Trụ trì chùa ba vàng là ai

Ngày 12/7, Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra nghị quyết nhất trí bãi nhiệm tất cả chức vụ của đại đức Thích Trúc Thái Minh trong Giáo hội, bao gồm: Ủy viên dự khuyết Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Phó ban Thông tin truyền thông của Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Phó ban thường trực Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Lai Châu; Ủy viên thường trực Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Ninh.

Tuy nhiên, sư Thích Trúc Thái Minh vẫn đảm nhiệm chức vụ trụ trì chùa Ba Vàng ở Quảng Ninh.

Đại đức Thích Trúc Thái Minh, trụ trì chùa Ba Vàng, Quảng Ninh. Ảnh: Viết Tuân.

Ngày 21/3, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đề nghị địa phương chấn chỉnh việc thuyết giảng "vong báo oán" tại chùa Ba Vàng. Thành phố Uông Bí sau đó yêu cầu trụ trì chùa Ba Vàng chấm dứt hoạt động "thỉnh vong", cúng "oan gia trái chủ". Tối cùng ngày, đại đức Thích Trúc Thái Minh tổ chức buổi nói chuyện trước hàng trăm phật tử, phát trực tiếp trên Facebook. Ông cho rằng "vong đi theo con người báo thù rất nhiều, khiến con người bị bệnh tật, vợ chồng bất hòa, mâu thuẫn..., vì vậy cần có pháp thỉnh oan gia trái chủ để thỉnh nó ra". Các phật tử tham gia là tự nguyện, việc đóng tiền làm lễ không phải do nhà chùa yêu cầu mà "theo đề nghị của vong".

Chiều 26/3, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam họp, kết luận đại đức Thích Trúc Thái Minh và chùa Ba Vàng đã vi phạm Hiến chương Giáo hội, "làm tổn thương đến thanh danh Giáo hội, Tăng đoàn".

Thường trực Hội đồng trị sự khu vực phía Bắc đề xuất Chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngay lập tức đình chỉ tất cả chức vụ trong Giáo hội với sư Thái Minh. Giáo hội cũng yêu cầu sư Thái Minh sám hối Đại tăng, giao thượng tọa Thích Thanh Quyết làm thầy giáo giới.

Viết Tuân

Tiểu sử Thầy Thích Trúc Thái Minh - Trụ trì chùa Ba Vàng

Thầy Thích Trúc Thái Minh, thế danh là Vũ Minh Hiếu, sinh ngày 03/03/1967 tại Làng Sen, thôn Ngọc Quan, xã Lâm Thao, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Thầy là người con thứ 5 trong gia đình có 7 anh chị em. Sinh ra trong gia đình giáo dục, nề nếp, có truyền thống đạo Phật, nên ngay từ khi còn bé, Thầy đã bộc lộ bản chất thông minh, hiếu học, thiện lương.

Năm lên 8, đọc được cuốn kinh Chúa Ba chùa Hương, Thầy đã rất xúc động và cảm phục trước tấm lòng đại hiếu của Ngài. Từ đó, Thầy phát khởi suy nghĩ nếu cha mẹ cần đến mắt, tay hay bất kì bộ phận nào trên cơ thể, Thầy sẵn sàng dâng hiến để làm thuốc cứu cho cha mẹ, giống như hành động Chúa Ba vậy.

Năm lên 9 tuổi, trong một lần đi chăn trâu, Thầy nhìn thấy hình ảnh Quan Âm Bồ Tát ẩn hiện trong màn mây trong xanh, một niềm hạnh phúc, hỷ lạc tràn ngập trong tâm của Thầy. Ngay sau khi dắt trâu về, Thầy đã lấy bút vẽ lại hình ảnh đẹp đẽ ấy. Cũng từ đó, niềm tin về sự tồn tại của Đức Phật trong Thầy được hình thành.

Vốn là người thông minh, ham học hỏi, ham tiến bộ, Thầy được tuyển thẳng vào các lớp chọn của trường, của huyện, của tỉnh. Đặc biệt, khi học cấp 3, Thầy được tuyển thẳng vào lớp chuyên Toán duy nhất của trường THPT Lý Hồng Quang - tỉnh Hải Dương. Thời gian thấm thoát trôi qua, Thầy trở thành sinh viên với tấm bằng đỗ đạt trường Đại học Kinh tế Quốc dân cùng tương lai rộng mở phía trước. Trong quá trình học tập, Thầy được đánh giá là một sinh viên xuất sắc nên sau khi ra trường được giữ lại làm giảng viên. Công tác tại trường 5 năm, Thầy được chuyển sang Viện nghiên cứu Chế tạo máy thuộc Bộ Công nghiệp.

