Trong chế độ bảo vệ của 8086 có máy mức đặc quyền truy cập
You're Reading a Free Preview You're Reading a Free Preview You're Reading a Free Preview
You're Reading a Free Preview You're Reading a Free Preview You're
Reading a Free Preview You're Reading a Free Preview You're Reading a Free Preview You're Reading a Free Preview Thế hệ 0 (Thế hệ tiền x86) Năm 1971 Intel giới thiệu bộ VXL 4004: Bộ vi xử lí tiền x86, là vi xử lí nguyên khối đầu tiên, 4bit, công nghệ pMOS (pMOS) tiên tiến cổng10-μm , 16 thanh ghi, mỗi thanh ghi 4 bit; sử dụng một đường truyền dẫn đơn (bus đơn) có dồn kênh (multiplexed) bốn bit để truyền thông tin (12 -bit địa chỉ, 8 -bit chỉ lệnh, 4 -bit chữ (words) dữ liệu) Thế hệ đầu tiên 1) Bộ vi xử lí 8080 (1974); 8085 (1977) là VXL tiền x86 có bộ chỉ lệnh 8 bit và 16 bit đầu tiên, được dùng trong các máy tính số học
và các máy tính để tính toán và in hoá đơn đi cùng như loại 4004. Nó chưa phải là một máy tính cá nhân chính cống. Thế hệ thứ hai (i286) 1) Năm 1982 Intel 80186,
Intel 80188 ra đời. đây là CPU có bộ chỉ lệnh 16 bit như 8086, không gian địa chỉ vật lí được quản lí bởi 20-bit địa chỉ. 2) Cũng trong năm 1982 Intel cho ra đời Intel
80286 là loại CPU chỉ lệnh16-bit, 24-bit định địa chỉ. Vi xử lí này có đặc điểm: Thế hệ thứ 3: (i386) Năm 1985 hãng Intel cho ra đời vi xử lí Intel 80386 là CPU có kiến trúc thế hệ thứ 3 (i386). 80386 có bộ chỉ lệnh 32-bit,
khả năng định địa chỉ 32 bit.Sau này có hãng công nghệ như AMD được phép của Intel đã cải biên kiến trúc này, nâng khả năng định địa chỉ ảo lên 46-bit. i386 có những đặc điểm sau: Thế hệ thứ tư (i486) Năm 1989, Intel cho ra đời kiến trúc vi xử lí thế hệ thứ tư i486. Vi xử lí Intel
486, hay 80486 là loại CPU chỉ lệnh 32 bit, khả năng định địa chỉ 32 bit như của 80386; định địa chỉ phẳng 32 bit tuyến tính cho phép sử dụng 4 GB bộ nhớ không phải phân vùng. 80486 có những đặc điêm sau: Thế hệ thứ 5 (P5, còn gọi là i586) Năm 1993 Intel cho ra đời thế hệ vi xử lí thứ năm với tên mã là
Pentium, (Pentium MMX) bộ chỉ lênh 32 bit. Thế hệ kiến trúc này được đặt tên là P5. Các vi xử lí P5 có đặc điểm: Thế hệ thứ 6 (P6, còn gọi là i686) 1) Năm 1995 Intel cho ra đời vi xử lí Pentium Pro,
có đặc điểm: 2) Năm 1997 Intel cho ra đời vi xử lí Pentium II rồi sau đó là Pentium III, thế hệ tiếp
theo Pentium Pro nhưng vẫn thuộc vi kiến trúc P6. Đặc điểm của Pen II, III là : Thế hệ thứ 7 (Vi kiến trúc Net burst, còn gọi là i786) 1) Net burst có đặc điểm:
2) Kiến trúc Pentium M (thế hệ 6-M/7-M) Pentium 4-M được chế tạo để chuyên dùng cho máy tính xách tay nhưng không thích hợp lắm với loại máy tính này (nhiệt toả ra nhiều, hao pin…). Năm 2003 Intel cho ra đời Pentium M có kiến trúc lai của P6 và P7 để dùng cho máy tính xách tay thế hệ mới. Nó
là phiên bản dựa trên kiến trúc Pentium III di động đời cuối kết hợp với FSB tăng tốc và sử dụng, hỗ trợ bộ nhớ DDR và DDR2 của Pentium IV-M: 3) Năm 2004, Inten thực hiện kiến trúc mới là x86-64: vi xử lí 64-bit cho dòng Intel x86. (Dòng vi xử lí khác của Intel như Intanium (chủ yếu dùng cho máy chủ) đã có kiến trúc 64 bit nhưng không giống kiểu 64 bit dùng cho x86). Loại vi xử lí pentium IV đầu tiên dùng kiến trúc này là Prescott (nhưng chỉ có Prescott dùng đế LGA 775 mới có kiến trúc 64 bit, loại vi xử lí dùng đế (socket) cũ 478 vẫn là vi xử lí 32 bit, AMD ban đầu là 40 bit). Prescott bit có đặc điểm: bộ chỉ lệnh x86-64, bộ điều khiển bộ nhớ nằm trên cùng tấm silic với vi xử lí (cùng một gói), chạy ống (pipelined) rất sâu sắc , tần số rất cao, thêm bộ chỉ lệnh thứ 3 cho Prescott mới (SSE3), gồm 13 chỉ lệnh thêm vào các chỉ lệnh SSE, SSE2 đã có trước đây. Bộ nhớ cache mức 2 (L2) của các vi xử lí Prescott đã tăng từ 512 kB (các pen 4 đời trước prescott, công nghệ quang khắc > 90 μm) lên 1 MB và từ đây các bộ nhớ cache liên tục được nâng lên. Nên nhớ là cache dùng tế bào nhớ CMOS, để lưu giữ một bit tín hiệu cần 6 tranzito, như vậy cứ tăng 1 MB cache cần tăng 8x6x1024x1024 tranzito (~50,4 triệu tranzito) trong CPU. Thế hệ thứ 8: Vi kiến trúc core (còn gọi i886) Năm
