ nhiệm đề tài



    Lê Thị Liên
    LỜI NÓI ĐẦU
    Ngày nay, khi các dân tộc, các quốc gia ở Đông Nam Á đã vượt qua thời kì đối
    đầu để bước vào thời đại mới, thời đại chung sống hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Khi
    mà những cuộc tiếp xúc và giao lưu ngày càng diễn ra mạnh mẽ, thì mỗi chúng ta, ai
    cũng dễ dàng nhận thấy trong vốn kiến thức của người Việt và các dân tộc Đông Nam Á
    khác thiếu hẳn sự hiểu biết về khu vực, về những người bạn láng giềng của mình.
    Trong khi đó, các quốc gia dân tộc đều sinh ra và lớn lên trong khu vực Đông
    Nam Á, có chung một cội nguồn văn hóa - tộc người, có chung một tiến trình lịch sử,
    ngày nay đang cùng nhau xây dựng một ASEAN hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát
    triển trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa. Tất cả mọi hoạt động giao lưu văn hóa
    hiện nay đều nhằm mục đích tăng cường sự hiểu biết, giới thiệu về nền văn hóa của
    nhau không chỉ ở khu vực mà ra cả thế giới bên ngoài, để thúc đẩy tình hữu nghị, đoàn
    kết, và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình, đồng thời tiếp thu, học tập các giá trị
    văn hóa của nước bạn.
    Đông Nam Á xưa kia được biết đến như “là một khu vực thần bí, nơi sản xuất
    hương liệu, gia vị và những sản phẩm kỳ lạ khác” [Donald G. Mc. Cloud, 1986] và cho
    đến tận cuối thế kỷ XIX, Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ như
    một khu vực địa lý - lịch sử - văn hóa - chính trị riêng biệt. Cách nhận thức mới về tính
    khu vực của Đông Nam Á thực sự xuất hiện từ chiến tranh thế giới thứ hai, khi thực dân
    Anh lập ra Bộ chỉ huy quân sự Đông Nam Á, để phân biệt với Đông Á và Nam Á. Tuy
    nhiên, Đông Nam Á không phải chỉ là một khu vực chính trị thuần túy mà từ xa xưa,
    Đông Nam Á đã là một khu vực văn hóa thống nhất - điều này đã được nhiều học giả,
    kể cả các học giả Âu, Mĩ, khẳng định. Người ta đã khẳng định được rằng trước khi tiếp
    xúc với văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ, cư dân Đông Nam Á đã có một nền văn hóa bản
    địa phát triển, đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước, với nền văn hóa Đông Sơn mà
    biểu tượng rực rỡ nhất là chiếc trống đồng, được tìm thấy khắp ở các nước Đông Nam
    Á. Như vậy, có thể nói, Đông Nam Á đã là một khu vực lịch sử - văn hóa trước khi trở
    thành khu vực địa lý - chính trị.

    Ngày nay, văn hóa Đông Nam Á, vừa là sự kế thừa và phát huy vốn văn hóa bản
    địa truyền thống, vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những yếu tố mới từ bên ngoài, cả
    phương Đông lẫn phương Tây. Trong kho tàng văn hóa đồ sộ Đông Nam Á có rất nhiều
    yếu tố chung, làm nên cái gọi là “khung” Đông Nam Á, song, cũng có không ít những
    yếu tố đặc sắc, riêng biệt độc đáo tiêu biểu cho mỗi quốc gia, dân tộc. Hay nói cách
    khác, văn hóa Đông Nam Á là nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng”, theo cách nói
    của người Inđônêxia. Cụm từ này bắt nguồn từ câu nói của nhà thơ Mpu Tantular ở
    Inđônêxia “Bhineka Tungga Ika” [nghĩa là “thống nhất trong đa dạng”], và ngày nay,
    câu nói này đã trở thành thuật ngữ phổ biến khi nói về văn hóa Đông Nam Á.
    Có lẽ, trên thế giới, hiếm có khu vực nào vừa mang tính đa dạng mà cũng vừa
    mang tính thống nhất như ở khu vực Đông Nam Á. Sự đa dạng và thống nhất ấy được
    biểu hiện trên nhiều mặt, từ cơ sở nền tảng tạo thành cho đến đời sống sinh hoạt vật chất
    lẫn tinh thần của cư dân Đông Nam Á.
    Ở đây, đề tài không trình bày theo hệ thống tiến trình phát triển của lịch sử văn
    hóa Đông Nam Á từ cổ chí kim, mà đề cập đến những thành tố cấu thành nên nền văn
    hóa truyền thống Đông Nam Á đó. Trong đề tài này, được chia thành ba chương:
    Chương I: Những yếu tố tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng”
    Chương II: “Thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân
    Đông Nam Á
    Chương III: “Thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư
    dân Đông Nam Á
    Trong mỗi chương, đều có phần chú thích và hình ảnh minh hoạ cụ thể để làm rõ
    nội dung đã được trình bày. Hy vọng rằng, đề tài này sẽ giúp bạn đọc có cái nhìn “tổng
    thể về văn hóa Đông Nam Á”, một thực tế của nền văn hóa tương đồng và đa sắc thái,
    mà chúng tôi dùng ý tưởng “thống nhất trong đa dạng” để đề cập đến. Bên cạnh đó,
    chúng ta sẽ hiểu biết thêm về những người bạn láng giềng của mình, đã kết “thành hội
    thành thuyền” trong quá trình phát triển, vươn lên theo xu thế khu vực và hội nhập thế
    giới.
    Tóm lại, văn hóa là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn, mà năng lực của người
    viết lại có hạn, dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn cũng không tránh khỏi những

    sai sót. Kính mong quý Thầy Cô và quý đồng nghiệp lượng thứ cho những sai sót và rất
    mong đón nhận được nhiều ý kiến chỉ dẫn thêm.
    PHẦN TÓM TẮT
    Tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á, đề cập
    đến nét chung và riêng của văn hóa Đông Nam Á, và cũng là một nét văn hóa đặc sắc,
    tiêu biểu cho khu vực, đó là tương đồng và đa sắc thái, được thể hiện trên nhiều lĩnh
    vực. Với vị trí địa lý thuận lợi, Đông Nam Á trở thành cửa ngõ giao lưu qua lại giữa
    những nền văn minh lớn, nơi giao thương giữa các quốc gia, châu lục, là điều kiện thuận
    lợi để cho các nước trong khu vực tiếp cận với thế giới bên ngoài. Bên cạnh đó, với khí
    hậu nhiệt đới châu Á gió mùa, Đông Nam Á sớm có điều kiện phát triển nghề nông
    trồng lúa và đã trở thành một nền kinh tế chính của khu vực. Đông Nam Á vốn có
    chung cội nguồn về tộc người - từ một loại chủng Môngôlôit phương Nam [tiểu chủng
    Đông Nam Á], sau quá trình tiếp cận và giao lưu đã tạo cho Đông Nam Á một khu vực
    đa sắc tộc, đa ngôn ngữ. Các nhà nước, quốc gia Đông Nam Á từ khi ra đời cho đến
    nay, có sự thay đổi lớn về ranh giới, địa phận ở mỗi quốc gia, tuy ở những phương diện
    khác nhau nhưng tất cả các nước đều có chung hoàn cảnh lịch sử nên dễ dàng thông
    cảm cho nhau trong quá trình phát triển, vươn lên và hội nhập.
    Với nền tảng như thế, cho nên đã hình thành trong nếp sống của cư dân Đông
    Nam Á những phương thức sinh hoạt từ thức ăn, trang phục, nhà ở đến các công trình
    kiến trúc và điêu khắc đồ sộ, đều có những nét chung với nhau, dựa trên nền tảng của cơ
    tầng văn hóa bản địa, của cư dân nông nghiệp lúa nước, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng
    rất lớn từ nền văn hóa lớn của hai quốc gia láng giềng là Ấn Độ và Trung Hoa. Từ xa
    xưa, đời sống tâm linh của cư dân Đông Nam Á, đã được quan tâm đến bằng những tín
    ngưỡng bản địa đặc sắc, bên cạnh đó, với sự du nhập của các tôn giáo từ bên ngoài vào,
    đã được người dân ở đây tiếp nhận và hòa trộn với nền văn hóa bản địa, đáp ứng được
    nhu cầu và nguyện vọng của họ. Là cư dân nông nghiệp lúa nước, cho nên, các dân tộc
    Đông Nam Á có các lễ hội và phong tục tập quán vừa mang bản sắc riêng đa sắc màu,
    vừa mang dáng dấp chung của nền nông nghiệp trồng lúa nước. Các hoạt động này vừa
    giúp cho cư dân thoả mãn những nhu cầu về đời sống tâm linh, vừa kèm theo các hình
    thức vui chơi, giải trí, nhằm tạo một không khí đoàn kết và thân thiện lẫn nhau giữa các

    con người trong một cộng đồng chung, làng xóm nói riêng, cả khu vực nói chung. Một
    hình thức giải trí khác cũng không kém phần hấp dẫn đối với cư dân Đông Nam Á, đó
    là nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống, và do các nước có sự tiếp cận, giao lưu
    và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cho nên nền nghệ thuật truyền thống của mỗi nước
    vừa có nét tương đồng về nội dung lẫn phương pháp vừa có sự đa dạng về hình thức
    biểu diễn.
    Nhìn chung, văn hóa truyền thống Đông Nam Á, dựa trên nền tảng của nên nông
    nghiệp lúa nước, đã tạo ra cho cư dân ở đây một đời sống sinh hoạt cả vật chất lẫn tinh
    thần đều vô cùng độc đáo, vừa mang tính thống nhất vừa mang tính đa dạng, một sắc
    thái rất riêng Đông Nam Á.
    DANH SÁCH CÁC BIỂU BẢNG, HÌNH ẢNH MINH HỌA

    Danh sách biểu bảng:
    Biểu bảng 1: Tộc người chủ thể và tỷ lệ đạt được so với tổng dân số trong nước
    ở các nước Đông Nam Á
    Biểu bảng 2: Tình hình tôn giáo ở các nước trong khu vực Đông Nam Á
    Danh sách hình ảnh minh họa:
    Hình 1: Bản đồ các quốc gia Đông Nam Á
    Hình 2: Bản đồ vương quốc Hồi giáo Brunây
    Hình 3: Bản đồ vương quốc Cămpuchia
    Hình 4: Bản đồ Cộng hòa Dân chủ Đông Timo
    Hình 5: Bản đồ Cộng hòa Inđônêxia
    Hình 6: Bản đồ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
    Hình 7: Bản đồ Liên bang Malaixia
    Hình 8: Bản đồ Liên bang Mianma
    Hình 9: Bản đồ Cộng hòa Philippin
    Hình 10: Bản đồ Cộng hòa Xingapo
    Hình 11: Bản đồ vương quốc Thái Lan
    Hình 12: Bản đồ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
    Hình 13: Núi lửa ở Philippin