Tưởng chừng cuộc sống trôi qua êm đềm với con đường sự nghiệp thăng tiến thì cái chết của người chị họ đã khiến Thầy không khỏi bàng hoàng trước sự vô thường của kiếp nhân sinh. Thầy luôn trăn trở về cuộc đời với những câu hỏi: “Sống để làm gì? Chết là thế nào? Chết rồi là còn hay đã hết? Nếu chết mà còn thì mình sẽ đi về đâu? Nếu chết mà hết thì cuộc đời thật vô nghĩa!”.

Điều này thôi thúc Thầy đi tìm lời giải đáp cho mình. Và khi ấy, Thầy quyết định lên chùa Quán Sứ để tìm câu trả lời qua giáo lý đạo Phật. Khi nghiền ngẫm kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng giải, Thầy hạnh phúc thốt lên: “Đây rồi con đường mình phải đi đây rồi, chân lý là đây!”. Sau đó, Thầy dành nhiều thời gian để nghiên cứu về giáo lý đạo Phật, càng tìm hiểu, niềm yêu thích và trân trọng trong Thầy càng lớn dần lên.

Nhân duyên một lần, Thầy đến thăm nhà một người bạn vốn là Phật tử thuận thành, đọc được 4 câu kệ:

Toàn thân Thầy liền chấn động, Thầy biết rằng mình chân thật mong muốn phát tâm Bồ đề. Sau đó, Thầy đến chùa Quán Sứ với mong mỏi tìm hiểu về Bồ đề tâm nguyện và ngẫu nhiên đọc được một quyển sách có tên: “Khuyến phát Bồ đề tâm văn của Ngài Thật Hiền Đại Sư”.

Sau khi đọc xong, Thầy quyết định phải tìm một vị Thầy để chứng minh cho mình được phát tâm Bồ Đề. Lúc ấy, Thầy cảm nhận được sâu sắc chí nguyện xuất gia mãnh liệt, thôi thúc Thầy phải dấn thân trên con đường cao quý này dù biết chặng đường phía trước còn nhiều khó khăn, thậm chí có những lúc Thầy cũng tính đến chuyện thành lập gia đình.

Tuy nhiên, với tâm tha thiết cầu đạo, Thầy hiểu rằng chỉ có con đường xuất gia là con đường duy nhất cần phải đi bởi đó là con đường đi tới chân hạnh phúc cho mình, mang lại lợi ích cho chúng sinh. Chính vì thế, ngày 19/6/năm Mậu Dần [nhằm ngày 01/8/1998] Thầy cùng với 5 người bạn đồng tu quyết định làm lễ Phát Bồ đề tâm tại Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt dưới sự chứng minh của Hòa thượng Thích Thanh Từ - Viện chủ Thiền viện Trúc Lâm.

Thầy Thích Trúc Thái Minh cùng 5 người bạn vào Thiền viện Trúc Lâm làm lễ phát tâm Bồ đề
Lễ phát tâm Bồ Đề của Thầy Thích Trúc Thái Minh

Sau nhiều lần thuyết phục, động viên, bộc bạch chí nguyện của mình, cuối cùng cha mẹ cũng đồng ý cho Thầy đi xuất gia. Sau đó, Thầy đã sắp xếp công việc cơ quan và tập sự xuất gia tại chùa Phúc Đức [Hà Tây cũ]. Ngày 15/7/Kỷ Mão [nhằm ngày 25/8/1999], đúng một năm sau ngày Phát tâm Bồ đề, Thầy làm lễ Thế phát xuất gia tại Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt. Hòa thượng Thích Thanh Từ đặt Pháp danh cho Thầy là Thích Trúc Thái Minh.

- Thích là lấy theo dòng họ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. - Trúc là lấy theo Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử của vua Trần Nhân Tông. - Thái là to lớn, bao trùm.

- Minh là sáng suốt, lớn rộng.

Nhân duyên Thầy Thích Trúc Thái Minh về và xây dựng chùa Ba Vàng

Năm 2002, Thầy được Hòa thượng Thích Thanh Từ cử ra Bắc để góp sức xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Tại đây, Thầy được giao làm Trưởng Ban Tri khách - nơi đón tiếp du khách, Phật tử khi đến chùa.

