Xây dựng giả thuyết trong nghiên cứu khoa học

Một giả thuyết xác định các đặc điểm có thể có của các biến và các mối quan hệ tồn tại giữa các biến này. Tất cả các nghiên cứu khoa học phải bắt đầu từ một hoặc một số giả thuyết nhằm chứng minh.

Một giả thuyết là một giả định có thể được xác minh bằng nghiên cứu khoa học. Nói cách khác, các giả thuyết là sự hình thành của vấn đề: chúng thiết lập các mối quan hệ có thể có giữa các biến.

Xây dựng giả thuyết trong nghiên cứu khoa học

Có nhiều cách khác nhau để phân loại các giả thuyết theo các tiêu chí khác nhau. Phổ biến nhất là phân biệt giữa các giả thuyết null, giả thuyết chung hoặc lý thuyết, giả thuyết làm việc và giả thuyết thay thế. Đổi lại, trong mỗi loại, các kiểu con khác nhau được xác định.

Chỉ số

  • 1 Giả thuyết và phương pháp khoa học
  • 2 loại giả thuyết chính trong một cuộc điều tra khoa học
    • 2.1 - Giả thuyết không
    • 2.2 - Giả thuyết chung hoặc lý thuyết
    • 2.3 - Giả thuyết công việc
    • 2.4-Giả thuyết bên ngoài
  • 3 loại giả thuyết khác
    • 3.1 - Giả thuyết tương đối
    • 3.2 Giả thuyết có điều kiện
  • 4 phân loại thay thế có thể
    • 4.1 - Giả thuyết xác suất
    • 4.2 - Giả thuyết xác định
  • 5 tài liệu tham khảo

Giả thuyết và phương pháp khoa học

Trong phương pháp khoa học sẽ cố gắng chứng minh tính hợp lệ của một giả thuyết chính. Điều này được gọi là một giả thuyết làm việc. Nếu muốn điều tra một số giả thuyết hợp lý, các giả thuyết thay thế sẽ được xem xét. Trong giả thuyết làm việc và giải pháp thay thế, có ba loại phụ: giả thuyết quy kết, liên kết và nguyên nhân.

Không giống như các giả thuyết làm việc và thay thế, định lượng mối quan hệ giữa các biến, các giả thuyết chung hoặc lý thuyết thiết lập mối quan hệ khái niệm giữa chúng. Mặt khác, cũng có giả thuyết không, đó là giả thuyết xác định rằng không có mối quan hệ liên quan giữa các biến đang nghiên cứu.

Nếu tính hợp lệ của giả thuyết làm việc và các giả thuyết thay thế không thể được chứng minh, giả thuyết khống sẽ được chấp nhận là hợp lệ. Ngoài những loại này còn có các loại giả thuyết khác, chẳng hạn như loại tương đối và có điều kiện. Họ cũng có thể được phân loại theo các tiêu chí khác; Ví dụ, có thể phân biệt giữa các giả thuyết xác suất và xác định.

Các loại giả thuyết chính trong một cuộc điều tra khoa học

Xây dựng giả thuyết trong nghiên cứu khoa học

-Giả thuyết không

Giả thuyết khống cho rằng không có mối quan hệ giữa các biến nghiên cứu. Vì lý do này, nó còn được gọi là một giả thuyết không liên quan.

Giả thuyết này sẽ được chấp nhận nếu cuộc điều tra cho thấy giả thuyết hoạt động và các giả thuyết thay thế không hợp lệ.

Ví dụ

"Không có mối quan hệ giữa màu tóc của học sinh và kết quả học tập của họ".

-Giả thuyết chung hoặc lý thuyết

Các giả thuyết chung hoặc lý thuyết là những giả thuyết được xây dựng theo cách khái niệm, mà không định lượng các biến.

Thông thường, những giả thuyết này có được thông qua một quá trình cảm ứng hoặc khái quát hóa dựa trên sự quan sát các hành vi tương tự.

Ví dụ

"Học sinh càng học nhiều giờ, điểm số càng tốt".

Trong số các giả thuyết lý thuyết có các giả thuyết khác nhau, đó là những giả thuyết xác định rằng có sự khác biệt giữa hai biến nhưng không đo lường được độ lớn của chúng. Ví dụ: "trong trường đại học số lượng sinh viên quốc gia nhiều hơn số lượng sinh viên quốc tế".

