Việc kiểm tra đánh giá học sinh tiểu học hiện này có những thuận lợi, khó khăn gì

Những thuận lợi và khó văn tt30 và tt 22

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [57.68 KB, 3 trang ]

: Những thuận lợi, khó khăn trong việc thực hiện thông tư số 30/2014-TTBGDĐT, thông tư 22/2016-TT-BGDĐT[TT 30-22] và cách giải quyết.


Thuận lợi:

- HS hình thành được ý thức, thói quen trong tổ chức, điều hành hợp tác, giao
tiếp,chia sẻ trong học tập. Các em còn có kỹ năng tự nhận xét và nhận xét bạn,
không còn trường hợp HS chịu áp lực về điểm số.
- Đánh giá bằng nhận xét sẽ không gây áp lực cho HS và cả GV. Khi nhận xét,
đánh giá, GV đặc biệt quan tâm động viên, khích lệ, biểu dương kịp thời đối với
từng thành tích của các em. Qua đó, giúp tất cả cùng tiến bộ, nhất là những HS
yếu sẽ tự tin và phấn đấu nhiều hơn.
- GV căn cứ vào các biểu hiện về nhận thức, kĩ năng, thái độ của HS ở từng năng


lực, phẩm chất để nhận xét, có biện pháp giúp đỡ kịp thời cho HS
- Khuyến khích cha mẹ HS trao đổi, phối hợp với GV động viên, giúp đỡ HS rèn
luyện và phát triển năng lực, phẩm chất. Việc trao đổi với cha mẹ của HS giúp cho
GV có cách nhìn khách quan hơn về phẩm chất của HS
- GV chủ động hơn trong việc ghi sổ sách theo dõi từng đối tượng HS
- GVCN khi họp với các GV bộ môn sẽ nhận được thêm nhiều ý kiến, nhận xét về
năng lực cũng như phẩm chất của từng HS từ đó việc đánh giá của GVCN sẽ giảm
tính chủ quan của mình.
- GV dạy môn đặc thù tăng vai trò của mình giúp cho việc đánh giá, nhận xét được
chi tiết hơn về năng lực và phẩm chất.
- Đa dạng hơn về hình thức khen thưởng, không chỉ khen thưởng về mặt thành tích
học tập mà còn khen thưởng các nội dung khác như: HS vượt khó, HS có quá trình


học tập tiến bộ vượt trội từng môn…đã có tác dụng động viên HS, giúp cho HS
học tập và rèn luyện toàn diện hơn.
- Việc đánh giá năng lực hs theo 3 mức: HHT, HT, CHT sẽ khuyến khích đc sự
nỗ lực phấn đấu của hs. Chính các bậc phụ huynh cũng nắm đc năng lực học
tập thực sự của con em mình để giúp các em ngày 1 tiến bộ hơn.
- Về NL-PC TT cũng qui định, thông qua qtr đáng giá thường xuyên đến giữa
và cuối mỗi kì. Lượng hóa mỗi NL-PC thành 3 mức: tốt, đạt và cần cố gắng. Với
việc đánh giá này giúp GV đánh giá HS chính xác hơn, PH nhìn vào đánh giá
kq của nhà trường có những giải pháp kịp thời giúp đỡ HS khắc phục hạn chế,
phát huy những điểm tích cực để các em ngày 1 tiến bộ hơn.
- Về đánh giá thường xuyên về học tập, việc đánh giá theo 3 mức: HTT, HT,
CHT, xét về mặt tâm lý thì 3 mức này nhìn nhận cụ thể hơn kết quả phấn đấu




của học sinh. Đồng thời cung cấp cho giáo viên những phản hồi rất hữu ích
liên quan đến quá trình học tập của học sinh, những lĩnh vực có sự tiến bộ, lĩnh
vực nào còn khó khăn, giúp học sinh nhận ra mình thiếu hụt những gì so với
kiến thức, kĩ năng để cả giáo viên và học sinh cùng điều chình hoạt động dạy và
học.