Năm 2007, Thầy được nghe Phật tử và huynh đệ đồng tu kể về một ngôi chùa nằm trong quần thể dãy Yên Tử linh thiêng, đó là một ngôi chùa nằm ở nơi núi rừng hoang vu, heo hút, đường đi gập ghềnh, hiểm trở. Nhân duyên một lần được đến thăm chùa, bỗng nhiên Thầy nghe tiếng trong không trung: “Phải về đây, chịu trách nhiệm ở đây”. Sau đó, được sự chấp thuận của chính quyền và sự cho phép của Hòa thượng, sự cung thỉnh của nhân dân, Phật tử, Thầy đã nhận trách nhiệm Trụ trì chùa Ba Vàng.

Ngày Thầy về nhận chức Trụ Trì chùa Ba Vàng, khi ấy chùa chỉ là một gian nhà cấp bốn cũ kỹ, hoang vu ở trên núi cao với những dấu tích còn sót lại từ thời phong kiến nhà Trần. Nơi đây, điện không có, nước cũng không, đường lên chùa thì gập ghềnh, khúc khủyu đầy sỏi đá, mọi thứ đều vô cùng khó khăn.

Lúc ấy, Thầy không có gì ngoài 3 tấm y áo, thức ăn ngày có ngày không, bên dưới Thầy còn có 8 đệ tử nhỏ tuổi, thậm chí, có những hôm đói quá, Thầy đành động viên các đệ tử lên rừng hái sim ăn tạm. Khó khăn, gian truân là thế nhưng với tâm nguyện cao cả là mang ánh sáng Phật Pháp phổ độ và cứu giúp hết thảy quần sinh, Thầy đã kiên trì, vượt qua mọi chướng ngại trong tâm và ngoại cảnh để xây dựng, trùng tu ngôi Bảo Quang Tự hoằng dương chính Pháp.

Chính điện chùa Ba Vàng cũ ngày xưa
Căn phòng khách của ngôi chùa cũ

Những ngày đầu nhận chùa, Thầy không quản ngại khó khăn, vất vả, trực tiếp cùng công nhân mở đường lên ngôi Bảo Quang Tự

Nhờ đó mà đến nay, chùa Ba Vàng được trao bằng kỷ lục Ngôi chùa có tòa Chính điện trên núi lớn nhất Đông Dương, hệ thống điện nước đảm bảo điều kiện cho sinh hoạt và tu tập, con đường lên chùa trở nên rộng mở, khang trang, sạch đẹp, đồng thời chùa có nhiều kiến trúc đặc sắc thu hút khách du lịch cùng với đầy đủ các khu nội viện Tăng chúng, khu tham quan của du khách, khu sinh hoạt Phật tử... Nhân dân Phật tử không khỏi nể phục, kính trọng Thầy đã gắng công, gắng sức tôn tạo ngôi Tam Bảo Ba Vàng nơi rừng núi hoang sơ ngày nào; để ngày nay trở thành tùng lâm Phật giáo khang trang với hàng ngàn Phật tử trong và ngoài nước tề tựu tu học.

Tâm nguyện Bồ đề của Thầy khi về chùa Ba Vàng

Khi tìm hiểu và cảm nhận sâu sắc Phật Pháp vô cùng cao quý, màu nhiệm, Thầy Thích Trúc Thái Minh khởi tâm nguyện mang ánh sáng Phật Pháp phổ độ, làm lợi lạc hết thảy quần sinh. Đó là điều mà sau này thôi thúc khiến Thầy trọn vẹn dấn thân trên con đường đạo Pháp.

Đối với ngôi chùa Ba Vàng, Thầy đã luôn kiên trì, quyết tâm xây dựng và trùng tu ngôi chùa Ba Vàng ngay từ khi khởi công cho tới ngày hoàn thiện để biến nơi đây trở thành nơi tụ hội tâm linh Phật giáo, ai ai cũng được hưởng lợi ích khi về chùa tu học và sinh hoạt.

Chùa Ba Vàng nay trở thành chốn tâm linh linh thiêng, thu hút hàng ngàn tín đồ Phật tử trong và ngoài nước về chùa tu học

Ngoài việc xây dựng chùa Ba Vàng trở thành trung tâm Phật giáo, Thầy Thích Trúc Thái Minh rất coi trọng việc giáo dưỡng và phát triển Tăng chúng. Thầy mong nguyện xây dựng được Tăng đoàn tu tập như thời Đức Phật còn tại thế. Không dám mong được cả 10 phần nhưng làm sao cố gắng được 5, 6 phần.