-Giả thuyết công việc

Giả thuyết công việc là một giả thuyết được cố gắng chứng minh hoặc hỗ trợ thông qua nghiên cứu khoa học.

Những giả thuyết này có thể được xác minh bằng thực nghiệm, vì vậy chúng còn được gọi là giả thuyết hoạt động.

Nói chung, chúng được lấy từ việc khấu trừ: dựa trên các luật chung được quy định cụ thể trong một trường hợp cụ thể. Giả thuyết làm việc có thể là do, kết hợp hoặc nguyên nhân.

- Thuộc tính

Giả thuyết quy kết hoặc phổ biến điểm mô tả các sự kiện. Giả thuyết này được sử dụng để mô tả các hành vi thực tế, có thể đo lường được và có thể phân biệt với các hành vi khác. Giả thuyết quy kết bao gồm một biến duy nhất.

Ví dụ

"Phần lớn sinh viên tại trường đại học là từ 18 đến 23 tuổi".

- Liên kết

Giả thuyết kết hợp thiết lập mối quan hệ giữa hai biến. Nếu biến đầu tiên được biết, có thể dự đoán biến thứ hai.

Ví dụ

"Có gấp đôi số sinh viên trong khóa đầu tiên so với khóa cuối cùng".

- Nhân quả

Giả thuyết nguyên nhân xác định mối quan hệ giữa hai biến. Sự tăng hoặc giảm của biến thứ nhất xác định mức tăng hoặc giảm trong biến thứ hai. Các biến này được gọi là "nguyên nhân" và "hiệu ứng", tương ứng.

Để chứng minh một giả thuyết nguyên nhân, sự tồn tại của mối quan hệ nguyên nhân hoặc mối quan hệ thống kê phải được xác định. Nó cũng có thể được chứng minh bằng cách loại bỏ các giải thích thay thế. Công thức của những giả thuyết này thuộc loại: "Có ... sau đó ...".

Ví dụ

"Nếu một học sinh học thêm 10 giờ mỗi tuần, thì điểm của anh ta sẽ cải thiện một điểm trong số mười".

-Các giả thuyết thay thế

Các giả thuyết thay thế cố gắng trả lời cùng một vấn đề như các giả thuyết làm việc. Tuy nhiên, như tên của họ cho thấy, họ tìm kiếm những lời giải thích khác nhau có thể. Do đó, có thể kiểm tra các giả thuyết khác nhau trong quá trình điều tra tương tự.

Chính thức, những giả thuyết này làtương tự như giả thuyết công việc. Họ cũng có thể được phân loại là thuộc tính, liên kết và nhân quả.

Các loại giả thuyết khác

Một số tác giả xác định các loại giả thuyết ít phổ biến khác. Ví dụ:

-Giả định tương đối

Các giả thuyết tương đối đánh giá ảnh hưởng của hai hoặc nhiều biến số khác.

Ví dụ

"Tác động của việc tăng giá đối với số lượng sinh viên đại học ít hơn ảnh hưởng của việc giảm lương đối với số lượng sinh viên đại học".

Biến 1: tăng giá

Biến 2: giảm lương

Biến phụ thuộc: số lượng sinh viên đại học.

-Giả thuyết có điều kiện

Các giả thuyết có điều kiện cho rằng một biến phụ thuộc vào giá trị của hai biến khác. Trong trường hợp này, các giả thuyết tương tự như nguyên nhân, nhưng có hai biến "nguyên nhân" và một biến "hiệu ứng".

Ví dụ

"Nếu học sinh không mang bài tập đến và trễ, em sẽ bị đuổi khỏi lớp".

Nguyên nhân 1: không mang theo bài tập.

Nguyên nhân 2: đến muộn.

Tác dụng: bị trục xuất.

Để biến "hiệu ứng" được hoàn thành, không đủ để một trong hai biến "nguyên nhân" được đáp ứng: cả hai phải được đáp ứng.

Phân loại thay thế có thể

Việc phân loại giả thuyết nghiên cứu khoa học đã được đưa ra là thông thường nhất. Tuy nhiên, cũng có thể phân loại các giả thuyết dựa trên các tiêu chí khác.

Ví dụ, có thể phân biệt giữa các giả thuyết xác suất và xác định.