    Hình 14: Ruộng bậc thang ở Sapa - Việt Nam
    Hình 15: Đoạn sông Mê Kông từ Cămpuchia chảy về Việt Nam
    Hình 16: Cánh đồng lúa chín ở Việt Nam
    Hình 17: Bờ biển của đất nước Đông Timo
    Hình 18: Bữa cơm truyền thống của gia đình người Việt [cơm - rau - cá]
    Hình 19: Cơm lam của người Lào và một số dân tộc ở Việt Nam
    Hình 20: Nasi goreng [cơm rang] của tộc người Melayu
    Hình 21: Nasi ulam [cơm rau sống] của tộc người Melayu
    Hình 22: Mắm bò hóc của người Campuchia
    Hình 23: Solok Cili [ớt xanh nhồi cá băm nhuyễn hấp] của người Mã Lai
    Hình 24: Bánh Ketupat trong lễ hội - lễ tết của người Mã Lai
    Hình 25: Bánh chưng, bánh tét trong ngày Tết của dân tộc Việt và một số dân
    tộc Đông Nam Á khác
    Hình 26: Nam cởi trần đóng khố
    Hình 27: Trang phục ngày Tết của phụ nữ H’mông
    Hình 28: Chiếc áo yếm của nhiều dân tộc Đông Nam Á
    Hình 29: Trang phục truyền thống của người Mianma
    Hình 30: Trang phục truyền thống của người Việt Nam
    Hình 31: Nhà sàn người Thái
    Hình 32: Nhà dài của người Ê Đê
    Hình 33: Nhà hình thuyền
    Hình 34: Nhà đất
    Hình 35: Nhà hiện đại
    Hình 36: Thánh địa Mỹ Sơn ở Việt Nam
    Hình 37: Ngôi đền Bôrôbuđua ở Inđônêxia
    Hình 38: Đền Ăngco Vát ở Cămpuchia
    Hình 39: Đền Bayon của Angkor Thom ở Cămpuchia
    Hình 40: Chùa tháp ở Pagan - Mianma
    Hình 41: Cung điện Hoàng gia ở Băng Cốc - Thái Lan
    Hình 42: Thạt Luổng ở Viên Chăn - Lào

    Hình 43: Pho tượng Phật bằng đồng ở Đồng Dương [Quảng Nam - Việt Nam]
    Hình 44: Bức phù điêu về Đức Phật của ngôi đền Bôrôbuđua ở Inđônêxia
    Hình 45: Nụ cười đền Bayon ở Ăngco Thom - Cămpuchia
    Hình 46: Vũ nữ Apsara ở đền Ăngco Vát
    Hình 47: Bức phù điêu ở đền Sukhôthay - cố đô Thái
    Hình 48: Những chạm khắc hình lá bao quanh Thạt Luổng ở Lào
    Hình 49: Tượng phật bằng vàng tại chùa Mahamuni
    Hình 50: Một trong 18 vị La Hán chùa Tây Phương - Hà Nội
    Hình 51: Bia Võ Cạnh [Khánh Hòa] xác định chữ Sanskrit và Pali vào Chăm Pa
    sớm nhất
    Hình 52: Chữ Khơ Me [Sanskrit] được ghi ở đền Ăngco Vát của Cămpuchia
    Hình 53: Bộ sách chữ Thái cổ
    Hình 54: Di sản chữ Nôm [tiếp thu từ chữ Hán] của người Việt
    Hình 55: Tục thờ sinh thực khí “nõ - nường” ở Phú Thọ - Việt Nam
    Hình 56: Tín ngưỡng phồn thực được thể hiện trên những bức tượng điêu khắc
    Hình 57: Tín ngưỡng phồn thực thể hiện ở Nhà mồ Tây Nguyên
    Hình 58: Tượng thờ Linga và Yoni ở Mỹ Sơn - Việt Nam
    Hình 59: Bàn thờ tổ tiên trong gia đình người Việt
    Hình 60: Ấn Độ giáo thời ba vị thần Brama, Visnu và Siva
    Hình 61: Tượng của Đức Phật được rắn thần Naga bảo vệ
    Hình 62: Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Trần Chiến Thắng cũng
    tham gia những đường cày đầu tiên trong Lễ hội xuống đồng ở Lào Cai -
    Việt Nam
    Hình 63: Lễ hội Té nước ở Thái Lan, Cămpuchia
    Hình 64: Lễ hội Loi Krathồng [thả đèn trong một cái chén lá] ở Thái Lan
    Hình 65: Hội đền Hai bà Trưng
    Hình 66: Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây của người Khơ Me
    Hình 67: Tết cổ truyền người Lào
    Hình 68: Hát quan họ trên thuyền quanh giếng Ngọc - Cổ Loa
    Hình 69: Chơi đu - trò chơi dân gian không thể thiếu được trong ngày hội

    Hình 70: Cô gái duyên dáng trong thi thổi cơm
    Hình 71: Tục cướp dâu của dân tộc H’mông ở Việt Nam
    Hình 72: Đêm chợ tình ở Sa Pa - Lào Cai [Việt Nam]
    Hình 73: Lễ cưới truyền thống ở Việt Nam
    Hình 74: Trầu để nhai
    Hình 75: Trầu cau trong ngày cưới
    Hình 76: Đua thuyền rồng tại Băng Cốc - Thái Lan
    Hình 77: Chọi gà ở một làng quê Việt Nam
    Hình 78: Thi thả diều quốc tế ở Việt Nam
    Hình 79: Bịt mắt bắt dê
    Hình 80: Kéo co
    Hình 81: Ô lò cò
    Hình 82: Rối bóng ở Malaixia - Xingapo
    Hình 83: Rối nước
    Hình 84: Wayang Topeng [múa mặt nạ] ở Giava - Inđônêxia
    Hình 85: Wayang Wong [múa mặt nạ] ở Bali - Inđônêxia
    Hình 86: Múa Lakhon của người Thái
    Hình 87: Sân khấu Mayong ở Malaixia
    Hình 88: Lakhon Basac của người Cămpuchia
    Hình 89: Hát Dù kê của người Khơ Me Nam Bộ Việt Nam
    Hình 90: Cờ ASEAN
    Hình 91: Ban lãnh đạo các nước ASEAN
    Hình 92: Cờ biểu trưng ASEAN 2010
    Hình 93: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bắt tay thân mật với Quốc vương Brunây
    Haji Hassanal Bolkiah
    Hình 94: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Cămpuchia Hun Sen
    duyệt đội danh dự Quân đội Nhân dân Việt Nam
    Hình 95: Tổng thống Inđônêxia Susilo Bambang Yudhoyono tiếp Thủ tướng
    Nguyễn Tấn Dũng
    Hình 96: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Tổng bí thư, Chủ tịch nước Cộng

    hòa Dân chủ Nhân dân Lào Chummaly Sayason
    Hình 97: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Malaixia Abdul Razak
    Hình 98: Chủ tịch hội đồng quốc gia Mianma Than Shwe tiếp Thủ tướng
    Nguyễn Tấn Dũng
    Hình 99: Tổng thống Philippines Gloria Arroyo tiếp Thủ tướng Nguyễn Tấn
    Dũng
    Hình 100: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Thái Lan Abhisit
    Vejjajiva
    Hình 101: Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long đón Chủ tịch nước Nguyễn Minh
    Triết
    Hình 102: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đón tiếp Bộ trưởng Công thương và Du
    lịch Đông Ti-mo Gil da Costa AN. Alves
    Hình 103: Đông Nam Á không còn là một vùng bị chia rẽ mà sẽ gắn kết trong tổ
    chức ASEAN hội nhập vào quốc tế
    Hình 104: Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC 2006
    Hình 105: Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy nâng cốc chúc mừng vị thế thành
    viên thứ 150 của Việt Nam
    VIẾT TẮT
    Viết tắt theo tiếng Anh:
    APEC: Asia Pacific Economic Cooperation
    Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
    ASEAN: Association of Southeast Asian Nations
    Hiệp hội các nước Đông Nam Á
    ASEM: The Asia Europe Meeting
    Diễn đàn hợp tác Á - Âu
    SEAMEO: Southeast Asian Ministers of Education Organization
    Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á
    WTO: World Trade Organization
    Tổ chức Thương mại Thế giới
    Viết tắt theo tiếng Việt:

    CN: Công Nguyên
    CNXHKH: Chủ nghĩa Xã hội Khoa học
    KHXH Khoa học Xã hội
    KHXH & NVQG: Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia
    NXB: Nhà xuất bản
    TC: Tạp chí
    T.CN: Trước Công Nguyên
    Sđd: Sách đã dẫn
    MỞ ĐẦU
    I. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
    1. Mục tiêu
    Đề tài tập trung khai thác những yếu tố tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng”
    của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Trong đó, đề tài sẽ làm rõ những yếu tố như
    điều kiện tự nhiên; dân tộc và ngôn ngữ; nền kinh tế truyền thống và tiến trình phát triển
    lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á. Từ đó, đi đến khẳng định, đây là cơ sở tạo nên
    tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á.
    Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa
    dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á qua các mặt: thức ăn, trang
    phục, nhà ở, kiến trúc và điêu khắc. Qua đó, đề tài đi đến khẳng định: đời sống văn hóa
    vật chất của cư dân Đông Nam Á rất đa dạng, tuy nhiên trong nền văn hóa đó đều thể
    hiện những nét tương đồng, thống nhất trong chiều sâu cuộc sống của họ.
    Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa
    dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Đông Nam Á qua các mặt: chữ viết, tín
    ngưỡng - tôn giáo, lễ hội và phong tục tập quán và nghệ thuật biểu diễn sân khấu. Từ
    đó, đề tài sẽ rút ra những điểm tương đồng và khác biệt về đời sống văn hóa tinh thần -
    nét đặc trưng nổi bật trong đời sống văn hóa truyền thống ở các quốc gia Đông Nam Á.
    2. Nội dung nghiên cứu
    Đề tài nghiên cứu gồm ba phần:
    Phần 1: đề tài sẽ tập trung nghiên cứu khai thác những khía cạnh để tạo nên tính
    “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á.