Cho nên, tại chùa có những khu nội viện biệt lập và đặc biệt có rừng thiền để cho Tăng chúng tu tập và rèn luyện vô cùng miên mật. Bởi Chư Tăng có nghiêm trì giữ giới, tinh tấn tu tập thì mới giữ vững được Phật Pháp, sau đó đem ánh sáng ấy hoằng truyền tới muôn nơi, cứu độ hết thảy cho chúng sinh, khiến chúng sinh thoát khỏi mê lầm, tỏ rọi con đường đi tới chân hạnh phúc cho muôn loài.

Chư Tăng chùa Ba Vàng ngày đêm miên mật tu tập, giữ vững chí nguyện giữ gìn và hoằng truyền giáo Pháp bất tử của Đức Như Lai

Đối với Phật tử, nhân dân thập phương, Thầy và chư Tăng chùa Ba Vàng luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần để mọi người về chùa kết thiện duyên với Tam Bảo, được lợi ích trong chính Pháp Phật, được thực hành pháp lục hòa cao quý, gieo duyên lành trong hiện đời này và nhiều đời sau.

Qua việc áp dụng và thực hành lời Phật dạy thông qua lời giảng giải sâu sắc của Thầy, rất nhiều Phật tử trong và ngoài nước và nhân dân thập phương đã được chuyển hóa thân và tâm theo hướng tích cực: chuyển hóa nghiệp bệnh, công danh sự nghiệp,...

Các Phật tử, nhân dân thập phương về chùa tu học, làm thiện phận sự công đức để kết duyên với Tam Bảo, với chính Pháp Phật

Có thể nói từ nơi hạnh nguyện độ sinh rộng lớn của Thầy mà hiện tại, tính đến nay, chùa Ba Vàng có hàng ngàn Phật tử của hơn 200 đạo tràng trải rộng ở khắp các tỉnh thành như Hà Nội, Lào Cai, Lâm Đồng, Gia Lai, Tiền Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu,... Bên cạnh đó, đạo tràng Phật Tử Xa Xứ cũng đã được thành lập với các Phật tử đến từ hơn 20 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Rất nhiều trường hợp Phật tử chia sẻ câu chuyện Phật Pháp nhiệm màu giúp họ chuyển nghiệp khiến họ thêm kính tín Tam Bảo, siêng tu Phật Pháp.

Đối với thế hệ trẻ, Thầy tâm nguyện cả cuộc đời này, Thầy chắc chắn sẽ là người trồng vườn, ươm vườn trí tuệ, đặc biệt là cho tuổi trẻ. Bởi thế hệ trẻ cần được vun bồi đạo đức, sống có lý tưởng, nhiệt thành để mang lại điều tốt đẹp tới bản thân và xã hội.

Vì vậy hằng năm, Thầy cùng chư Tăng chùa Ba Vàng tổ chức các Khóa tu mùa hè với sự tham gia của hàng ngàn bạn trẻ trên khắp mọi miền Tổ quốc, để các bạn trẻ phát triển kỹ năng, rèn luyện đạo đức, biết sống hướng thiện... Hàng tháng, các khóa tu sinh viên với mục đích tạo môi trường tìm hiểu Phật Pháp cho các bạn học sinh, sinh viên trên khắp các tỉnh miền Bắc; từ đó các bạn biết cách rèn sửa thân tâm, tô bồi hiếu hạnh, hoàn thiện trí tuệ, đạo đức của mình.

Các bạn trẻ tham gia hoạt động tập thể dục buổi sáng rèn luyện sức khỏe tại khóa tu mùa hè chùa Ba Vàng năm 2020

Từ nơi hạnh nguyện Bồ đề, lòng từ bi rộng lớn của Người mà chùa Ba Vàng giờ đây đã trở thành ngôi nhà chung, một chốn tùng lâm, là điểm tựa tâm linh của rất nhiều người. Thầy Thích Trúc Thái Minh là tấm gương sáng ngời về sự hy sinh vì đạo Pháp, vì hạnh phúc của chúng sinh; là nguồn động lực để chúng ta noi theo tu học thực hành Pháp, sống với trái tim rộng mở và tình yêu thương rộng lớn vì đời, vì đạo, vì pháp giới chúng sinh.

Video liên quan

Chủ Đề