Khó khăn:

- GV dạy môn đặc thù chỉ dạy trung bình 1 tiết/ 1 tuần nên thời gian quan sát, tiếp


xúc với HS chưa được nhiều vì vậy việc đánh giá phẩm chất của HS sẽ không
chính xác bằng GVCN. Mặt khác, GVCN khó khăn trong việc thu thập thông tin
của học sinh từ những GV dạy môn đặc thù.
- Lời nhận xét dễ bị trùng lặp gây áp lực cho GV trong chắt lọc từ ngữ để nhận xét
sao cho phù hợp với 3 mức đánh giá: HTT, HT, CHT. Phải cân nhắc rất kĩ về
những lời nhận xét cho từng đối tượng học sinh; Làm sao để thông qua lời nhận xét
đó của GV thì HS nhận thức được ý đồ của GV muốn truyền đạt tới HS. Khó nhất
là những HS có học lực giảm sút, nhiều nhận xét k khéo sẽ làm cho PH hoang
mang.
- Đa số phụ huynh HS vẫn còn quá nặng nề về thành tích qua điểm số thay vì đánh
giá, nhận xét thành tích bằng lời.
- Giáo viên khó tìm các biểu hiện và gặp khó khăn khi phân định ranh giới giữa


các mức đánh giá. Khi đánh giá định kì kết quả học tập, ranh giới giữa mức
hoàn thành tốt và hoàn thành khá mơ hồ. Để đánh giá chính xác đòi hỏi GV
trong qtr đánh giá TX phải thu thập nhiều minh chứng. Bên cạnh đó kq học tập
của HSTH thường thiếu tính ổn định, có thể hnay em HHT đạt điểm 9, 10
nhưng ngày mai lại k HT, đạt điểm kém.


Hướng khắc phục:

- GVCN và GV dạy môn đặc thù cần kết hợp với nhau để đánh giá học sinh.
- Tuyên truyền nội dung đánh giá của thông tư 30- 22 tới cán bộ, giáo viên, học
sinh. Tư vấn về cách ghi lời nhận xét, cách nhận xét bằng lời cho GV.


- Tích cực phát huy tác dụng của những ưu điểm trong TT30- 22 để phụ huynh có
thể yên tâm vào việc đánh giá, nhận xét của GV một cách công tâm, khách quan và
làm sao giảm áp lực đối với GV, để GV có thời gian đầu tư nâng cao chất lượng
giảng dạy và Nhà trường quản lý được chất lượng giáo dục. Đồng thời phụ huynh
cần tích cực hơn trong việc phối hợp với GV, Nhà trường để thực hiện tốt Thông tư


30- 22 của Bộ GD & ĐT để đánh giá và nhận xét HS. Có gợi ý đánh giá nhận xét
theo từng mức độ cụ thể, có thể trùng lặp giữa các học sinh có lực học tương
đương.
- Tuyệt đối không so sánh HS này với HS khác; Không chỉ trích những sai phạm
của HS mà phải nhẹ nhàng, khéo léo lựa chọn những từ ngữ phù hợp để nhắc nhở,


động viên các em sửa chữa để vươn lên trong học tập hoặc hoạt động.
- Ngay từ đầu năm học, căn cứ theo TT 30- 22, GV cần thống nhất với phụ huynh
những nhiệm vụ cơ bản của HS ở nhà, hướng dẫn phụ huynh cách theo dõi, quan
sát, nhận xét, giúp đỡ con em mình một cách kịp thời. Thống nhất hình thức, thời
điểm trao thông tin giữa phụ huynh với GVCN một cách linh hoạt hơn.
- GV phải tự học hỏi để tích lũy, làm giàu thêm vốn từ ngữ cho bản thân. Tự rèn
luyện kỹ năng quan sát, theo dõi, bao quát HS.
- Nên dựa vào thang điểm 10 của bài kiểm tra định kì và quá trình đánh giá
thường xuyên để đánh giá học sinh theo các mức: HTT, HT, CHT.




MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC kiểm tra đánh giá kết quả người học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [62.82 KB, 3 trang ]

MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC
KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGƯỜI HỌC
ThS. Nguyễn Huyền Trang
Kiểm tra, đánh giá kết quả người học là khâu quan trọng trong quá trình dạy
học và giáo dục. Xu hướng đánh giá mới trong giáo dục là đánh giá dựa theo năng
lực người học, tức là đánh giá khả năng tiềm ẩn của người học dựa trên kết quả đầu
ra cuối một giai đoạn học tập, là quá trình tìm kiếm minh chứng về việc người học
đã thực hiện thành công các sản phẩm đó. Đánh giá năng lực nhằm giúp giáo viên
có thông tin kết quả học tập của sinh viên để điều chỉnh hoạt động giảng dạy, giúp
học sinh điều chỉnh hoạt động học tập, giúp giáo viên và nhà trường xác nhận, xếp
hạng kết quả học tập. Trong quá trình giảng dạy thực tế, giáo viên còn gặp phải một
số khó khăn trong công tác kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người
học. Cụ thể:
Một là: Bản thân người giáo viên chưa thực sự hiểu một cách sâu sắc về nội
dung và phương pháp đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực
người học. Vì vậy giáo viên còn lúng túng trong quá trình kiểm tra đánh giá. Việc
lựa chọn các câu hỏi trong các bài kiểm tra còn chưa mang lại hiệu quả tốt trong
việc đánh giá năng lực của người học, chưa có độ phân hóa người học cao. Suy nghĩ
của người giáo viên vẫn theo lối mòn của các hình thức kiểm tra và đánh giá cũ đó
là kiểm tra và đánh giá kiến thức của người học mà vẫn chưa xem trọng việc đánh
giá năng lực, quá trình học tập và sự tiến bộ của người học.
Hai là: Trong thực tế giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá còn nghèo
nàn, thiếu tính thực tiễn và sáng tạo. Phần lớn phương pháp kiểm tra đánh giá người
học chủ yếu là làm bài kiểm tra trên giấy, với các hình thức: tự luận, trắc nghiệm
khách quan và hiện tại đang tăng cường hình thức: vấn đáp, thực hành. Các hình
thức này chủ yếu là chứng minh người học nắm vững kiến thức để giải một số bài
tập hoặc giải thích một số hiện tượng liên quan đến những kiến thức đã học. Năng
lực mà người học thể hiện qua các hình thức kiểm tra đánh giá này chủ yếu là năng
lực trình bày, diễn đạt, lập luận, kĩ năng làm bài tập,…Một số kỹ năng mềm như
thuyết trình, xử lý tình huống, làm việc nhóm, tư duy độc lập sáng tạo,… rất cần
trong cuộc sống nhưng khó xác định với cách kiểm tra, đánh giá như trên. Các


phương pháp như người học tự đánh giá, đánh giá theo dự án,… mới chỉ được thực
hiện trong một vài học phần hoặc trong các đề tài nghiên cứu khoa học.
Ba là: Kiểm tra đánh giá tập trung nhiều vào mục tiêu dạy kiến thức mà chưa
chú trọng đến mục tiêu kỹ năng của người học. Việc đo lường năng lực người học
chủ yếu dựa vào điểm số các bài thi, trong khi những tiêu chí rất quan trọng như sức
khỏe, kĩ năng sống, lý tưởng của người học chưa được quan tâm đúng mức. Chính
vì vậy mọi hoạt động của nhà trường đặt trọng tâm vào các kỳ thi, những hoạt động
khác nhằm rèn luyện đạo đức, nâng cao sức khỏe, nâng cao kĩ năng sống chưa đúng
với vai trò và tầm quan trọng của nó. Kiểm tra đánh giá hiện nay chưa chú trọng
đến kỹ năng, thái độ của người học, đôi khi còn mang tính áp đặt. Việc kiểm tra
đánh giá hiện nay chưa làm tăng cường một số kỹ năng ở người học như: kỹ năng
làm việc độc lập, năng lực sáng tạo, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, khả
năng hợp tác với những người xung quanh, khả năng giải quyết xung đột cá nhân,
mức độ tham gia các hoạt động tập thể, khả năng giải quyết vấn đề, khả năng đặt
mục tiêu để hoàn thiện trong tương lai.
Việc đánh giá về đạo đức và sự tiến bộ của người học còn chưa được đề cao.
Việc coi trọng đánh giá về đạo đức và sự tiến bộ của người học không chỉ có tác
dụng hỗ trợ giúp đỡ người học tiến bộ mà sự phối hợp giữa giáo viên và gia đình
trong việc giáo dục người học cũng sẽ được nâng cao hiệu quả. Tuy nhiên, sự phối
hợp giữa phụ huynh và nhà trường trong đánh giá học sinh còn chưa được quan tâm
đúng mực. Đa phần việc liên hệ với gia đình người học chỉ trong những trường hợp
cảnh cáo kết quả học tập.
Bốn là: Mỗi một học phần có 3-4 bài kiểm tra định kì, việc kiểm tra theo hình
thức này đôi khi còn chưa đạt được hiệu quả cao, chưa đánh giá đúng thực chất cả
quá trình học tập của người học và chưa thể hiện được những năng lực người học có
và cần có trong học tập và cuộc sống.
Ngoài ra, quá trình tự học chưa được người học nhận thức đúng, người học
chưa dành nhiều thời gian cho việc tự học, tự nghiên cứu. Một số bộ phận người
học đến sát kì thi mới học, học tủ, học lệch, chưa coi trọng các môn học, chỉ học để
đối phó với các kỳ thi mà chưa nhận thức được ý nghĩa của các môn học trong quá


