Vì sao lòng động mạch nhỏ hơn lòng tĩnh mạch
Thứ hai - 20/01/2020 21:43
PS TS Nguyễn Hoài Nam Chủ tịch Hội Tĩnh mạch học TP Hồ Chí Minh
Do đó, chúng ta có thể chia lực tống máu từ ngoại biên về tĩnh mạch trung tâm thành 2 loại: Những lực tác động từ phía sau và những lực tác động từ phía trước.
Hai lực cuối này là quan trọng nhất trong 4 lực kể trên. Hệ tĩnh mạch Lejard vùng gan bàn chân được tạo thành từ những hồ tĩnh mạch ở gan bàn chân. Hệ tĩnh mạch này tạo thành cung gan bàn chân, và hệ thống này thông với hệ cung mu bàn chân qua những tĩnh mạch xuyên không van, đây là nơi xuất phát của 2 hệ thống tĩnh mạch nông và sâu. Việc đi bộ sẽ tạo sức ép lên các tĩnh mạch vùng gan bàn chân và đẩy máu trở về các nhánh tĩnh mạch gốc của 2 hệ tĩnh mạch nông và sâu. Việc giảm đi, lại hay thay đổi cách đi, dẫn tới thay đổi cách gan bàn chân đặt trên mặt đất; hay việc đứng quá lâu chắc chắn sẽ đưa tới việc ngưng lưu thông máu tĩnh mạch vùng gan bàn chân. Hiện tượng này có thể bị nặng hơn do sự thông nhau của 2 hệ tĩnh mạch mu chân và gan chân qua những nhánh nối không van. Đề cập đến lực co cơ, thì phải nhớ đến nguyên lý: lực hướng lên thì là mở van, những lực hướng xuống làm đóng các van. Trong suốt quá trình đi bộ, các cơ sẽ co và ép lên một phần hệ tĩnh mạch sâu. Chúng ta có thể hình dung quá trình này tương tự như quả bóng hình trụ mà bị bóp ở giữa. Lực hướng lên được tạo phía trên chỗ thắt dẫn tới làm dòng máu chảy hướng lên và các van mở ra, trong khi lực được tạo dưới chỗ thắt sẽ tạo ra lực đi xuống làm các van đóng lại. Các nhánh tĩnh mạch xuyên nằm trên chỗ thắt dẫn lưu cho máu ở hệ tĩnh mạch nông, trong khi những tĩnh mạch dưới chỗ thắt tạo ra ứ đọng ở tĩnh mạch nông và vì thế làm tăng áp lực trong lòng tĩnh mạch. Hiệu ứng tương tự này cũng được ghi nhận ở phía dưới chỗ hẹp lại trong hệ tĩnh mạch sâu. Trong suốt quá trình giãn cơ, máu bị hút từ dưới lên và từ ngoài vào trong do sự khác nhau về áp suất: trên chỗ hẹp thì cao, dưới chỗ hẹp thì thấp. Về phương diện điều trị và phòng ngừa bệnh tĩnh mạch, việc nghiên cứu giải phẫu và sinh lý tĩnh mạch cho thấy:
Những yếu tố đóng góp vào lực tác động từ phía trước.
Các bài viết về bệnh suy tĩnh mạch có thể bạn quan tâm ►GIẢI PHẪU HỌC TĨNH MẠCH CHI DƯỚI ►CÁC DỮ LIỆU DỊCH TỄ HỌC CỦA BỆNH SUY TĨNH MẠCH ►BỆNH BÉO PHÌ VÀ SUY TĨNH MẠCH ►BIẾN CHỨNG CỦA SUY GIÃN TĨNH MẠCH
Số 36 Đường số 1B, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, TP. HCM Điện thoại: (028) 62600818 - 62600848 Web: minhanhhospital.com.vn Fb: facebook.com/bvminhanh Youtube: Minh Anh Hospital Tĩnh mạch hay ven là mạch máu thuộc hệ tuần hoàn trong cơ thể, dẫn máu trở về tim (đối ngược với động mạch đưa máu từ tim ra). Thường thì máu trong tĩnh mạch có lượng oxy thấp khi đưa máu từ các mô trong cơ thể về tim. Hai ngoại lệ là tĩnh mạch rốn và tĩnh mạch phổi. Trong hai trường hợp này máu tĩnh mạch có lượng dưỡng khí cao.
Tĩnh mạch có dạng ống, khi không có dung lượng thì xẹp xuống. Lớp ngoài cùng của tĩnh mạch chủ yếu cấu tạo bằng collagen bao bọc bởi nhiều vòng cơ trơn. Lớp trong cùng của tĩnh mạch là một lớp tế bào nội mô. Đa số các tĩnh mạch đều có van để ngăn ngừa máu chảy ngược chiều hoặc ứ đọng ở các chi dưới vì sức hút của Trái Đất. Vị trí tĩnh mạch thường di dịch ít nhiều theo từng cá nhân, khác với vị trí tương đối cố định của động mạch. Chức năng của tĩnh mạch là đưa luồng máu kém dưỡng khí về tim. Tuần tự trong hệ thống tuần hoàn thì máu từ tim bơm ra sau khi rời tâm thất trái thì theo động mạch luân lưu qua các bộ phận cơ thể và bắp thịt. Máu nhả dưỡng khí (O2) ra và nhận thán khí (CO2) vào ở các vi huyết quản. Sau đó nguồn máu này theo tĩnh mạch trở về tim, vào tâm nhĩ phải rồi qua tâm thất phải trước khi được bơm qua hai lá phổi nơi bộ phận hô hấp nhận dưỡng khí (O2) vào và thả thán khí (CO2) ra. Máu từ phổi trở về tim ở tâm nhĩ trái, rồi qua tâm thất trái, hoàn tất cuộc huyết lưu tuần hoàn.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tĩnh_mạch&oldid=68406803” Từ khóađộng mạchtĩnh mạch
Xem thêm các bài viết tương tự
Xem thêm trong Kiến thức chuyên môn |