-Giả thuyết xác suất

Những giả thuyết này cho thấy rằng có một mối quan hệ giữa các biến được đáp ứng trong hầu hết dân số.

Ví dụ

"Nếu một học sinh không học, anh ta sẽ đình chỉ".

-Giả thuyết xác định

Những giả thuyết này cho thấy mối quan hệ giữa các biến luôn được đáp ứng.

Ví dụ

"Nếu một học sinh không xuất hiện trong kỳ thi, anh ta sẽ đình chỉ".

Tài liệu tham khảo

  1. Fernández Guerrero, G. Phương pháp nghiên cứu. Đại học Luân Đôn Có sẵn tại: s3.amazonaws.com
  2. Kumar, R. 1999. Phương pháp nghiên cứu. Hướng dẫn từng bước cho người mới bắt đầu. Luân Đôn: SAGE Publications Ltd. Có tại: xã hội học.kpi.ua
  3. Chủ sở hữu, L.C. 2015. Nghiên cứu và viết theo kinh nghiệm: Hướng dẫn thực hành của sinh viên khoa học chính trị. Singapore: Báo chí CQ.
  4. Sabino, C. 1992. Quá trình nghiên cứu. Venezuela: Panapo.
  5. Cao đẳng thành phố Sacramento. Giả thuyết nghiên cứu: các loại. Có sẵn tại: scc.losrios.edu

Không Có Bình Luận

{{ListComment.length}} Bình luận

Đặt vấn đề > Ý nghĩa của đề tài > Tổng quan nghiên cứu > Đối tượng và Khách thể nghiên cứu > Phạm vi (không gian, thời gian, nội dung nghiên cứu) > Câu hỏi nghiên cứu > Giả thuyết nghiên cứu > Phương pháp nghiên cứu > Khung phân tích.

Xây dựng giả thuyết trong nghiên cứu khoa học

Ở bài viết này, mình sẽ chia sẻ cho các bạn một số nội dung liên quan tới câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu. Đây là thông tin tối quan trọng trong nghiên cứu khoa học, song lại thường xuyên bị xem nhẹ khi xây dựng đề cương nghiên cứu

6. Câu hỏi nghiên cứu là gì ?

Câu hỏi nghiên cứu (research question) là trạng thái nghi vấn về vấn đề nghiên cứu, nhất thời chưa có lời giải đáp. Có thể thấy, điều duy nhất cần làm với câu hỏi nghiên cứu chính là: trả lời nó

Bạn cần hiểu ràng, bản chất của nghiên cứu khoa học là việc bắt đầu từ sự tò mò quan sát sau đó đặt ra các câu hỏi và đi tìm câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi đó. Tuy rằng câu hỏi nghiên cứu đã được manh nha hình thành từ lúc bạn xác định vấn đề nghiên cứu hay quan sát nhưng đôi khi chỉ mới tồn tại ở dạng quan niệm hoặc khái niệm chưa rõ ràng.

Bạn đang xem: Ví dụ về giả thuyết nghiên cứu

Để hình thành nên câu hỏi nghiên cứu, bạn cần phát biểu một cách gãy gọn về việc nghiên cứu của bạn sẽ đi trả lời cho câu hỏi nào. Bạn nên tránh việc đưa ra một câu hỏi quá lớn, hoặc thiếu tự tin mà đưa ra câu hỏi quá manh mún. Thay vào đó, hãy tách câu hỏi lớn ra thành từ 2 - 3 câu hỏi nhỏ, đủ chi tiết cho các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu. Theo kinh nghiệm, việc đi tìm câu trả lời cho từng câu hỏi sẽ là nội dung phân tích được trình bày gọn trong mỗi chương của báo cáo nghiên cứu; còn đề mục của chương chính là trạng thái không nghi vấn của chính câu hỏi đó.