    Trước tiên, đề tài sẽ đi vào xem xét về điều kiện tự nhiên, như các mặt: vị trí địa
    lý, địa hình, khí hậu và động, thực vật ở Đông Nam Á. Bên cạnh đó, yếu tố dân tộc và
    ngôn ngữ cũng là những điều kiện cần thiết tạo nên tính đặc trưng của nền văn hóa này.
    Xuất phát từ một nguồn nhân chủng Môngôlôit phương Nam, qua quá trình giao lưu và
    lan tỏa, đã hình thành nên những tộc người khác nhau ở Đông Nam Á. Đồng thời, có
    chung một nguồn gốc ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử, dần dần cũng hình thành nên
    những ngữ hệ khác nhau trong khu vực. Nền kinh tế truyền thống cũng là yếu tố cực kỳ
    quan trọng tạo nên đặc trưng văn hóa khu vực, đặc biệt là nghề nông trồng lúa. Sau
    cùng, sự tương đồng trong tiến trình lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á cũng là một
    trong những nhân tố quan trọng góp phần làm nên tính tương đồng trong văn hóa truyền
    thống Đông Nam Á.
    Phần 2: đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất
    trong đa dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á: thức ăn, trang
    phục, nhà ở, kiến trúc và điêu khắc.
    Trong bữa ăn truyền thống của cư dân Đông Nam Á chủ yếu là ăn cơm, rau, cá
    hay thịt. Từ gạo, cư dân Đông Nam Á đã chế biến ra nhiều loại thức ăn khác hay các
    loại bánh để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày và lễ hội. Còn về trang phục
    truyền thống của cư dân Đông Nam Á là nam đóng khố, nữ mặc váy, cởi trần, dần về
    sau y phục có sự thay đổi cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng: yếm, áo chui,
    quần, váy… Tùy mỗi quốc gia, dân tộc mà trang phục truyền thống của họ hoặc thêm
    vào hay bớt đi, tạo nên bức tranh muôn màu trong trang phục cư dân Đông Nam Á. Về
    nhà ở, kiểu nhà sàn là kiểu nhà truyền thống, đồng thời, nhà hình thuyền, nhà đất, nhà
    1
    Phần 3: đề tài tập trung khai thác những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa
    dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Đông Nam Á: chữ viết, tín ngưỡng - tôn
    giáo, lễ hội và phong tục tập quán, nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống.
    Về chữ viết Đông Nam Á chịu ảnh hưởng sâu sắc của chữ Ấn Độ [chữ Sanskrit
    và Pali], Trung Quốc [chữ Hán], dần dần họ tạo ra nhiều kiểu chữ viết riêng cho dân tộc
    mình, và chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, các loại chữ Latinh đã ra đời ở các
    quốc gia Đông Nam Á. Về hệ thống tín ngưỡng, xuất phát từ một nền nông nghiệp lúa

    nước, cư dân các nước Đông Nam Á có những tín ngưỡng tương tự nhau: sùng bái tự
    nhiên, phồn thực, thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh đó, các tôn giáo từ bên ngoài: Phật giáo,
    Hồi giáo, Thiên Chúa giáo được truyền bá vào Đông Nam Á, và được cư dân Đông
    Nam Á tiếp nhận và biến tấu cho phù hợp với tín ngưỡng bản địa. Với các lễ hội: nông
    nghiệp, tôn giáo, lễ Tết là những lễ hội truyền thống gắn liền với nền nông nghiệp lúa
    nước của các quốc gia Đông Nam Á. Còn về phong tục tập quán: cưới xin, tang ma,
    nhai trầu, hay các trò chơi dân gian: thả diều, bơi thuyền, chọi gà… cũng được cư dân
    Đông Nam Á bảo lưu và phát huy các giá trị vốn có của nó. Loại hình nghệ thuật sân
    khấu truyền thống: rối bóng, rối nước, kịch múa, kịch hát… cũng được giữ gìn và bảo
    tồn nét văn hóa đặc sắc của cư dân vùng Đông Nam Á.
    II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    1. Đối tượng
    Đề tài nghiên cứu tính “thống nhất trong đa dạng” về các mặt trong đời sống vật
    chất như ăn, mặc, ở, kiến trúc và điêu khắc, đồng thời về các mặt trong đời sống tinh
    thần như chữ viết, tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội - phong tục tập quán, nghệ thuật sân
    khấu biểu diễn của các quốc gia Đông Nam Á. Bên cạnh đó, đề tài còn nghiên cứu các
    tiền đề quan trọng tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của nền văn hóa truyền thống
    Đông Nam Á: điều kiện tự nhiên, dân tộc và ngôn ngữ, nền kinh tế truyền thống và tiến
    trình phát triển lịch sử của mỗi nước trong khu vực.
    2. Phạm vi nghiên cứu
    Đề tài tập trung nghiên cứu về nền văn hóa truyền thống ở các quốc gia trong
    khu vực Đông Nam Á, biểu hiện trên lĩnh vực văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần: từ
    ăn, mặc, ở, kiến trúc và điêu khắc đến chữ viết, tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội và phong
    tục tập quán, nghệ thuật diễn xướng từ khi có mặt ở các quốc gia Đông Nam Á cổ đại và
    còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên, đề tài không tập trung nghiên cứu sự phát
    triển của các mặt trong đời sống văn hóa vật chất lẫn tinh thần theo tiến trình phát triển
    của lịch sử, mà ở đây, khái quát những đặc điểm nổi bật của các thành tố cấu thành nên
    nền văn hóa đó và rút ra những điểm tương đồng lẫn khác biệt để giải quyết vấn đề đã
    đặt ra trong đề tài. Đề tài tập trung nghiên cứu các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á
    [Cămpuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, Mianma, Malaixia, Inđônêxia, Philippin,

    Xingapo, Brunây, Đông Timo]. Tuy nhiên, ở các quốc gia Đông Nam Á này, có những
    quốc gia mới giành tự chủ sau này như Xingapo, Brunây, hay Đông Timo mới tách khỏi
    Inđônêxia [năm 2002]. Do vậy, văn hóa của các nước này thường được nhắc đến và hòa
    chung vào văn hóa tộc người Mã Lai hay văn hóa Inđônêxia, cho nên, khi tiếp xúc với
    đề tài, thường thấy vắng bóng các quốc gia trên là lẽ tất nhiên.
    2
    III. Phương pháp nghiên cứu
    Dựa vào phương pháp luận sử học theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
    tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và
    phương pháp lôgíc.
    Trên cơ sở tìm hiểu thực tế các mô hình về văn hóa Đông Nam Á như ở Viện
    bảo tàng Dân tộc học, cùng với việc tiếp cận và theo dõi những thông tin, tư liệu trên
    internet, truyền hình…
    Sử dụng những phương pháp chuyên ngành Lịch sử: thu thập, xử lí tư liệu, tổng
    hợp, thống kê, chọn lọc, phân tích, so sánh, đối chiếu… để làm thỏa đáng vấn đề đã đặt
    ra trong đề tài.
    IV. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
    Tình hình nghiên cứu trong nước
    Trong nhiều năm trở lại đây, văn hóa Đông Nam Á đã được nhiều học giả quan
    tâm nghiên cứu, tuy nhiên đến nay, vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên
    cứu về tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Hiện
    nay, vấn đề về tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á
    được một số tác giả đề cập trên một số công trình cụ thể:
    Tác giả Phan Hữu Dật [chủ biên] với quyển “Văn hóa lễ hội của các dân tộc
    Đông Nam Á”, năm 1992, với phần đầu của tác phẩm có đề cập đến, Đông Nam Á:
    thống nhất trong đa dạng, sau đó, giới thiệu chi tiết những lễ hội truyền thống của các
    quốc gia: Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Mianma, Malaixia, Xingapo, Philippin,
    Inđônêxia.
    Quyển “Phong tục các dân tộc Đông Nam Á” do Ngô Văn Doanh và Vũ Quang
    Thiện [chủ biên], năm 1997, giới thiệu các phong tục như ăn, ở, mặc, hôn nhân, tín

    ngưỡng ở một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
    Bài viết “Những suy nghĩ về tính thống nhất của văn hóa Đông Nam Á” của
    Phan Ngọc trong quyển “Việt Nam - Đông Nam Á: Quan hệ Lịch sử và văn hóa”, của
    Viện Đông Nam Á, năm 1998, tác giả có đề cập một cách khái quát về tính thống nhất
    của một số thành tố văn hóa của cư dân Đông Nam Á.
    Quyển “Văn hóa Đông Nam Á” của Mai Ngọc Chừ, năm 1999, đã trình bày một
    cách hệ thống một số thành tố của văn hóa Đông Nam Á như: ăn uống, các trò giải trí,
    nghệ thuật tạo hình, hơn nữa, tác phẩm còn đề cập đến các giai đoạn phát triển và những
    thành tựu lớn của văn hóa truyền thống Đông Nam Á.
    Quyển: “Nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á” của Nguyễn Phan Thọ, năm
    1999, đây là một tài liệu chuyên khảo về nghệ thuật truyền thống của các nước trong
    khu vực Đông Nam Á. Trong quyển sách này, tác giả trình bày đến quá trình hình thành
    và phát triển của các loại hình nghệ thuật truyền thống cũng như những nền tảng tạo nên
    sự đồng nhất trong đa dạng của nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á.
    Quyển “Những tương đồng giữa các lễ hội cổ truyền Đông Nam Á” của Trần
    Bình Minh, năm 2000, đã đề cập đến những lễ hội lớn trong khu vực Đông Nam Á.
    Trong quyển sách này, tác giả đã tập trung so sánh những nét tương đồng trong lễ hội cổ
    truyền của người Việt ở đồng bằng và trung du Bắc bộ [Việt Nam] với một số quốc gia
    trong khu vực.
    3
    Hai tác giả Phạm Đức Dương và Trần Thị Thu Lương, với quyển “Văn hóa
    Đông Nam Á”, năm 2001, khái quát về tình hình nghiên cứu Đông Nam Á, nền văn hóa
    bản địa của cư dân nông nghiệp; sự hình thành các nền văn hóa quốc gia dân tộc trong
    quá trình tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc và văn hóa phương Tây; cùng với
    văn hóa Đông Nam Á trong thời kỳ lịch sử hiện đại.
    Bài viết “Văn hóa truyền thống Đông Nam Á” trong quyển “Lịch sử văn hóa thế
    giới cổ trung đại” do Lương Ninh chủ biên, năm 2003, bài viết khái quát lịch sử cổ -
    trung đại Đông Nam Á, đồng thời, nêu lên một số đặc điểm về văn hóa Đông Nam Á
    như tôn giáo, lễ hội, chữ viết, văn học, kiến trúc và điêu khắc.
    Quyển “Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam bộ và Đông Nam Á” của tác