trình hình thành kiến thức cũng như kĩ năng sống cho bản thân. Người học chưa chủ
đông trong quá trình kiểm tra đánh giá, còn chưa có ý thức trong việc phát huy các
năng lực của bản thân, còn ỉ lại, không chịu khó học hỏi và ngại tham gia các hoạt
động tập thể cũng như các hoạt động ngoại khóa.
Bên cạnh đó các kĩ năng mềm của người học còn hạn chế và chưa được
người học thực sự quan tâm. Trong quá trình lên lớp người học còn e ngại trong
việc thể hiện bản thân mình, chưa chủ động và tích cực trao đổi, giao lưu với bạn bè
và giáo viên về các kiến thức chưa hiểu rõ. Khả năng làm việc một cách độc lập của
người học còn chưa tốt, mặt khác việc hợp tác làm việc nhóm cũng chưa đạt hiệu
quả cao. Thực trạng khi giao bài tập nhóm thì chỉ một vài cá nhân học khá làm bài
thay cho cả nhóm và thiếu sự trao đổi chung cũng như sự làm việc của tất cả các cá
nhân trong nhóm. Kĩ năng thuyết trình trước đám đông chưa được người học quan
tâm nhiều. Khi được giao bài trình bày trước tập thể thì người học thường đùn đẩy
nhau mà chưa tự giác và chưa ý thức về nhiệm vụ của mình. Kĩ năng sử dụng công
nghệ thông tin trong các bài học, bài thảo luận, bài thuyết trình của người học còn
chưa tốt. Các học phần tin học còn chưa thực sự thu hút được người học dẫn đến
tình trạng người học học một cách chống chế và qua loa và chưa ứng dụng những gì
đã được học vào trong thực tiễn. Bên cạnh những yếu tố tích cực, sự hiện đại của
mạng xã hội, của công nghệ thông tin mang đến cho người học đời sống ảo dẫn đến
sự hợp tác làm việc trong đời thực, chẳng hạn sự hợp tác để làm việc nhóm giải
quyết các bài tập lớn còn hạn chế. Người học còn thiếu sự quan tâm lẫn nhau và
thậm chí một số người học còn thờ ơ lãnh đạm với những người xung quanh. Điều
này dẫn đến kết quả của bài tập lớn còn chưa phản ánh đúng thực trạng của việc hợp
tác nhóm.
Trên đây là một số khó khăn mà giáo viên gặp phải khi thực hiện việc kiểm
tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người học mà cá nhân tôi muốn trao đổi,
nhằm tìm ra các giải pháp để cải thiện tình trạng kiểm tra đánh giá hiện nay cũng
như để phát huy tốt nhất những năng lực của người học, để việc kiểm tra đánh giá
kết quả sẽ phản ánh đúng những gì người học cố gắng trong suốt quá trình học tập.
Hơn nữa, để người học nhìn vào kết quả kiểm tra đánh giá để cố gắng hoàn thiện


bản thân mình cả về kiến thức và kĩ năng sống. Để người học có thể phát huy hết
những năng lực mà mình có. Và người học sẽ đáp ứng được nhu cầu của xã hội.

Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện Thông tư 22 là gì?

Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện thông tư 22 là gì? Nếu bạn đang quan tâm đến chủ đề này thì hãy theo dõi bài viết dưới đây!

Thông tư 22 ra đời, bổ sung thêm 13 điều trong tổng số 20 điều so với Thông tư 30 về đánh giá học sinh tiểu học và có hiệu lực từ 06/11. Và cũng không tránh khỏi việc nhiều giáo viên băn khoăn và trăn trở với thông tư 22. Vậy những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện Thông tư 22 là gì? Nếu bạn đang quan tâm đến chủ đề này hãy theo dõi bài viết sau đây!