2006 Intel cho ra đời vi xử lí lõi kép có tên mã là Intel Core 2 thuộc kiến trúc core với bộ chỉ lệnh 64-bit. Intel core 2 khác với Intel duo core ở chỗ nó là vi xử lí lõi kép (2 lõi liền trên một mảnh silicon) bộ chỉ lệnh 64 bit, trong khi Intel duo core là loại vi xử lí 2 lõi đời đầu là
sự ghép hai nhân vi xử lí kiểu Pentium M vào một vỏ chung. Vi xử lí kiến trúc core có đặc điểm: Thế hệ thứ 9 (Bonnel) Năm 2008, Intel cho ra đời vi xử lí Intel Atom là thương hiệu của một dòng vi xử lí x86 và x86-64 của Intel có công suất tiêu hao nhiệt cực thấp, và chủ yếu dùng trong netbooks, nettops, và Thiết bị internet di động (Mobile Internet devices – MIDs). Thế hệ tiếp theo của vi xử lí loại này kể cả N450 sẽ còn có công suất tiêu hao nhiệt giảm hơn nữa (giảm 40%). Intel Atom là một thế hệ đặc biệt, ngoài đặc điểm chung là công suất tiêu hao nhiệt cực thấp, được thiết kế trên cơ sở các tranzito trường bù CMOS45 nm, loại này có rất nhiều chủng loại và công dụng khác nhau: CPU dùng cho máy tính để bàn, dùng cho máy tính xách tay; CPU một lõi và 2 lõi; CPU có phân luồng (HT) và không phân luồng…Cùng một nhóm như Z5(6)xx, N2(3,4)xx, D4(5)xx nhưng với các số xx khác nhau, vi xử lí này có thể 32 bit hay 64 bit, phân luồng hoặc không phân luồng, một lõi hoặc hai lõi … vì vậy cần xem xét cụ thể từng CPU để biết rõ tính năng và lĩnh vực sử dụng của nó. Thế hệ thứ 10 (Kiến trúc Nehalem) Năm 2008 Intel cho ra đời thế hệ vi xử lí core i đầu tiên: Intel Core i7 có vi kiến trúc Nehalem. Đến 2010 vi kiến trúc này đặc biệt phát triển (Intel Core i3, Intel Core i5, Intel Core i7) và được hãng này tuyên bố sẽ thay thế hoàn toàn cho kiến trúc core. Đặc điểm của Nehalem là: 1) Đa lõi (Hai, Bốn lõi trên một
phiến đế (duo, quad-core), FPUs 128 bit, SSE4a, Loạt vi xử lí mới nhất Core i7 980X có tới 6 lõi. HÃY CHỜ ĐÓN NHỮNG ĐỔI MỚI CÁCH MẠNG TIẾP THEO CỦA CPU INTEL! Thế hệ thứ 11 (Vi Kiến trúc Sandy Bridge) Vào đầu năm 2011, một vi kiến trúc mới tên là Sandy Bridge đã được Intel giới thiệu. Kiến trúc này giữ tất cả các thương hiệu hiện có từ Nehalem gồm cả Core i3 i5, i7, nhưng đưa ra cách đánh số mới cho kiểu loạiCPU. Bộ vi xử lý Sandy Bridge, ban đầu bao gồm các phiên bản hai và bốn lõi (lõi kép và lõi tứ), tất cả đều sử dụng một đế 32 nm cho cả các lõi CPU và GPU tích hợp trong đó, (không như vi kiến trúc trước đó – Kiến trúc Nehalem – có lõi CPU và GPU cùng đặt trong một vi mạch nhưng thực hiện bằng hai đế silicon khác nhau). Tất cả các Vi xử lý Core i3 i5, i7 với vi kiến trúc Sandy Bridge đều có cách đánh số hiệu kiểu bốn chữ số bắt đầu với con số "2". Với phiên bản máy tính xách tay, tiêu hao năng lượng nhiệt thiết kế không còn dùng kiểu ký hiệu nhờ một hoặc hai ký tự hậu tố nhưng được mã hóa vào số CPU. Bắt đầu với Sandy Bridge, Intel không còn phân biệt các tên mã của bộ vi xử lý dựa trên số lõi, đế cắm hoặc lĩnh vực sử dụng; tất cả chúng đều dùng cùng một tên mã là vi cấu trúc của chính nó. Core i3 Phát hành ngày 20 tháng 1 năm 2011, dòng Core i3-2xxx của các bộ vi xử lý máy tính để bàn và máy tính xách tay là một sự thay thế trực tiếp các sản phẩm Core i3-5xx "Clarkdale" và Core i3-3xxM "Arrandale" của 2010 sản xuất theo kiến trúc mới. Trong khi cần cóđế cắm và chipset mới, người dùng nhận thấy các tính năng của Core i3 hầu như không thay đổi, bao gồm cả việc thiếu hỗ trợ cho tăng tốc nhanh (Turbo Boost và AES-NI – bộ chỉ lệnh mật mã hoátiên tiến Advanced Encryption Standard (AES) Instruction Set. Dòng vi xử lý Core i3 không giống như các bộ xử lý Celeron và Pentium dựa trên vi kiến trúc Sandy Bridge, Core i3 không được hỗ trợ tính năng mới “Mở rộng vectơ tiên tiến” Advanced Vector Extensions. Core i5 Core i7 |