    giả Ngô Văn Lệ, năm 2003, trong tác phẩm giới thiệu sơ nét về tính “thống nhất trong
    đa dạng” của Đông Nam Á nhìn từ khía cạnh trang phục, tổ chức gia đình, công xã.
    Quyển “Văn hóa Đông Nam Á” của Nguyễn Tấn Đắc, năm 2003, giới thiệu về
    khu vực văn hóa Đông Nam Á, các nhóm chủng tộc và ngôn ngữ, tiếp đến là những nền
    tảng cơ bản của văn hóa khu vực là nông nghiệp và thương nghiệp. Ngoài ra, tác giả còn
    đề cập đến văn hóa hiện nay ở một số nước thông qua hệ ý thức và bảng giá trị của các
    nước Đông Nam Á, cuối cùng, tác giả tổng hợp Đông Nam Á và văn hóa Đông Nam Á,
    quá trình nhận thức khu vực Đông Nam Á.
    Đề tài cấp Bộ: “Cộng đồng Melayu một số vấn đề văn hóa” do Mai Ngọc Chừ
    chủ nhiệm, năm 2004, giới thiệu về văn hóa phục vụ đời sống như ăn, ở, mặc; tôn giáo -
    tín ngưỡng; một số phong tục tập quán và ngôn ngữ; nghệ thuật của cộng đồng Melayu.
    Đinh Trung Kiên với quyển “Tìm hiểu nền văn minh Đông Nam Á”, năm 2007,
    tác giả giới thiệu về sự ra đời, phát triển và những thành tựu rực rỡ của nền văn minh
    Đông Nam Á, tiêu biểu là tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội, phong tục tập quán, kiến trúc, hội
    họa, điêu khắc.
    Quyển “Tri thức Đông Nam Á” của hai tác giả Lương Ninh và Vũ Dương Ninh
    [chủ biên], năm 2008, giới thiệu về Đông Nam Á đại cương: địa lý, lịch sử, văn hóa và
    các nước Đông Nam Á cụ thể, trong đó quyển sách cung cấp cho người đọc những kiến
    thức cơ bản về các quốc gia Đông Nam Á từ cổ đại cho đến đương đại.
    Tình hình nghiên cứu ngoài nước
    Unity in Diversity Regional Identity Building in Southeast Asia [Thống nhất
    trong đa dạng: xây dựng bản sắc khu vực Đông Nam Á] do Kristina Jonsson là một viên
    nghiên cứu của Trung tâm Đông và Đông Nam châu Á học, năm 2008, tại Đại học
    Lund, Thụy Điển. Nội dung của bài viết là vấn đề khu vực và xây dựng bản sắc văn hóa
    Đông Nam Á, khu vực Đông Nam Á trong sự thống nhất.
    Diversity and Unity in Southeast Asia [Sự đa dạng và thống nhất ở Đông Nam
    Á], do Jan o. M. Broekp, Đại học California, Berkeley. Nội dung chứng minh được thời
    kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Đông Nam châu Á vào nửa đầu của năm 1940. Vào đầu
    thập kỷ này, vùng đất giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Úc, với ngoại lệ của nhà nước Thái
    Lan đệm, đều dưới sự kiểm soát trực tiếp của các nước phương Tây.

    Qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trên cho thấy, chưa có công trình
    nào nghiên cứu đi vào một cách có hệ thống về tính “thống nhất trong đa dạng” của văn
    hóa truyền thống Đông Nam Á. Dựa trên thành quả nghiên cứu của người đi trước, tác
    giả sẽ hệ thống một cách khái quát về các thành tố cấu thành nên nền văn hóa trên.
    4
    NỘI DUNG
    Chương I
    NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG”
    I. Điều kiện tự nhiên Đông Nam Á
    Con người sinh ra và lớn lên trong tự nhiên, được tự nhiên nuôi dưỡng cho nên
    con người luôn luôn gắn bó với tự nhiên. Chính vì thế, “mối quan hệ giữa con người và
    tự nhiên cũng là một mặt cơ bản của đời sống văn hóa” [Trần Quốc Vượng, 1997: 17].
    Có thể nói, theo cách nói của Mai Ngọc Chừ: “điều kiện tự nhiên, môi trường tự nhiên
    của một khu vực chắc chắn có một ảnh hưởng nhất định đến đời sống văn hóa của con
    người trong khu vực đó” [Mai Ngọc Chừ, 1999: 15]. Chính vì vậy, trước khi đi vào các
    mặt của đời sống văn hóa, chúng ta lại bắt đầu từ điều kiện tự nhiên của khu vực.
    1. Vị trí địa lý
    Trên bản đồ thế giới, Đông Nam Á nằm trong một phạm vi khá rộng phía đông
    nam lục địa Á - Âu.
    Xét về mặt địa lý tự nhiên, diện tích Đông Nam Á khoảng 4,5 triệu km
    2
    , trải ra
    trên một không gian khá rộng [bao gồm cả biển và đất liền], nằm trong cùng một phạm
    vi khoảng từ 92
    0
    đến 140
    0
    kinh Đông, và khoảng từ 28
    0
    vĩ Bắc chạy qua xích đạo đến

    15
    0
    vĩ Nam, như một “ngã tư đường” của các châu lục lớn. Khu vực này gồm hai bộ
    phận: bán đảo Trung - Ấn và quần đảo Mã Lai, là một quần thể gồm: các đảo, bán đảo,
    quần đảo và các vịnh trong vùng biển xen kẻ với nhau rất phức tạp chạy dài suốt từ Thái
    Bình Dương đến Ấn Độ Dương, với sự phân tán của những quần đảo uốn cong có số
    lượng đảo nhiều và lớn nhất thế giới [chủ yếu ở hai quốc gia Inđônêxia, Philippin].
    Chính vì thế, đã tạo cho Đông Nam Á có một vị trí chiến lược quan trọng, vừa nằm giữa
    và gần hai quốc gia rộng lớn, với hai nền văn minh lâu đời, rực rỡ vào bậc nhất châu Á
    và thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ, vừa gần với cường quốc kinh tế Nhật Bản, nằm
    trên tuyến đường biển quốc tế quan trọng, giữa châu Úc với các quốc gia nằm ở phía
    bắc là Hàn Quốc, Triều Tiên, Trung Quốc, Butan, Bănglađét, Nêpan.
    Về mặt địa lý hành chính hiện đại, Đông Nam Á bao gồm 11 quốc gia: các quốc
    gia nằm ở hải đảo gồm Inđônêxia, Xingapo, Philippin, Brunây, Đông Timo; các quốc
    gia nằm ở lục địa gồm Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Mianma; và quốc gia
    Malaixia là vừa hải đảo vừa lục địa.
    Với vị trí đó, Đông Nam Á sớm trở thành khu vực có ý nghĩa và tầm quan trọng
    lớn trên nhiều bình diện, đồng thời là điều kiện thuận lợi để các nước trong khu vực tiếp
    cận, trao đổi với các nền văn hóa bên ngoài từ Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập đến châu Âu,
    để sáng tạo cho mình một nền văn hóa rộng lớn, đặc sắc và thấm đậm tinh thần khu vực.
    2. Địa hình
    Đông Nam Á là khu vực có địa hình phong phú, với núi rừng, đồng bằng và biển
    cả, được nối với nhau bằng hệ thống sông ngòi chằng chịt đầy nước, cho nên văn hóa
    Đông Nam Á là một chỉnh thể thống nhất của ba yếu tố: văn hóa núi, văn hóa đồng bằng
    và văn hóa biển. Ở mỗi yếu tố văn hóa tự mang trong mình những đặc trưng riêng của
    chủ nhân nó. Những yếu tố: núi, biển và đồng bằng được tạo nên và chi phối chặt chẽ
    bởi những đặc điểm địa hình vô cùng độc đáo nơi đây, bởi, Đông Nam Á hải đảo hay
    lục địa đều có sự đan xen mang tính hệ thống giữa đồi núi, đồng bằng và sông biển, mà
    5
    Ở khu vực thuộc bán đảo Trung - Ấn, có các cao nguyên rộng lớn, từ cao

    nguyên Shan [Mianma], Khorat [Thái Lan], Bôlôven, Khăm Muộn [Lào] đến Tây
    Nguyên [Việt Nam], rồi vươn ra biển làm cho các dòng sông lớn cũng bắt nguồn từ các
    núi rừng rộng lớn. Với hệ thống sông ngòi dày đặc, cũng bắt nguồn từ bán đảo Trung -
    Ấn: sông Mê Kông dài 4.500km [đoạn chảy vào khu vực Đông Nam Á dài 2.600km],
    sông Xaluen dài 3.200km, Iraoađi dài 2.150km, sông Mê Nam dài 1.200km, sông Hồng
    dài 1.126km. Còn ngược lại, các con sông trên quần đảo Mã Lai như ở Inđônêxia,
    Philippin, thậm chí cả Malaixia đều ngắn và dốc, có giá trị khai thác thủy điện cao.
    Sông ngòi ở Đông Nam Á không chỉ có giá trị về mặt giao thông mà chủ yếu là tạo nên
    các vùng châu thổ màu mỡ phù sa. Thông thường, tương ứng với các con sông lớn là
    các vùng châu thổ rộng lớn, như vùng Hạ Mianma; châu thổ Mê Nam [Thái Lan]; châu
    thổ Mê Kông [Cămpuchia, Việt Nam…]; châu thổ sông Hồng [Việt Nam]. Từ bán đảo
    Đông Dương qua Thái Lan đến Mianma, cảnh quan tự nhiên của vùng là những châu
    thổ xen kẽ với đồi núi, rừng rậm kéo dài từ phía bắc xuống phía nam ra biển, núi rừng
    và bình nguyên ở Đông Nam Á bao phủ các đảo, quần đảo ở phía đông, đông nam với
    trữ lượng lớn về tài nguyên.
    Sang quần đảo Mã Lai, các quốc gia Inđônêxia và Philippin có các dãy núi uốn
    nếp xen các núi lửa với cao nguyên núi lửa, còn các đồng bằng thường phân bố dọc theo
    các miền duyên hải hoặc trong các thung lũng giữa núi. Đồng bằng ở hải đảo thường
    nhỏ hẹp hơn so với khu vực lục địa, tuy nhiên, so với khu vực Đông Nam Á lục địa, địa
    hình đồi núi ở các nước hải đảo lại có phần quy mô hơn, trong đó địa hình núi lửa trở
    thành một yếu tố nổi bật trong cảnh quang thiên nhiên của khu vực này. Hầu hết các
    đỉnh núi cao nhất ở Inđônêxia và Philippin đều là những núi lửa đang hoạt động hoặc đã
    tắt, như núi Kerinsi ở Xumatơra, Semera ở Giava, Rantemario ở Xulavêxi, Anpô trên
    đảo Minđanao [Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008]. Đông Nam Á là khu vực có
    nhiều quần đảo vào bậc nhất thế giới, tập trung chủ yếu ở hai quốc gia: Inđônêxia
    [17.508 hòn đảo] và Philippin [7.107 hòn đảo]. Biển và vịnh ở Đông Nam Á kéo dài từ
    vùng biển Đông, bán đảo Đông Dương hướng ra Thái Bình Dương đến vịnh Inđônêxia
    của Ấn Độ Dương. Đảo và quần đảo với những vịnh lớn, nhỏ, cùng với những eo biển
    nổi tiếng lâu đời đã tạo nên bức tranh thiên nhiên đa sắc và hùng vĩ của Đông Nam Á.
    Đó chính là những nét chung, thống nhất về mặt địa hình các quốc gia Đông