Hình 1: Đánh giá kết quả thực hiện Thông tư 22

Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện thông tư 22


Học sinh Tiểu học được đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo Văn bản hợp nhất số 03 [ảnh tư liệu]

Quán triệt, triển khai, thực hiện đánh giá theo quy định mới của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT đã có công văn hướng dẫn đến các đơn vị trực thuộc, tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông, tại các buổi đối thoại với người dân, cán bộ, giáo viên [GV], phụ huynh [PH] HS. Đội ngũ GVTH được tham gia các lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ từ cấp tỉnh đến cấp huyện, tập huấn theo cụm trường, chia nhiều đợt, nhiều lớp. Sở GD&ĐT tổ chức 6 hội giảng, thao giảng chuyên môn giáo dục TH cấp tỉnh tại TP.Sa Đéc, huyện Tân Hồng, Tam Nông. Tổ chức 13 tiết dạy, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm, phương pháp dạy học, giáo dục hòa nhập. Lãnh đạo Phòng GD&ĐT xây dựng kế hoạch triển khai, đánh giá HSTH, thành lập Tổ công tác chuyên môn kịp thời hỗ trợ GV trong quá trình thực hiện. GV áp dụng đánh giá mới đối với HS, chủ động điều chỉnh hình thức, nội dung dạy học, giúp đỡ những HS còn hạn chế. GV thể hiện tinh thần trách nhiệm, hỗ trợ giúp đỡ, đánh giá đúng khả năng của HS. Hoạt động bàn giao chất lượng giáo dục cuối năm học được các đơn vị trường rà soát, không để HS không đạt chuẩn lên lớp. Những HS thật sự giỏi sẽ được khen thưởng theo quy định, không khen thưởng tràn lan gây bức xúc cho PHHS.

Việc nhận xét, đánh giá kết quả học tập theo phương pháp mới không đánh giá bằng điểm số phần nào giải tỏa tâm lý áp lực, tự ti, thua kém bạn bè của các em HS có học lực trung bình, yếu. Với 3 mức đánh giá “Hoàn thành tốt”, “Hoàn thành”, “Chưa hoàn thành” giúp các em HS phát hiện những hạn chế để cố gắng hơn trong học tập. Một số em HS có học lực khá, giỏi được GV khuyến khích hướng dẫn, giúp đỡ những bạn có học lực trung bình, yếu. Những HS giỏi được tạo điều kiện rèn luyện phát huy năng khiếu, năng lực học tập, biết đoàn kết thương yêu giúp đỡ bạn trở thành những tấm gương tốt.

Anh Nguyễn Văn Hậu ngụ phường 2, TP.Cao Lãnh có con học tại Trường TH Chu Văn An, TP. Cao Lãnh cho biết: “Cả lớp 1 và lớp 2 cháu đều được đánh giá bằng hình thức hoàn thành tốt, hoàn thành, chưa hoàn thành chứ không ghi điểm số cụ thể. Con tôi ngoài giờ học, tham gia các hoạt động phong trào trong trường. Cuối năm học vừa qua, cháu được nhận phần thưởng do hoàn thành tốt. Những hạn chế của cháu trong khi học được GV thường xuyên thông tin cho tôi biết, vì vậy tôi nghĩ GV nhận xét về cháu những điểm mạnh, yếu cũng khá chính xác”. Cho biết ý kiến về cách đánh giá đối với HSTH, chị Nguyễn Thị Ngọc Hương ngụ khóm II, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười cho biết: “Nếu muốn kiểm tra, quản lý việc học của con mình tốt, sau giờ học, PHHS phải mở tập kiểm tra thêm xem con làm bài như thế nào để biết bồi dưỡng, rèn luyện thêm cho con, chứ không thể giao hết cho thầy, cô trong trường”.

Đối với HS khối lớp 4 và lớp 5, riêng môn Toán, Tiếng Việt có thêm bài kiểm tra định kỳ giữa học kỳ, giúp GV, HS, PHHS có thêm thông tin về kết quả học tập.

Cùng với những thuận lợi, đánh giá HS theo quy định mới GV sẽ gặp khó khăn bởi tâm lý một số PHHS vẫn còn “thích” điểm số. Bản thân GV quen với phương pháp giảng dạy cũ sẽ khó và chậm khi thực hiện điều chỉnh phương pháp giảng dạy mới. Ban giám hiệu các trường khó đánh giá chất lượng học tập của HS, chất lượng, năng lực giảng dạy của GV. Một số GV chưa tận tâm khi nhận xét vào vở, sản phẩm học tập của HS, nên PHHS chưa có nhiều thông tin về con em của mình để có phương pháp bồi dưỡng kịp thời.

