Vận dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập vào quá trình học tập
Tài liệu "Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập để phân tích một mâu thuẫn nổi lên có liên quan đến công việc của anh chị" có mã là 211236, file định dạng pdf, có 7 trang, dung lượng file 104 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục: Luận văn đồ án > Khoa học xã hội > Triết học. Tài liệu thuộc loại Đồng Show
Nội dung Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập để phân tích một mâu thuẫn nổi lên có liên quan đến công việc của anh chịTrước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập để phân tích một mâu thuẫn nổi lên có liên quan đến công việc của anh chị để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang. Xem preview Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập để phân tích một mâu thuẫn nổi lên có liên quan đến công việc của anh chịNếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay gọi là quy luật mâu thuẫn) là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và biện chứng duy vật lịch sử khẳng định rằng: mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên đều tồn tại và mâu thuẫn bên trong. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật có rất nhiều mâu thuẫn và sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại được hình thành… Ngay từ thời cổ đại đã có những pháng đoán thiên tài về sự tác động qua lại của các mặt đối lập và xem xét sự tác động đó là cơ sở vận động của thế giới. Nhiều đại biểu triết học cổ đại Phương Đông đã xem vận động do sự hình thành những đối lập và các đối lập ấy luôn luôn vận động. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Hêracơlit- người được Lênin coi là ông tổ của phép biện chứng cho rằng trong sự vận động biện chứng vĩnh viễn của mình, các sự vật đều có xu hướng chuyển sang các mặt đối lập… Tư tưởng biện chứng về những đối lập đạt được đỉnh cao nhất trong sự phát triển của phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức, tiêu biểu là I. Cantơ và G. V. Hêghen. Các antinômi của Cantơ xuất hiện trên cơ sở vượt quá trình độ nhận thức có tính chất kinh nghiệm khi Cantơ xem các mặt đối lập la những đối lập về chất. Song không giải quyết được vấn đề Các antinômi, Cantơ đã đi tới từ bỏ việc thừa nhận các mâu thuẫn khách quan. Ông xem sự tồn tại của mâu thuẫn là bằng chứng nói lên tính bất lực của con người trong việc nhận thức thế giới. Khi nghiên cứu phép biện chứng trong sự vận động và phát triển của “ý niệm tuyệt đối “, Hêghen đã kịch liệt phê phán quan điểm siêu hình về sự đồng nhất (quan điểm này cho rằng đã đồng nhất thì loại trừ mọi sự khác biệt về mâu thuẫn). Theo ông, đó là sự đồng nhất trừu tượng trống rỗng, không bao hàm một nhân tố chân lí nào. Ông quan niệm bất kì sự đồng nhất nào cũng bao hàm sự khác biệt và mâu thuẫn. Ông là người sớm nhận ra vai trò của mâu thuẫn trong quá trình vận động và phát triển:”Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sự sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung lực và hoạt động. Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó. Song do bị chi phối bởi quan niệm duy tâm và lợi ích giai cấp Hêghen đã đẩy việc giải quyết mâu thuẫn không thể điều hoà được trong “xã hội công dân” vào lĩnh vực tư tưởng thuần tuý. Kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu tư tưởng về mâu thuẫn, bằng việc tổng kết từ thực tế lịch sử loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã cho rằng chúng ta phải tìm xung lực vận động và sự phát triển của sự vật trong chính sự vật đó, trong những mâu thuẫn của bản thân sự vật. Quan điểm lý luận đó được thể hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập – Quy luật mâu thuẫn – đây là hạt nhân của phép biện chứng. Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong hiện thực. Ví dụ về mặt đối lập: Trong một nguyên tử có điện tích âm >< điện tích dương; trong cơ thể sống có quá trình đồng hóa >< dị hóa; trong xã hội có giai cấp: g/c thống trị >< g/c bị trị; tư tưởng con người: đổi mới >< bảo thủ. Các mặt đối lập này phải có liên hệ với nhau, nếu tách rời nhau thì chúng không còn là mặt đối lập (xét trong một chỉnh thể). Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là tính quy định ràng buộc lẫn nhau, nương tựa vào nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau giữa các mặt đối lập. Dó đó nếu không có mặt đối lập này thì cũng sẽ không có mặt đối lập kia và ngược lại. Sự thống nhất này còn nói lên sự đồng nhất giữa chúng: có nghĩa là giữa chúng có điểm giống nhau, nên khi biến đổi thì chúng có thể hóa vào nhau. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tương tác qua lại theo xu hướng phủ định, bài trừ nhau của các mặt đối lập. Mâu thuẫn là sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Như vậy mỗi một mâu thuẫn cũng phải bao gồm hai mặt đối lập, hai mặt này vừa thống nhất với nhau đồng thời hai mặt đó đấu tranh qua lại với nhau.
– Phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức mâu thuẫn của sự vật: đó là thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, xuất phát từ bản thân sự vật để tìm ra mâu thuẫn của nó, phải xem xét phân tích một cách chi tiết cụ thể. . . – Phải nắm vững phương pháp giải quyết mẫu thuẫn đó là thông qua đấu tranh giữa các mặt đối lập chứ không được phép dung hòa các mặt đối lập, tuy nhiên phải vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. – Phải biết vận dung linh hoạt các hình thức giải quyết mâu thuẫn thông qua hình thức chuyển hóa mặt đối lập. Đó có thể là một trong hai mặt đối lập chuyển hóa (đồng hóa) vào mặt còn lại (chuyển hóa giai cấp tư sản thành giai cấp vô sản), hoặc mặt này thủ tiêu mặt kia, hoặc cả hai mặt cùng chuyển hóa sang những hình mới của mình (VD: giải quyết mâu thuẫn giữa nông thôn và thành thị: cải tạo nông thôn thành nông thôn mới, làm ranh giới, sự khác biệt giảm dần)
|