    Nam Á. Bên cạnh những nét chung đó, ở mỗi quốc gia lại chứa đựng những nét riêng,
    khác biệt tạo nên cảnh sắc đa dạng, muôn màu muôn vẻ trong toàn khu vực.
    3. Khí hậu
    Đông Nam Á có vị trí địa lý khá quan trọng ở khu vực châu Á - Thái Bình
    Dương, nơi có đường xích đạo chạy qua, cho nên cùng chịu ảnh hưởng chủ yếu của khí
    hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết đặc trưng của khu vực châu Á.
    Đặc điểm chung của vùng này là tính chất bán đảo và điều kiện hoàn lưu gió
    mùa, tạo cho Đông Nam Á, một khu vực “châu Á gió mùa” bởi đặc trưng nổi bật của
    khí hậu nóng và ẩm, với hai mùa được hình thành khá rõ là mùa khô và mùa mưa trong
    năm. Theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu thì Đông Nam Á có độ ẩm cao nhất thế
    giới [trên 80% - 90%], vì có đường xích đạo chạy qua. Do có đường bờ biển dài bao
    quanh khiến lượng nước bốc hơi trên đất liền luôn dư thừa [Sakurai Yumlo, 1996], tạo
    nên khí hậu nóng ẩm [nhiệt độ trung bình từ 20 - 27
    0
    C] và mưa nhiều [lượng mưa từ
    1.500 đến 3.000mm/năm] [Phan Ngọc Liên, 2002]. Mặc dù, khu vực Đông Nam Á cùng
    6
    Tuy nhiên, người ta phân chia khí hậu Đông Nam Á thành hai đới khác nhau
    [Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008], vừa tạo nên tính đa dạng vừa tạo nên tính
    thống nhất về khí hậu nơi đây:
    Đới khí hậu xích đạo: tạo thành một dải dọc theo đường xích đạo, bao gồm các
    đảo Xumatơra, Calimantan, Xulavêxi, phần tây các đảo Giava, Irian, phần nam bán đảo
    Malacca và đảo Minđanao. Đới khí hậu cận xích đạo [đới gió mùa xích đạo]: gồm hai
    đới nằm ở phía bắc và phía nam đới khí hậu xích đạo. Trong đó, đới nằm ở phía bắc bao
    gồm: phần lớn bán đảo Trung - Ấn và gần như toàn bộ quần đảo Philippin; còn đới ở
    phía nam gồm toàn bộ quần đảo nằm ở phía đông của đảo Giava. Ở các đới khí hậu này,
    một năm có hai mùa rõ rệt: mùa hạ
    [1]
    và mùa đông
    [2]

    .
    Nhìn tổng thể, địa hình - khí hậu Đông Nam Á khá thuận lợi cho cuộc sống của
    con người, nhất là ngay trong buổi đầu bình minh lịch sử, chính vì vậy, Phan Ngọc
    Liên, Nghiêm Đình Vỳ, Đinh Ngọc Bảo, Trần Thị Vinh [2002] đã khẳng định:
    Những mùa mưa ổn định với khí hậu không quá gay gắt về cả nhiệt độ
    và lượng mưa, địa bàn sinh tụ nhỏ nhưng hết sức phong phú, đa dạng kết
    hợp rừng - suối, đồi ruộng, có biển, có đồng bằng, đã tạo nên những không
    gian lí tưởng cho cuộc sống của con người thời cổ, điều đó giải thích vì sao,
    từ rất cổ xưa, con người đã đến đây sinh sống.
    Tóm lại, “điều kiện nóng ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là hằng số tự nhiên của
    văn hóa Đông Nam Á, và chính nó đã góp phần tạo nên nét đặc trưng của văn hóa Đông
    Nam Á - một nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng” của khu vực” [Mai Ngọc Chừ,
    1999: 17].
    4. Động và thực vật
    Với điều kiện khí hậu như đã nói trên sẽ gắn chặt với sự sinh tồn và phát triển
    của giới động, thực vật ở khu vực Đông Nam Á. Thật vậy, với rừng tự nhiên đa dạng,
    mang nhiều màu sắc, cho nên thành phần trong giới động vật ở khu vực Đông Nam Á
    cũng rất phong phú và đa dạng về chủng loài. Trong rừng nhiệt đới ẩm thường xanh
    [2]

    có khỉ, đười ươi, vượn, heo vòi, nhiều loài chim và bò sát… Trong rừng gió mùa, rừng
    thưa và xavan cây bụi
    [3]
    tập trung nhiều động vật ăn cỏ, ăn lá cây và động vật ăn thịt.
    Đáng chú ý là có trâu rừng, linh dương, nai, bò tót, bò xám, tê giác một sừng, voi, hổ,
    báo… Tất cả các loài này phân bố rộng, có ở cả bán đảo Trung - Ấn và vùng đảo Mã
    Lai. Ngày nay, nhiều loài động vật quý như hổ, báo, bò rừng, tê giác… bị suy giảm
    nhanh và có nguy cơ bị tuyệt chủng vì con người săn bắn bừa bãi và diện tích rừng bị
    thu hẹp [Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008]. Ngoài ra, Đông Nam Á còn được coi
    là một “viện bảo tàng chim thú” - thiên đường của các nhà động vật học, với những loài

    chim ở đây có giá trị lớn về nhiều mặt như kinh tế, khoa học, sản xuất, văn hóa - xã hội
    [Phan Ngọc Liên, 2002].
    Nhà địa lý - thực vật học người Mỹ C.O Sauer, cho rằng: Đông Nam Á là nơi
    phát sinh trồng trọt sớm vì đó là một vùng nhiệt đới với tính đa dạng cao về thực vật
    cũng như cảnh quan địa mạo, sinh thái mà không một nơi nào sánh kịp, đó là vùng
    thung lũng chân núi hoặc ven biển [Phạm Đức Dương và Trần Thị Thu Lương, 2001].
    Chính đặc trưng của khí hậu nóng ẩm ở Đông Nam Á cùng với biển và gió mùa đã biến
    khu vực này thành thiên đường của thế giới thực vật, làm cho hệ thực vật ở đây vô cùng
    đa dạng và phong phú, đó là màu xanh cây lá, hoa trái bạt ngàn quanh năm bao phủ
    7
    Nhờ có khí hậu thuận lợi, không quá gay gắt về cả nhiệt độ lẫn lượng mưa nên
    tạo điều kiện cho nền kinh tế nông nghiệp - nền kinh tế chính của khu vực mà cây lúa
    đóng vai trò chủ đạo. Do vậy, Đông Nam Á được mệnh danh là quê hương của cây lúa
    nước, cây lương thực số một của nhân loại. Những cánh đồng lúa được phân bố chủ yếu
    trên các đồng bằng châu thổ, dọc theo thung lũng các con sông ở Đông Nam Á vì đây là
    những vùng đất phù sa màu mỡ do các con sông bồi đắp và được con người ở đây tận
    dụng trong quá trình sản xuất.
    Các nhà Sử học Phan Ngọc Liên, Nghiêm Đình Vỳ, Đinh Ngọc Bảo, Trần Thị
    Vinh [2002] nhận xét rất xác đáng về khu vực này:
    Gió mùa kèm theo những cơn mưa nhiệt đới đã cung cấp đủ nước cho
    con người dùng trong đời sống và sản xuất, tạo nên những cánh rừng nhiệt
    đới phong phú về thảo mộc và chim muông. Đông Nam Á từ lâu đã trở thành
    quê hương của những cây gia vị, cây hương liệu đặc trưng như hồ tiêu, sa
    nhân, đậu khấu, hồi, quế, đàn hương, trầm hương… Do có những điều kiện
    thiên nhiên tương đồng với các loài động, thực vật rất khác biệt với các vùng
    khác, nhưng lại giống nhau trong vùng, nên Đông Nam Á còn được coi là
    khu vực thực vật - dân tộc học và động vật - dân tộc học.
    Trong số các loài thực vật, rõ ràng, cây lúa chiếm diện tích lớn nhất trong khu
    vực Đông Nam Á và đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của các nước nơi đây
    [Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008].