Năm học 2018 – 2019, HS TH tiếp tục được đánh giá theo Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT. Sở GD&ĐT đã xây dựng các kế hoạch tổ chức hoạt động chuyên môn cấp tỉnh, huyện, thị xã, thành phố, chủ động phối hợp cùng PHHS. Đồng thời, kiến nghị Bộ GD&ĐT sớm điều chỉnh, nâng cấp các phần mềm để các đơn vị xử lý số liệu thuận lợi. Tổ chức hội nghị sơ kết phạm vi toàn quốc giúp các địa phương chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm.

C.Phương

Nội dung cơ bản của Thông tư 22

Trước khi đi vào tìm hiểu về Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện Thông tư 22 chúng tôi chia sẻ những nội dung cơ bản của Thông tư 22.

Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2021 của Bộ Giáo dục – Đào tạo Quy định về đánh giá học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông gồm 2 nội dung cơ bản:

– Phương thức đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh.

– Cách thức sử dụng kết quả đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh.

Thứ nhất: Về phương thức đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh

Đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh được thực hiện như sau:

– Căn cứ đánh giá: Giáo viên dựa vào quá trình học tập của học sinh tại trường, qua đó thể hiện phẩm chất chủ yếu và năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học; mặt khác, thông qua bản đánh giá của chính học sinh và phụ huynh học sinh để đưa ra nhận xét cuối cùng về năng lực rèn luyện của học sinh.

– Phương thức tính kết quả rèn luyện của học sinh

+ Phương thức tính được dưa trên từng kỳ học và cả năm học.

+ Kết quả rèn luyện của học sinh trong từng học kỳ và cả năm học được đánh giá theo 01 [một] trong 04 [bốn] mức: Tốt, Khá, Đạt, Chưa đạt.

+ Kết quả rèn luyện trong từng kỳ học được đánh giá dựa trên các căn cứ đánh giá đã được nêu ở phần trên.

+ Kết quả rèn luyện cả năm dựa trên kết quả rèn luyện của học kỳ một và học kỳ hai.

Đánh giá kết quả học tập của học sinh được tính như sau:

– Đánh giá kết quả học tập của học sinh dựa theo môn học

+ Đối với các môn học đánh giá bằng nhận xét: Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Âm nhạc, Mỹ thuật, Nội dung giáo dục của địa phương, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp, … Trong một kỳ, kết quả học tập mỗi môn học của học sinh được đánh giá theo 01 [một] trong 02 [hai] mức: Đạt, Chưa đạt; Và để đánh giá cả năm học sẽ dựa vào mức đánh giá kết quả học tập học kỳ II của học sinh.

+ Đối với các môn học đánh giá bằng nhận xét kết hợp đánh giá bằng điểm số. Trong đó, điểm trung bình môn học kỳ [ĐTBmhk] đối vói mỗi môn học được tính như sau:

TĐĐGtx + 2 x ĐĐGgk + 3 x ĐĐGck

ĐTBmhk =

Số ĐĐGtx + 5

Và điểm trung bình môn cả năm [ĐTBmcn]được tính như sau:

ĐTBmhkI + 2 x ĐTBmhkII

ĐTBmcn =

3

Trong đó:

TĐĐGtx: Tổng điểm đánh giá thường xuyên.

ĐĐGgk: Điểm đánh giá giữa kỳ.

ĐĐGck: Điểm đánh giá cuối kỳ.

ĐĐGtx: Điểm đánh giá thường xuyên.

ĐTBmhkI: Điểm trung bình môn học kỳ I.

ĐTBmhkII: Điểm trung bình môn học kỳ II.

Thứ hai: Phương thức sử dụng kết quả đánh giá rèn luyện và học tập của học sinh

Kết quả đánh giá của học sinh được sử dụng và các mục đích sau:

– Xem xét việc được lên lớp, đánh giá lại trong kỳ nghỉ hèm hoặc không được lên lớp của học sinh.

– Xem xét để khen thưởng những học sinh có thành tích tốt trong học tập.

Video liên quan

Chủ Đề