Ví dụ: Câu hỏi: Hiện tượng xăm mình của giới trẻ Việt Nam hiện nay biểu hiện qua các chiều cạnh nào? Trả lời: hiện tượng xăm mình của giới trẻ Việt Nam có thể được biểu hiện của các chiều cạnh cụ thể như: số lượng hình xăm, vị trí xăm và thời điểm xăm. Triển khai trong báo cáo: Chương 2: Thực trạng xăm mình của giới trẻ Việt Nam hiện nay. 2.1. Số lượng hình xăm; 2.2. Vị trí xăm; 2.3. Thời điểm xăm

Xây dựng giả thuyết trong nghiên cứu khoa học

Câu hỏi nghiên cứu có vai trò quan trọng trong việc xác định đích đến của nghiên cứu. Thiếu câu hỏi nghiên cứu, bạn sẽ khó lòng xác định được nội dung cụ thể cần thực hiện và dễ dàng lạc lối sau một thời gian triển khai. Tương tự như vấn đề nghiên cứu, hãy dành cho mình một khoảng thời gian đủ để đưa ra các chiều cạnh cần khai thác trong mỗi vấn đề thay vì lao đầu vào làm khảo sát

Xin được trích dẫn câu nói của Bernard Marr, nhà khoa học dữ liệu lớn nổi tiếng trong thế kỷ XXI: "Đừng bắt đầu bằng dữ liệu, hãy bắt đầu bằng câu hỏi". Điều này có nghĩa rằng các nghiên cứu nên được định hướng bởi hệ thống các câu hỏi, kế đến đi tìm dữ liệu phù hợp để trả lời và cần chắc chắn rằng câu trả lời hoàn toàn tương thích và logic với câu hỏi, kể cả khi đáp án là một con số 0 tròn trĩnh.

7. Giả thuyết nghiên cứu

Nếu câu hỏi nghiên cứu là trạng thái nghi vấn về vấn đề nghiên cứu, thì giả thuyết nghiên cứu (research hypothesis) là câu trả lời tạm thời cho câu hỏi nghiên cứu. Điều duy nhất ta cần làm với giả thuyết nghiên cứu là đi tìm bằng chứng để chấp nhận (accept) hay bác bỏ nó (reject).

Giả thuyết nghiên cứu là một vấn đề trừu tượng dễ làm nản lòng những người đang tập tành làm nghiên cứu khoa học. Nếu nhìn nhận mọi chuyện theo một góc nhìn bình dân hơn, bạn có thể nhận ra việc chúng ta sử dụng giả thuyết hằng ngày nhưng không phải khi nào cũng để ý. Hãy tạm quên đi sự khô khan của khoa học và quay lại với các tiểu thuyết ngôn tình.

Xây dựng giả thuyết trong nghiên cứu khoa học

---

Thử liên tưởng tới việc một cô gái tự hỏi, ví dụ: “Anh ấy có yêu mình không nhỉ?”. Sau đó cầm bông hoa trên tay và ngắt từng cánh hoa, cùng câu nói: “Yêu” , “Không yêu”, “Yêu” , “Không yêu”...

Các bạn có thể thấy, việc cô gái đặt nghi vấn về tình cảm của chàng trai giành cho mình - chính là câu hỏi nghiên cứu. Câu trả lời cho câu hỏi này có thể diễn ra hai khả năng: Hoặc, bị từ chối tình cảm (Không yêu) hoặc là được đáp lại tình cảm ấy (Có yêu). Cả hai khả năng này đều chưa xảy ra trong thực tế, nên chỉ là câu trả lời tạm thời cho câu hỏi nghiên cứu. Nói một cách cơ học - đây chính là giả thuyết nghiên cứu.

Hãy làm rõ hơn về điều này. Một giả thuyết thường được phát biểu theo hai dạng, "giả thuyết không" (null hypothesis, ký hiệu là H0) và "giả thuyết đối" (alternative hypothesis, ký hiệu là H1). Giả thuyết không phát biểu về hiện trạng không tồn tại của hiện tượng, trong khi đối thuyết là giả thuyết ngược lại với giả thuyết không

Quay trở lại với câu chuyện của cô gái, các giả thuyết có thể được phát niểu như sau:

Giả thuyết H0 = cô gái bị từ chàng trai chối tính cảm (không yêu)Giả thuyết H1 = cô gái nhận được tình cảm đáp lại từ chàng trai (có yêu)

Công việc của nhà nghiên cứu lúc này là đi tìm bằng chứng để có thể bác bỏ hoặc chấp nhận các khả năng có thể xảy ra nhằm trả lời câu hỏi ban đầu. Để kiểm chứng được các khả năng này (kiểm chứng giả thuyết), cô gái quyết định đi hỏi thẳng chàng trai hoặc gạ chuyện vu vơ xem thử tình cảm của anh chàng giành cho mình như thế nào - đây chính là hoạt động nghiên cứu.