    Đông Nam Á là một miền địa lý đa dạng mà thống nhất [Phạm Đức Dương và
    Trần Thị Thu Lương, 2001: 81, sđd], dù xét dưới góc độ nào - vị trí [đảo, bán đảo, quần
    đảo], địa hình [núi, đồng bằng, sông biển], khí hậu [nhiệt đới gió mùa] hay hệ động thực
    vật. Sự “thống nhất trong đa dạng” đó của điều kiện tự nhiên là một trong những tiền đề
    quan trọng tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam
    Á.
    II. Dân tộc và ngôn ngữ Đông Nam Á
    1. Dân tộc
    Như đã nói, Đông Nam Á là nơi nằm trên tuyến đường giao lưu thuận lợi Đông -
    Tây, cho nên ở đây cũng diễn ra quá trình hỗn dung giữa các thành phần chủng tộc với
    nhau, rất phức tạp. Xét về nguồn gốc xuất phát dân tộc của các nước Đông Nam Á thì
    người ta xác định rằng, các dân tộc Đông Nam Á đều xuất phát từ một loại chủng
    Môngôlôit
    phương Nam [tiểu chủng Đông Nam Á], mang trong mình ở những mức độ
    khác nhau từ các yếu tố của hai đại chủng Môngôlôit và Ôxtralôit. Sự “đồng tộc” trên
    phổ rộng này là một trong những tiền đề quan trọng tạo nên nhiều điểm tương đồng
    cũng như khác biệt về con người cũng như văn hóa của khu vực Đông Nam Á.
    Hiện nay, các nước Đông Nam Á đều là những quốc gia đa thành phần dân tộc,
    trong đó ở mỗi nước thường có một thành phần dân tộc chiếm chủ thể về số lượng cư
    dân
    [5]
    và trình độ phát triển xã hội. Ngoài ra, còn có nhiều thành phần tộc người khác
    vốn bản địa của khu vực có từ lâu đời với số lượng thay đổi từng nơi.
    8
    Từ nhóm nhân chủng Môngôlôit phương Nam [tiểu chủng Đông Nam Á] có thể
    chia ra 4 nhóm nhỏ như sau [Nguyễn Đình Khoa, 1983; Nguyễn Tấn Đắc, 2003; Lương
    Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008]:
    1.1. Nhóm Anhđônêdiên
    Bắt đầu là có một dòng người thuộc chủng Môngôlôit từ vùng lục địa châu Á
    [Tây Tạng] di cư về hướng đông nam và dừng lại ở khu vực mà nay gọi là bán đảo

    Trung - Ấn. Tại đây đã diễn ra sự hợp chủng giữa họ với cư dân Mêlanêdiên bản địa
    [thuộc đại chủng Ôxtralôit], tạo chủng Anhđônêdiên [còn gọi là Mã Lai cổ]
    [6]
    . Từ đây
    lan tỏa ra, người Anhđônêdiên cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam Á cổ đại.
    Người Anhđônêdiên là cư dân cổ có mặt ở hầu khắp các nơi trong khu vực Đông
    Nam Á, gồm những tộc ít người sinh sống chủ yếu là sâu trong các hải đảo như như
    người Batắc ở Xumatơra; người Đaiắc, Kênya, Kayan, Punan ở Calimantan; Alphuru ở
    Xulavêxi thuộc Inđônêxia; nhóm Bontok, Nabaloi, Iphugao, Kankanai, Pagobo,
    Ghianga thuộc Philippin. Còn ở các miền rừng núi, người Anhđônêdiên có mặt khắp
    trên bán đảo Đông Dương: các tộc người ở Tây Nguyên, ở dãy Trường Sơn [Việt Nam]:
    Bru - Vân Kiều, Xơ Đăng, Ba Na, Gia Rai, M’nông, Khơ Mú; tập trung chủ yếu ở Lào:
    Thượng Lào [Khơ Mú], Hạ Lào [Hin, Bôlôven] và miền Trung Lào ít hơn; ngoài ra còn
    ở Cămpuchia và Thái Lan.
    1.2. Nhóm Nam Á
    Nhóm Nam Á
    [7]
    là kết quả của sự hợp chủng giữa hai chủng Anhđônêdiên với
    chủng Môngôlôit, với các nét đặc trưng Môngôlôit lại càng nổi trội, vì vậy, nó được coi
    là tiểu chủng Môngôlôit phương Nam, và về sau, Bách Việt đã được sinh ra từ chủng
    này [Nguyễn Đình Khoa, 1983; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008].
    Nhóm Nam Á gồm đại bộ phận người Đông Nam Á, với các nhóm đại diện chủ
    yếu là Tày, Thái, Việt [Kinh], Lào, Mianma, Mã Lai, Khơ Me… ở bán đảo Trung - Ấn;
    Visaya, Tagan, Giava, Sunđa, Mađura… ở quần đảo Mã Lai [Nguyễn Đình Khoa, 1983;
    Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008].
    1.3. Nhóm Vêđôit
    Theo một giả thuyết, từ hai chủng Nam Á và Anhđônêdiên đã có một tác động
    nhất định đến loại hình nhân chủng khác ở Đông Nam Á là Vêđôit, phần lớn là
    Anhđônêdiên. Trong một giai đoạn lịch sử khá dài, nhóm loại hình nhân chủng Vêđôit
    và Anhđônêdiên đã là thành phần chủ thể của cả khu vực Đông Nam Á với tỷ trọng có

    thể khác nhau giữa phần lục địa [chủ yếu Anhđônêdiên] và phần hải đảo [ở thời kỳ đầu
    chủ yếu Vêđôit]. Tiếp đến, đó là sự tác động mạnh mẽ của dòng người Nam Á, điều
    này, càng làm cho bức tranh nhân gian các nhóm nhân chủng Đông Nam Á đang biến
    đổi lại càng thêm thấm đượm sắc thái mới.
    Nhóm Vêđôit
    [8]
    cư trú khá phổ biến trong cư dân bản địa ở Inđônêxia và một số
    ít hơn ở phía nam bán đảo Trung - Ấn với độ biến dị khá rộng rãi trên đặc điểm hình
    thái, như người Tokea, Toala, Loinanga ở Xulavêxi; người Manga, Kayan ở
    Calimantan; Orang Batin ở Xumatơra; người Xênôi ở Malacca [Nguyễn Đình Khoa,
    1983; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008].
    1.4. Nhóm Nêgritô
    Nhóm loại hình nhân chủng Nêgritô
    [9]
    được coi là một loại hình của chủng
    Mêlanêdiên [thuộc đại chủng Ôxtralôit], và phát sinh không sớm hơn loại hình nhân
    9
    Nhóm Nêgritô phân bổ nhiều nơi ở Đông Nam Á, điển hình như người Tapiro ở
    sườn nam các dãy núi ở trung tâm Tân Ghinê, hoặc ở Philippin, Malaixia, đảo Irian của
    Inđônêxia và cực nam bán đảo Trung - Ấn, ở các cụm đảo Anđaman, Nicobar.
    Như vậy, qua một quá trình lịch sử lâu dài, từ tiểu chủng Đông Nam Á đã tiếp
    tục phân hóa thành những tộc người khác nhau. Vì vậy, khi xem xét về Đông Nam Á ở
    góc độ dân tộc học, ta dễ dàng nhận thấy tính đa dạng và phong phú trong các thành
    phần tộc người và sự phân bố dân cư nơi đây, thể hiện ở mỗi quốc gia có thể có hàng
    chục, hàng trăm dân tộc khác nhau
    [10]
    .
    Chính bức tranh phong phú về các tộc người ở Đông Nam Á, xét cho cùng, đều
    có nguồn gốc chung xuất phát từ chủng người Môngôlôit phương Nam, do đó, đã tạo
    nên điểm tương đồng trong khu vực - một sự “thống nhất trong đa dạng” về con người

    và văn hóa Đông Nam Á [Mai Ngọc Chừ, 1999].
    2. Ngôn ngữ
    Mặc dù, ngày nay, bức tranh ngôn ngữ Đông Nam Á rất đa dạng nhưng theo các
    nhà ngôn ngữ học, trước đây chúng đều có một gốc chung, tạm thời gọi là ngôn ngữ
    Đông Nam Á tiền sử [Phạm Đức Dương, 1983]. Từ ngôn ngữ gốc chung này, trong quá
    trình phát triển lịch sử, nó được phân thành các ngữ hệ khác nhau và phát triển theo
    hướng khác nhau, có thể chia ngôn ngữ Đông Nam Á thành 4 ngữ hệ chính [Mai Ngọc
    Chừ, 1999; Nguyễn Tấn Đắc, 2003; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008].
    2.1. Ngữ hệ Nam Đảo
    Ngữ hệ Nam Đảo [Mã Lai - Đa Đảo], được phân bố khá rộng, chủ yếu là các
    đảo, trải từ Đông Nam Á đến tận châu Úc và các đảo nam Thái Bình Dương về phía
    đông và hòn đảo ở đông nam châu Phi về phía tây. Thuộc ngữ hệ này gồm khoảng 200
    tiếng nói cụ thể, bao gồm phần lớn cư dân Inđônêxia, Philippin và Malaixia, trong đó có
    ngôn ngữ Melayu [các quốc gia Brunây, Malaixia, Inđônêxia, Xingapo], ngôn ngữ
    Tagalog [ở Philippin], các ngôn ngữ Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Ra Glai, Chu Ru [ở vùng
    biên giới Việt Nam], một số tộc người ở phía nam Thái Lan, Cămpuchia.
    Những quốc gia sử dụng ngữ hệ Nam Đảo làm tiếng nói chính thức: Inđônêxia,
    Malaixia, Philippin và Xingapo.
    2.2. Ngữ hệ Nam Á
    Ngữ hệ Nam Á được phân bố chủ yếu ở các quốc gia Đông Nam Á lục địa, có
    thể chia thành 4 nhóm sau:
    2.2.1. Nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me
    Ngữ hệ Môn - Khơ Me có hơn 100 ngôn ngữ, chia thành hai nhóm: Môn - Khơ
    Me Bắc và Môn - Khơ Me Đông.
    Môn - Khơ Me Bắc gồm có các tiếng nói chủ yếu: Bắc Thái Lan, Bắc Lào, Đông
    Mianma.
    Môn - Khơ Me Đông gồm các ngôn ngữ tập trung: Cămpuchia, miền Trung Việt
    Nam, Trung Lào, Bắc Thái.
    10
    Các ngôn ngữ của những tộc người Môn - Khơ Me ở Việt Nam sống rải rác ở

    vùng Tây Nguyên, Trường Sơn và Tây Bắc, gồm: Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, H’rê,
    M’nông, Stiêng, Bru - Vân Kiều, Ka Tu, Khơ Mú, Tà Ôi, Mạ, Gié Triêng, Chơ Ro,
    Mảng, Kháng, Rơ Năm, Ơ Đu và Brâu.
    2.2.2. Nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao
    Nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao được phân bố ở phía Bắc của Việt Nam, Lào và
    Thái Lan, còn Mianma thì ở gần biên giới Trung Quốc. Nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao,
    bao gồm các ngôn ngữ: H’mông [Mèo, Miao, Mông], Dao [Man, Yao], Pàthẻn, Sơ,
    Klao.
    2.2.3. Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường
    Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường gồm bốn ngôn ngữ: Việt [Kinh], Mường, Thổ,
    Chứt. Nhóm ngôn ngữ này chỉ có ở Việt Nam và một số nước Đông Nam Á có người
    Việt sinh sống.
    2.2.4. Nhóm ngôn ngữ Nam Á khác
    Có người gọi đây là nhóm hỗn hợp hay Kađai [cái gạch nối giữa ngôn ngữ Tày -
    Thái cổ và Mã Lai - Đa Đảo, theo Paul K. Benedict], đó là các ngôn ngữ La Chí, La Ha,
    Klao, Pupéo ở Việt Nam.
    2.3. Ngữ hệ Thái
    Các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Thái được phân bố ở Thái Lan, Lào, miền núi phía
    bắc Việt Nam và đông bắc Mianma. Thuộc họ này có các ngôn ngữ: Thái, Lào, Tày
    Nùng, Sán Chay, Giáy, Bố y, Lự, La Ha.
    2.4. Ngữ hệ Hán Tạng
    Ngữ hệ Hán Tạng được phân thành hai nhóm:
    2.4.1. Nhóm ngôn ngữ Hán
    Tiếng Hán được phân bố ở nhiều nước Đông Nam Á như Xingapo, Malaixia,
    Inđônêxia, Mianma, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Philippin…
    Thuộc nhóm ngôn ngữ Hán, ngoài tiếng Hán còn có Sán Dìu, Ngái…
    2.4.2. Nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến
    Nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến được phân bố ở Mianma, miền núi phía tây Thái
    Lan, bắc Lào và một số ít tây bắc Việt Nam.
    Các ngôn ngữ thuộc họ Tạng - Miến ở Đông Nam Á là Miến, Kachin, Karen,

    Kaya, Lôlô, Chin [ở Mianma], Hà Nhì, Phù Lá, La Hủ, Si La [ở Việt Nam], Lisu, Akha
    [ở Thái Lan], Kọ, Phunọi [ở Lào].
    Ngoài bốn họ ngôn ngữ chính nêu trên, ở một số khu vực Đông Nam Á còn có
    một vài ngôn ngữ thuộc các ngữ hệ khác theo dòng người nước ngoài đến Đông Nam Á
    như tiếng Tamin [thuộc Đraviđa] của người Ấn Độ ở Malaixia, Inđônêxia; tiếng Aryen
    [thuộc Ấn - Âu] của một số người Ấn Độ và Pakixtan ở Mianma.
    Những đặc điểm về hệ ngôn ngữ cũng như sự phân bố tộc người trên lãnh thổ
    Đông Nam Á cho thấy một sự thật là: không phải giữa các quốc gia Đông Nam Á từ
    trước đến nay không tồn tại một mối quan hệ nào, và nếu chúng ta biết khai thác những
    mối quan hệ, liên hệ ẩn náu trong quá khứ ấy thì sự hợp tác khu vực không thể không
    11
    Xin mượn lời của Mai Ngọc Chừ để kết lại: “Sự đa dạng không hề thủ tiêu tính
    thống nhất của chúng. Nếu như nói rằng văn hóa Đông Nam Á là sự thống nhất trong đa
    dạng thì nhận định đó cũng hoàn toàn chính xác đối với ngôn ngữ - một nhân tố quan
    trọng của văn hóa và các ngôn ngữ Đông Nam Á là bức tranh đa dạng trong sự thống
    nhất cao độ từ trong cội nguồn của chúng” [Mai Ngọc Chừ, 1999: 112].
    III. Nền kinh tế truyền thống Đông Nam Á
    “Xét về mặt lịch sử, những quốc gia lục địa chủ yếu sống bằng nông nghiệp
    trồng lúa và những quốc gia hải đảo được lợi từ việc buôn bán đường biển” [Mary
    Somers Heidhues, 2007: 6], đó chính là những nền kinh tế cơ bản, đem lại nhiều hiệu
    quả và mang tính truyền thống của khu vực Đông Nam Á.
    1. Kinh tế lúa nước
    Nhiều bộ môn khoa học, trước hết là khảo cổ học, sinh thái học, dân tộc học…
    đã chứng minh: Đông Nam Á là một trong những cái nôi trồng trọt cổ của loài người.
    Nền văn hóa Hòa Bình đã minh chứng
    [11]
    , cư dân nơi đây thuần hóa nhiều giống lúa
    khác nhau… Những di chỉ khảo cổ tại lục địa, đặc biệt là trên cao nguyên Khorat của
    Thái Lan, nơi xã hội nông nghiệp đã xuất hiện khoảng năm 3.000 T.CN. Mặt khác, các
    công trình nghiên cứu về địa lý cây trồng cũng công nhận rằng: Đông Nam Á là một

    trong mười trung tâm chính phát sinh cây lúa nước. Con người ở đây đã thuần hóa được
    nhiều loại cây trồng và vật nuôi có giá trị, đặc biệt là cây lúa nước. Qua nhiều cuộc điều
    tra, khảo sát, Giáo sư Lương Ninh và Vũ Dương Ninh đi đến kết luận: đây là trung tâm
    chính phát sinh cây lúa nước, và nghề trồng lúa nước đã xuất hiện cách đây khoảng
    4.000 - 5.000 năm T.CN.
    Bước sang thời đại đồ đồng, trong điều kiện khí hậu của vùng nhiệt đới, cư dân
    Đông Nam Á đã bước sang thời kỳ kinh tế trồng lúa khô ở nương rẫy và lúa nước ở
    vùng thung lũng hẹp châu thổ. Cùng với quá trình di chuyển cây lúa, con người dần với
    tay đến các vùng đồng bằng lớn ngập lụt và những vùng đất cao khô hạn. Ở vùng đồng
    bằng ngập nước, với phương thức “gieo mạ” rồi kỹ thuật cấy lúa ra đời, đánh dấu bước
    phát triển của nông nghiệp trồng lúa của cư dân Đông Nam Á. Còn việc đưa cây lúa lên
    cạn lại là sự can thiệp lớn hơn nữa của con người và đời sống tự nhiên của nó: vùng
    đồng bằng ngập nước cây lúa với phương thức “gieo mạ” rồi “cấy”, lên vùng khô cây
    lúa cạn với phương thức “gieo thẳng” [Ngô Thế Phong, 1990; Nguyễn Phan Thọ, 1999,
    Phạm Đức Dương và Trần Thị Thu Lương, 2001]. Chính nền nông nghiệp trồng lúa với
    sự di chuyển này đã hình thành nên các thành tố văn hóa Đông Nam Á thống nhất mà
    đa dạng, trong đó yếu tố trồng lúa đã trở thành “cội nguồn”, “mẫu số chung” của nền
    văn hóa đó.
    Đông Nam Á lục địa là nơi hội tụ những con sông lớn của khu vực: Mê Kông,
    Xaluen, Iraoađi, Mê Nam, sông Hồng và tương ứng với mỗi con sông là những đồng
    bằng châu thổ, thích hợp cho việc phát triển lúa nước. Thật vậy, dấu vết nông nghiệp
    trồng lúa xuất hiện sớm ở châu thổ sông Hồng; đồng bằng sông Iraoađi và châu thổ
    sông Xittang [Mianma]; đồng bằng châu thổ sông Mê Nam và sông Tachin [Thái Lan]
    và vùng đông - bắc Tông Lê Xáp [Cămpuchia], muộn hơn nữa, đến đồng bằng sông Mê
    Kông [Lào, Cămpuchia, Việt Nam]… Ngoài lưu vực các con sông, cư dân Đông Nam Á
    còn phát triển nông nghiệp trồng lúa lên cả vùng cao nguyên Khorat [Thái Lan], Shan
    [Mianma] vùng núi Tây Nguyên [Việt Nam]… để phục vụ nhu cầu cuộc sống.
    12
    Đến quốc gia hải đảo Inđônêxia, có đồng bằng ven biển bắc Giava, nhưng vì đất
    châu thổ không nhiều nên những núi đá lửa được san thành những ruộng bậc thang trên

    các sườn núi; còn ở Malaixia đồng bằng bang Kê Đắc là vựa lúa lớn của cả nước.
    Nói tóm lại, ở Đông Nam Á, cây lúa được trồng khắp nơi từ đồng bằng, thung
    lũng [cây lúa nước] cho đến cao nguyên, miền núi [cây lúa cạn] và người trồng lúa đóng
    vai trò chủ thể tạo sức sản xuất trong xã hội. Từ sự phân chia này đã hình thành nên các
    phương thức canh tác khác nhau, mang nhiều điểm khác biệt giữa trồng lúa ở ruộng
    nước và trồng lúa trên nương, khi lúa trở thành một cây trồng chính trong nền kinh tế
    trồng trọt ở Đông Nam Á, tính đa dạng được thể hiện một cách rõ rệt hơn. Đó là việc
    hình thành ở khắp nơi một phức thể canh tác đa dạng: ruộng - rẫy; ruộng - nương; ruộng
    - vườn… trong nghề trồng lúa, và gắn với mỗi phức thể canh tác đó là sự ra đời của
    những yếu tố văn hóa phù hợp. Nghề trồng lúa nước đã trở thành nền kinh tế chính và
    chủ đạo của Đông Nam Á từ xa xưa cho đến bây giờ.
    Ngày nay, các quốc gia Đông Nam Á lấy sản xuất nông nghiệp làm nền kinh tế
    chủ yếu của mình [trừ Xingapo phát triển theo hướng công nghiệp], trong đó Thái Lan
    và Việt Nam là hai quốc gia đi tiên phong trong việc xuất khẩu lúa, gạo trên thế giới. Vì
    vậy, nghề trồng lúa của cư dân Đông Nam Á ngày càng được cư dân nơi đây phát huy
    tác dụng và có một vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân nơi đây.
    2. Nghề sông biển
    Trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp, ngoài ngành trồng trọt, cư dân
    Đông Nam Á còn có cả một hệ thống nghề phụ, trong đó nổi bật nhất là nghề sông biển
    [ngư nghiệp và ngoại thương]. Trong các quốc gia Đông Nam Á, duy chỉ có Lào là
    không giáp biển, tuy nhiên, Lào vẫn có thể tiếp xúc được với biển thông qua các quốc
    gia láng giềng anh em. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà cư dân Đông Nam Á đã
    biết đóng mảng và đi thuyền biển từ rất sớm
    [12]
    tạo thuận lợi cho việc phát triển thương
    nghiệp. Theo Mary Somers Heidhues đã nhận định: “…dân hải đảo là những thủy thủ
    tài giỏi đến độ biển không ngăn cản được việc đi lại của họ, và trong những thời kỳ có
    sử việc đánh cá, buôn bán và đi biển là hoạt động chính của cư dân Đông Nam Á hải
    đảo, và cũng là một hoạt động quan trọng đối với cư dân lục địa ” [Mary Somers
    Heidhues, 2007: 14]. Việc buôn bán bằng đường biển với Đông Nam Á đã khá nhộn

    nhịp từ thế kỷ II, đến thế kỷ VII thì thuyền buôn Ả Rập đã thường xuyên đến vùng này
    để mua hương liệu, gia vị. Đối với các lái buôn thời bấy giờ “Đông Nam Á được nhìn
    nhận là một vùng thần bí, nơi sản xuất hương liệu, gia vị và những sản phẩm kỳ lạ khác,
    còn sinh sống ở đây là những con người đi biển thành thạo và can đảm” [Phan Ngọc
    Liên, 2002, sđd].
    Ngay từ rất sớm ở Đông Nam Á đã có một sự giao thoa văn hóa liên tục giữa các
    nơi trong khu vực với các quốc gia khác trên thế giới, điều này làm cho bức tranh văn
    hóa vốn đã phong phú, lại thêm hết sức đa dạng, đầy màu sắc. Ở ngoài hải đảo, những
    mối liên hệ kinh tế, văn hóa giữa các đảo được xác lập và phát triển một phần nhờ biển
    cả, và mối liên hệ ấy mở rộng dần theo năm tháng để hình thành nên thế giới hải đảo.
    Còn ở trong đất liền các mối liên hệ kinh tế - văn hóa được xác lập một phần nhờ các
    dòng sông, mỗi con sông ấy lại mang trong mình một đời sống văn hóa rất riêng của nó.
    Trong đó, thuyền đi sông, đi biển là một phương tiện chủ yếu để truyền tải và thực hiện
    giao lưu văn hóa trong khu vực với các quốc gia bên ngoài. Hơn nữa, đây cũng là một
    phương tiện quan trọng để tiếp thu những yếu tố văn hóa từ các trung tâm văn minh lớn
    ở phương Đông như Ấn Độ, Trung Quốc. Chính vì vậy, có người nhận xét về Đông
    13
    Từ rất sớm, Đông Nam Á đã là một khu vực gắn kết với hệ thống buôn bán thế
    giới, suốt trong nhiều thế kỷ, Đông Nam Á đóng vai trò làm trạm trung chuyển: nơi để
    hàng tạm thời, sửa chữa thuyền, thay cột buồm, nơi mua hàng, và là nơi gửi hàng dự trữ
    và để thương nhân trở lại năm sau, như cảng thị Óc Eo - vương quốc Phù Nam là một
    thí dụ điển hình. Về sau, cư dân Đông Nam Á chủ động tham gia vào đường buôn quốc
    tế trên biển, như vậy, Đông Nam Á không còn chỉ là một trạm trung chuyển như trước,
    mà đã có những sản phẩm bản địa tham gia vào đường buôn. Đó là hương liệu, gia vị,
    sản xuất chủ yếu của các đảo Malacca và phía đông Đông Nam Á. Thêm nữa, kỹ thuật
    đóng thuyền cũng khá hơn, cho phép đi vòng xa hơn, vì vậy, thuyền buôn bấy giờ đã đi
    về phía đảo Xumatơra, Giava, Malacca hết sức giàu sản phẩm hương liệu này.
    Nếu như biển vừa nối liền, vừa chia cắt những hòn đảo của Đông Nam Á hải đảo
    thì sông là nguồn giao thông chính của vùng lục địa. Các quốc gia Đông Nam Á ngoài
    có vị trí thuận lợi là giáp biển [trừ Lào] thì hầu hết các quốc gia Đông Nam Á lục địa

    đều có sông suối, vì thế mà cư dân Đông Nam Á có thể nuôi mình qua hàng thế kỷ nhờ
    hệ thống sông, biển này. Bởi vì, ngoài việc thuận lợi về mặt giao thương thì cư dân
    Đông Nam Á còn có thể đánh bắt tôm, cá, nuôi trồng các loài thủy, hải sản thông qua
    sông, biển. Từ xa xưa, cư dân Đông Nam Á đã sống rất quen thuộc với nghề đánh bắt cá
    trên sông biển này. Đây là nguồn thực phẩm nuôi sống và làm kế sinh nhai của họ từ
    bao đời nay. Ngày nay, nghề này vẫn còn phát huy tác dụng và đem lại giá trị kinh tế
    cao cho cư dân Đông Nam Á, đặc biết là đối với các cư dân ven biển.
    Thật vậy, Nguyễn Quốc Lộc [2007] đã thấy được tầm quan trọng của biển đối
    với Đông Nam Á:
    Biển vốn giàu có và nuôi sống con người từ bao đời nay. Nhưng với tri
    thức mới và năng lực hiện tại của con người, tài nguyên thiên nhiên của biển,
    bao gồm cả đáy biển và dưới lòng đất của biển, đang và sẽ được khai thác,
    sử dụng, làm giàu cho những quốc gia có biển. Một “thế kỷ đại dương” được
    nói đến ngày càng nhiều, và khi nêu ra một dự báo “thế kỷ XXI là thế kỷ của
    Đông Nam Á” ngoài những cơ sở về sự năng động và khả năng phát triển
    nhanh của nó, có tầm nhìn mới của con người về biển của khu vực này.
    Nhìn chung, nghề nông trồng lúa với nghề trên sông biển là nền kinh tế truyền
    thống của cư dân Đông Nam Á được duy trì thường xuyên và liên tục từ xưa cho đến
    nay. Nền kinh tế cơ bản này đã quy định đời sống văn hóa xã hội và tác động đến các
    thành tố văn hóa “thống nhất trong đa dạng” ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, còn có rất
    nhiều nền kinh tế quan trọng của cư dân Đông Nam Á mà vẫn chưa được đề cập đến:
    dệt vải, chế tạo kim loại, đồ gốm… để tạo nên một nền văn hóa đậm đà mang tính
    “thống nhất trong đa dạng”.
    IV. Tiến trình lịch sử các quốc gia Đông Nam Á
    Nếu coi Đông Nam Á là một khu vực địa lý - lịch sử với những nét tương đồng
    đã từng tồn tại qua nhiều thế kỷ, thì quá trình phát triển lịch sử của khu vực này từ thời
    nguyên thủy cho đến nay, có thể chia thành 4 giai đoạn nhỏ, mà trong mỗi giai đoạn đó,
    yếu tố thống nhất và đa dạng đã trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong tiến trình lịch
    sử Đông Nam Á, được lưu giữ và phát huy giá trị cho đến ngày nay.
    1. Giai đoạn hình thành các vương quốc cổ ở Đông Nam Á [Từ nguyên thủy

    đến thế kỷ X]
    14

    C. KẾT LUẬN

    Nhu vậy, do có nhiều điểm tương đồng về vị trí, nên các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á mang một đặc điểm nổi bật, rất đặc sắc đó là “tính thống nhất trong đa dạng”. Đặc điểm này được thể hiển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống nh­: văn hóa, kinh tế, chính trị, lịch sử… Trên tất cả các lĩnh vực đó chúng ta đều thấy rõ được những nét chung, thống nhất của các quốc gia đồng thời thấy được tính đa dạng, độc đáo của mỗi quốc gia. Tính thống nhất và tính đa dạng luôn tồn tại song song với nhau, bổ sung cho nhau và tạo nên bản sắc của khu vực Đông Nam Á.
    Tính thống nhất trong đa dạng không chỉ là đặc điểm chung của toàn khu vực mà còn được biểu hiện rõ nét trong phạm vi một quốc gia, trong một vùng hay một miền của đất nước, ví dụ như ở đồng bằng Bắc bộ Việt Nam có tục giỗ kỵ từ rất lâu đời để tưởng nhớ những người đã khuất nhưng có nơi chỉ giỗ đúng ngày đã mất, có nơi lại làm trước giỗ vài ba ngày. Hay ở Inđônêxia, trong tín ngưỡng tôn giáo của cư dân ở đây có mặt hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới như đạo Phật, Ên Độ giáo, Hồi giáo, Thiên chóa giáo. Mỗi tôn giáo đều mang trong nó những luật lệ và nghi lễ khác nhau, song chúng đều được tiếp thu và phát triển trên nền tảng vẫn bảo lưu hệ thống tín ngưỡng bản địa truyền thống, chính vì thế bức tranh tôn giáo Inđônêxia vừa có những yếu tố thống nhất lại vừa hết sức đa dạng.
    Đặc biệt trong thời điểm này, xu hướng hội nhập để cùng phát triển được đặt ra cấp thiết, do đó các quốc gia Đông Nam Á đều có những đường lối, chính sách riêng để đưa đất nước mình đi lên nhưng một điểm thống nhất là các quốc gia này đều ở trong tổ chức ASEAN, như vậy, cơ hội phát triển của các nước sẽ được mở rộng và sẽ có sự phát triển đồng bộ để cùng nhau đưa khu vực Đông Nam Á trở thành một khu vực giàu mạnh trên trường quốc tế. Sự phát triển của mỗi quốc gia chính là sự phát triển của cả hai khu vực, vì vậy cần có những chính sách phát triển hợp lý, để xây dựng một Đông Nam Á năng động, hợp tác và phát triển.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Lương Ninh [chủ biên]. Lịch sử Đông Nam Á , Nxb Giáo dục , 2005.
    2. D.G.E Hall. Lịch sử Đông Nam Á . Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1997.
    3. Phan Ngọc Liên [chủ biên]. Lược sử Đông Nam Á , Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
    4. Lương Ninh [chủ biên]. Lịch sử văn hoá thế giới cổ trung đại. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
    5. Trương Hữu Quýnh [chủ biên]. Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
    6. Mai Ngọc Chữ. Văn hoá Đông Nam Á . Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 1998.
    7. Vũ Dương Ninh. Một số vấn đề về sự phát triển của các nước ASEAN. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.
    8. Nguyễn Văn Chiến. Vài nét về chữ viết Đông Nam Á . Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á , sè 1, 1991.
    9. Lương Ninh. Văn hoá Việt Nam và giao lưu văn hoá Á Châu. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á. sè 3, 1995.
    10. Vò Quang Thiệu - Ngô Văn Doanh. Những phong tục độc đáo Đông Nam Á. Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1994.
    MỤC LỤC
    Trang
    A. Phần mở đầu 1
    1: Lý do chọn đề tài 1
    2: Lịch sử vấn đề 2
    3: Phương pháp nghiên cứu 4
    4: Phạm vi, nhiệm vụ của đề tài 4
    B. Nội dung 5
    1: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt điều kiện tự nhiên 5
    2: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt lịch sử 7
    2.1: Cư dân 7
    2.2. Lịch sử 8
    3: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt văn hoá 13
    3.1. Văn hoá vật chất 13
    3.2. Văn hoá tinh thần 18
    3.2.1 Chữ viết 18
    3.2.2 Tín ngưỡng- tôn giáo 20
    3.2.3 Lễ hội 22
    3.2.4. Nghệ thuật biểu diễn truyền thống 23
    4: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt kinh tế 23
    5: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt chính trị 32
    C. Kết luận 37
    Tài liệu tham khảo 38






    Video liên quan

    Chủ Đề