Quá trình thu thập và phân tích dữ liệu cho ra kết quả sơ bộ:

Tình huống 1: Giả sử, chàng trai có các biểu hiện đại loại như tiến đên ôm hôn cô gái này nồng nhiệt, gật đầu đồng ý, cười hạnh phúc... ngụ ý “anh cũng yêu em” và cô gái này cũng hiểu được tín hiệu đó - bạn có thể chấp nhận giả thuyết H1, bác bỏ giả thuyết H0.

=> Trả lời câu hỏi nghiên cứu: “Chàng trai có tình cảm với cô gái”.

Tình huống 2: Giả sử, chàng trai này không hề có các biểu hiện trên, thậm chi còn có các biểu hiện như cao chạy xa bay, hay một đi không trở lại - ngụ ý “anh không yêu em” và cô gái này cũng hiểu được tín hiệu đó - bạn có thể chấp nhận giả thuyết H0, bác bỏ giả thuyết H1.

Xem thêm: Nghệ Thuật Nói Chuyện Hài Hước Và Vui Tính, 5 Điều Cần Nhớ Để Nói Chuyện Hài Hước Hơn

=> Trả lời câu hỏi nghiên cứu: “Chàng trai không có tình cảm với cô gái”.

Vấn đề nghiên cứu xem như đã được giải quyết !

---

Tất nhiên trên đây chỉ là câu chuyện vui giúp bạn hình dung được giả thuyết nghiên cứu. Trong thực tế nghiên cứu khoa học, các bạn sẽ cần phát biểu giả thuyết gãy gọn, rõ ràng, khúc chiết hơn. Bài viết này chỉ kỳ vọng các bạn có thể hình dung được giả thuyết nghiên cứu là gì.

Xây dựng giả thuyết trong nghiên cứu khoa học

Cũng lưu ý với các bạn rằng, giả thuyết nghiên cứu (research hypothesis) có một chút khác biệt với giả thuyết thống kê (statistical hypothesis).

Giả thuyết nghiên cứu rộng hơn giả thuyết thống kê và là câu trả lời tạm thời cho cả nghiên cứu tịnh tính lẫn định lượng. Trong khi giả thuyết thống kê dựa mức ý nghĩa thống kê (statistical significance) để chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết nên thường được sử dụng như công cụ chủ lực trong nghiên cứu định lượng.

Quan điểm cho rằng nghiên cứu định tính chỉ có câu hỏi nghiên cứu; nghiên cứu định lượng chỉ có giả thuyết nghiên cứu; còn nghiên cứu hỗn hợp thì có cả hai là chưa thỏa đáng. Vì bản chất của nghiên cứu là trả lời câu hỏi thông qua việc đặt câu hỏi và kiểm định câu trả lời. Vậy nên câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu là thành phần không thể thiếu trong mọi nghiên cứu.

Kết luận

Hãy chắc chắc rằng bạn sẽ trả lời câu hỏi và kiểm định giả thuyết trước khi khép lại nghiên cứu của mình. Câu trả lời cho hai phần này không chỉ dược trình bày trong phần nội dung chính mà còn được nhắc lại một cách rõ ràng ở phần kết luận. Đừng quên rằng bản chất sâu sa của nghiên cứu không phải là việc đi tìm câu trả lời đúng / sai mà tìm bằng chứng để chấp nhận / hay bác bỏ một giả thuyết khoa học.

Hẹn gặp lại các bạn ở bài viết tới !

---

Tài liệu tham khảo chính:

Gordon Mace & Francois Petry (2013), “Cẩm nang xây dựng dự án nghiên cứu trong khoa học xã hội”, NXB Tri thứcMichel Beaud (2014), “Nghệ thuật viết luận văn”, NXB Tri thứcNguyễn Xuân Nghĩa (2010), “Phương pháp & kĩ thuật trong nghiên cứu xã hội”, NXB Phương ĐôngNguyễn Văn Tuấn (2018), “Phân tích dữ liệu với R”, NXB Tổng hợp TP. HCMNguyễn Văn Tuấn (2018), “Đi vào nghiên cứu khoa học”, NXB Tổng hợp TP. HCMPhan Văn Quyết & Nguyễn Quý Thanh (2001), “Phương pháp nghiên cứu Xã hội học”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội