Xét nghiệm sởi ở đâu

Rubella là một loại virus thường gặp khi phụ nữ mang thai. Đây là bệnh truyền nhiễm, rất dễ lây lan nhưng có thể phòng ngừa bằng vắc xin chủng ngừa bệnh. Xét nghiệm Rubella là việc làm cần thiết mà các chị em mang bầu cần làm để đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và con.

Rubella là bệnh sốt phát ban lành tính. Bệnh lây nhiễm không nguy cấp nhưng lại nghiêm trọng bởi có khả năng gây ra các dị tật bẩm sinh ở thai nhi. Bệnh Rubella có thể truyền từ mẹ sang con qua đường máu. Đối với phụ nữ mang thai, căn bệnh này là hiểm họa, đe dọa tới thai nhi đang phát triển.

Nếu thai phụ bị nhiễm virus Rubella trong giai đoạn mang thai 3 tháng đầu thì có tới 90% trường hợp người mẹ có thể truyền virus sang thai nhi. Virus này có thể khiến thai nhi bị chết hoặc bị hội chứng rubella bẩm sinh. Vì vậy việc chẩn đoán xác định Rubella ở phụ nữ mang thai đặc biệt là những tháng đầu mang thai là vô cùng quan trọng.

Việc chẩn đoán Rubella thường được dựa vào xét nghiệm miễn dịch định lượng Rubella IgM và IgG. Sử dụng test rubella để phát hiện kháng thể trong máu được sản xuất bởi hệ thống miễn dịch của cơ thể để đáp ứng với bệnh nhiễm trùng do virus Rubella gây ra. IgM và IgG là hai loại kháng thể rubella.

Sau khi tiếp xúc với virus Rubella, kháng thể Rubella IgM sẽ xuất hiện trong máu. Khoảng 7-10 ngày sau khi nhiễm trùng, mức độ protein tăng lên và đạt đỉnh và kéo dài trong vài tuần rồi giảm dần.

Khi người mẹ bị virus Rubella xâm nhập vào cơ thể, các kháng thể IgG sẽ xuất hiện. Kháng thể IgG sẽ xuất hiện muộn hơn IgM nhưng nó sẽ tồn tại trong máu suốt đời, giúp cơ thể người mẹ chống lại sự nhiễm trùng do virus Rubella gây ra. Kháng thể IgM có trong máu cho thấy có thể đã xuất hiện sự nhiễm trùng. Một điểm nhiễm Rubella gần đây hoặc từng có trong quá khứ sẽ được chỉ điểm nếu có sự hiện diện của kháng thể IgG.

Hội chứng rubella bẩm sinh có thể khiến trẻ sinh ra bị chậm phát triển, điếc...vì vậy, trong thời kỳ mang thai chị em nên thường xuyên xét nghiệm kháng thể Rubella để đảm bảo đủ khả năng đáp ứng miễn dịch.

Chẩn đoán xác định Rubella ở phụ nữ mang thai ở những tháng đầu mang thai là vô cùng quan trọng

Việc thực hiện xét nghiệm Rubella [IgM và IgG] được thực hiện đối với những thai phụ chưa từng tiêm ngừa Rubella và chưa từng mắc bệnh rubella trước khi mang thai. Xét nghiệm nên được thực hiện từ tuần thứ 7 đến tuần thứ 10 của thai kỳ, đây là thời gian tốt nhất để thực hiện. Không nên xét nghiệm khi thai đã trên 16 tuần vì khó để giải thích kết quả cũng như nếu có vấn đề gì cũng khó giải quyết bởi lúc này thai đã lớn.

Nếu kết quả IgM âm tính và IgG dương tính thì chứng tỏ bạn đã từng bị nhiễm Rubella trước khi thực hiện xét nghiệm tối thiểu là 10 tuần, bạn đã có kháng thể IgG bảo vệ. Nếu nồng độ IgG tăng lên sau khi thực hiện xét nghiệm cách nhau 2 tuần thì chứng tỏ bạn đã bị nhiễm rubella trước đó hoặc đã được tiêm phòng. Nếu nồng độ IgG thấp thì có thể bệnh nhân mắc Rubella, cần làm xét nghiệm Rubella IgM và IgM sau 1 tuần, nếu IgM dương tính và IgG tăng lên thì bệnh nhân bị rubella cấp.

Nếu kết quả xét nghiệm IgM dương tính, IgG âm tính: trường hợp này người bệnh mới bị nhiễm virus rubella, mới chỉ có kháng thể IgM đáp ứng. Bạn nên làm xét nghiệm IgM và IgG sau 2 tuần. Nếu kết quả cho thấy IgM vẫn dương tính, IgG bắt đầu xuất hiện thì chắc chắn thai phụ đã bị nhiễm virus rubella. Nếu IgM dương tính, IgG âm tính thì kết quả IgM là không đặc hiệu. Thai phụ dưới 12 tuần tuổi mà có chỉ số IgM dương tính thì khả năng là thai bị nhiễm hoặc không bị nhiễm, nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con ở giai đoạn này là 80%. Trẻ lây nhiễm virus trong giai đoạn này có nguy cơ bị hội chứng rubella bẩm sinh rất cao.

Nếu chỉ số IgM dương tính, IgG dương tính: trường hợp này thường ít gặp hơn. Có nhiều khả năng là dương tính giả do thai phụ mới bị nhiễm siêu vi nào đó.Thai phụ cần được theo dõi và thực hiện xét nghiệm IgM và IgG , sau 2 đến 3 lần mà kết quả các chỉ số vẫn giữ nguyên thì thai phụ có thể hoàn toàn yên tâm.

Nếu IgM âm tính và IgG âm tính có thể thai phụ chưa từng bị nhiễm Rubella và có nguy cơ bị mắc Rubella, thời gian này thai phụ cần phải được theo dõi thường xuyên để xử lý nếu bị nhiễm rubella. Kết quả này cũng có thể cho thấy bệnh nhân bị nhiễm rubella nhưng đang trong thời gian ủ bệnh và các kháng thể IgM và IgG chưa được tạo ra. Vì vậy, bạn nên thực hiện xét nghiệm lại sau khoảng 2-3 tuần.

Chương trình chăm sóc thai sản trọn gói tại Vinmec được thiết kế khoa học với lịch khám và xét nghiệm thường quy

Nguy cơ lây truyền rubella từ mẹ sang con trong ba tháng đầu thai kỳ là 80%, nguy cơ mắc hội chứng rubella bẩm sinh ở thời điểm thai 11-12 tuần giảm còn 33%. Ở thời điểm thai nhi 13-16 tuần, tỷ lệ này giảm còn 11-24 % và sau 16 tuần thì tỷ lệ này còn 0%. Xác định thời điểm nhiễm bệnh rubella đối với thai phụ là rất quan trọng để chẩn đoán tình trạng của thai nhi.

Để phòng ngừa rubella một cách hiệu quả, tốt nhất những chị em trong độ tuổi sinh sản nên tiêm ngừa rubella trước khi có ý định mang thai. Tiêm phòng trước khi mang thai chính là cách tốt nhất để bảo vệ sức khỏe của mẹ và thai nhi. Phụ nữ có ý định mang thai nên đến các trung tâm tiêm chủng, cơ sở y tế có nguồn vắc xin ổn định.

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec hiện có đầy đủ các loại vắc-xin trong đó có vắc-xin Rubella, được nhập khẩu trực tiếp từ Mỹ, Đức nguồn gốc rõ ràng, chất lượng tốt. Toàn bộ vắc-xin được bảo quản tại hệ thống kho lạnh hiện đại, với dây chuyền bảo quản lạnh đạt tiêu chuẩn GSP đảm bảo vắc-xin luôn giữ được chất lượng tốt nhất. Khách hàng sẽ được các bác sĩ chuyên khoa thăm khám, sàng lọc đầy đủ các vấn đề về thể trạng và sức khỏe, tư vấn về vắc-xin phòng bệnh và phác đồ tiêm, cách theo dõi và chăm sóc sau tiêm chủng trước khi ra chỉ định tiêm vắc-xin theo khuyến cáo mới nhất của Bộ Y tế & Tổ chức Y tế thế giới nhằm đảm bảo hiệu quả tốt nhất và an toàn nhất cho khách hàng.

Nếu có nhu cầu tiêm chủng tại Vinmec, Khách hàng vui lòng đặt lịch trực tiếp tại website để được phục vụ.

Hình ảnh phòng chờ tại Trung tâm tiêm chủng Vinmec

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 [phím 0 để gọi Vinmec] hoặc đăng ký lịch khám tại viện TẠI ĐÂY. Nếu có nhu cầu tư vấn sức khỏe từ xa cùng bác sĩ Vinmec, quý khách đặt lịch tư vấn TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn

Các gói thai sản đang bán tại Vinmec

XEM THÊM:

Sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính với các triệu chứng sốt, phát ban, chảy nước mũi, ho, mắt đỏ... bệnh có thể gặp ở trẻ em, người lớn nếu không có miễn dịch phòng bệnh, có thể gây thành dịch.

Sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính với các triệu chứng sốt, phát ban, chảy nước mũi, ho, mắt đỏ... bệnh có thể gặp ở trẻ em, người lớn nếu không có miễn dịch phòng bệnh, có thể gây thành dịch. Bệnh sởi tuy ít gây tử vong nhưng biến chứng có thể gặp là: viêm tai giữa, viêm phổi, tiêu chảy, khô loét giác mạc mắt và đôi khi viêm não sau sởi, đặc biệt ở trẻ em suy dinh dưỡng...

I. CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH SỞI:

- Khoảng 10 tới 12 ngày sau khi tiếp xúc với siêu vi sởi, những triệu chứng sau đây có thể xẩy ra: 1. Sốt 2. Ho khan 3. Chảy nước mũi 4. Mắt đỏ 5. Không chịu được ánh sáng 6. Những nốt nhỏ xíu với trung tâm mầu xanh trắng xuất hiện bên trong miệng nơi gò má. Những nốt này có tên là đốm Koplik.

7. Người mọc ra những đốm đỏ lớn, phẳng, chập vào nhau

Diễn Biến Của Bệnh

Bệnh sởi thường bắt đầu với một cơn sốt khá nhẹ, kèm theo những triệu chứng như ho, chảy mũi, mắt đỏ và đau cổ họng. Khoảng 2, 3 ngày sau, đốm Koplik nổi lên, đốm này là dấu hiệu đặc biệt của bệnh sởi. Sau đó, bệnh nhân có thể bị sốt cao lên tới 104 hay 105 độ F. Cùng lúc đó, những mảng đỏ nổi lên, thường là ở trên mặt, theo đường tóc và sau tai. Những vết đỏ hơi ngứa này có thể dấn lan xuống ngực, lưng và cuối cùng xuống tới đùi và bàn chân. Khoảng một tuần sau, những vết nhỏ này sẽ nhạt dần, vết nào xuất hiện trước sẽ hết trước.

II. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH SỞI:

- Lây qua đường hô hấp.

- Lây trực tiếp khi bệnh nhân ho, hắt hơi, nói chuyến…

- Lây gián tiếp ít gặp vì virus sởi dễ bị diệt ở ngoại cảnh.

Bệnh sởi gây ra do siêu vi sởi. Bệnh này hay lây đến nỗi 90% những người tiếp xúc với bệnh nhân sẽ bị lây sởi nếu chưa chích ngừa. Siêu vi sởi có ở mũi và cổ họng của bệnh nhân. Họ thường đã có thể lây bệnh cho người khác 4 ngày trước khi vết đỏ xuất hiện. Khi bệnh nhân ho, hắt xì, hay nói chuyện, những giọt nước nhỏ xíu có chứa siêu vi sẽ bắn ra không khí và người khác có thể hít vào hoặc những giọt này có thể rơi xuống một nơi nào đó nhưmặt bàn, điện thoại…Khi ta sờ vào những nơi này và đưa tay lên mũi hay miệng, ta sẽ bị lây bệnh

Một khi siêu vi sởi vào cơthể bệnh nhân, chúng thường mọc vào trong những tế bào đằng sau cổ họng và phổi. Sau đó bệnh sẽ lan khắp cơthể kể cả hệ hô hấp và da.

Mầm bệnh:

Là virus sởi thuốc họ Paramyxoviridae, virus hình cầu, đường kính 120 – 250nm, sức chịu đựng yếu, dễ bị diệt với các thuốc khử trùng thông thường, ánh sáng mặt trời, sức nóng… Ở nhiệt độ 56 độ C bị diệt trong 30 phút.

Virus sởi có hai kháng nguyên

- Kháng nguyên ngưng kết hồng cầu [Hemagglutinin].

- Kháng nguyên tan hồng cầu [Hemolysin]

Khi virus vào trong cơ thể bệnh nhân sẽ kích thích sinh kháng thể. Bằng kĩ thuật kết hợp bổ thể và kĩ thuật ức chế ngưng kết hồng cầu… giúp cho chẩn đoán bệnh.

Kháng thể xuất hiện từ ngày thứ 2 – 3 sau khi mọc ban và tốn tại lâu dài. Miễn dịch trong sở là miễn dịch bền vững.

III. SỨC THỤ BỆNH VÀ MIỄN DỊCH CỦA BỆNH:

- Tỷ lệ thụ bệnh 100% ở người chưa có miễn dịch. Lây truyền mạnh trong những tập thể chưa có miễn dịch [nhà trẻ, mẫu giáo…].

- Hay gặp ở trẻ nhỏ 1 – 4 tuổi. Trẻ dưới 6 tháng ít mắc vì có miễn dịch của mẹ.

- Người lớn rất ít mắc bệnh vì đã bị mắc từ bé. Người lớn nếu mắc bệnh thường là những người ở vùng cao, hẻo lánh, đao xa… từ nhỏ chưa tiếp xúc với virus sởi.

- Bệnh thường phát vào mùa đông xuân.

- Miễn dịch sau khi khỏi bệnh là bền vững vì vậy rất hiếm khi mắc lại lần thức hai.

- Là bệnh gây suy giảm miễn dịch nên bệnh nhân dễ mắc bệnh khác.

- Tỷ lệ tử vong cao: 0,02% ở các nước tiên tiến. 0,3 – 0,7% ở các nước đang phát triển.

- Hiện nay nhờ có vacxin sởi được tiêm phòng rộng rãi nên tỷ lệ mắc bệnh và tử vong đã giảm nhiều. Đây là bệnh nằm trong “Chương trình tiêm chủng mở rộng” ở nước ta.

IV. CƠ CHẾ BỆNH SINH VÀ MIỄN DỊCH BỆNH LÝ:

1. Cơ chế bệnh sinh

- Virus sởi xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp. Tại đây, virus nhân lên ở tế bào biểu mô của đường hô hấp và ở các hạch bạch huyết lân cận. Sau đó, virus vào máu [nhiễm virus máu lần thứ nhất]. Thời kì này tương ứng với thời kì nung bệnh.

- Từ máu, theo các bạch cầu, virus  đến các phủ tạng [phổi, lách, hạch, da…] gây tổn thương các cơ quan và cac triệu chứng lâm sàng thời kì toàn phát. Ban ở da và niêm mạc chính là hiện tượng đào thải virus của cơ thể đã phản ứng miễn dịch bệnh lí.

- Từ khoảng ngày thứ hai – ba từ khi mọc ban, cơ thể sinh kháng thể. Kháng thể tăng lên thì virus bị loại khỏi máu. Bệnh chuyển sang thời kì lui bệnh.

2. Giải phẫu bệnh lí:

Tổn thương giải phẫu điển hình là xuất hiện các tế bào khổng lồ [tế bào Hecht] đó là hợp bào chứa nhiều nhân và các hạt vùi [chứa virus ở trong] trong nhân và nguyên sinh chất. Tế bào khổng lồ xuất hiện ngày thứ 4 – 5 trước mọc ban và kéo dài 3 – 4 ngày sau mọc ban. Các tế bào này tìm thấy ở tổ chức lympho, biểu mô niêm mạc khí quản, họng, phổi, ống tiêu hóa…

3. Biểu hiện lâm sàng:

3.1. Thể thông thường điển hình

3.1.1. Nung bệnh: 8 – 11 ngày

3.1.2. Khởi phát [giai đoạn viêm xuất tiết]:3 – 4 ngày.

- Sốt nhẹ hoặc vừa, sau sốt cao.

- Viêm xuất tiết mũi, họng, mắt: chảy nước mắt nước mũi, ho, vêm màng tiếp hợp, mắt có gỉ kèm nhèm, sưng nề mi mắt.

- Nội ban xuất hiện [ngày thứ hai]: gọi là hạt Koplick, đó là các hạt trắng, nhỏ như đầu đinh ghim, từ vài nốt đến vài chục, vài trăm nốt mọc ở niêm mạc má [phía trong miệng, ngang răng hàm], xunh quanh hạt Koplick niêm mạc má thường có sung huyết. Các hạt Koplick chỉ tồn tại 24 – 48 giờ. Đây là dấu hiệu có giá trị chẩn đoán sớm và chắc chắn.

- Hạch bạch huyết sưng.

- Xét nghiệm ở giai đoạn này có bạch cầu tăng vừa, Neutro tăng.

3.1.3. Toàn phát [giai đoạn mọc ban]

- ban mọc ngày thứ 4 – 6, ban dát sần, ban nhỏ hơi nổi gờ trên mặt da, giữa các ban là khoảng đa lành. Ban mọc rải rác hay dính liền với nhau thành từng đám tròn 3 – 6mm. Ban mọc theo thứ tự:

Ngày 1: mọc ở sau tai, lan ra mặt.

Ngày 2: lan xuống đến ngực, tay

Ngày 3: lan đến lưng, chân

Ban kéo dài 6 ngày rồi lặn theo thứ tự trên.

- Ban mọc ở bên trong niêm mạc [nội ban]: ở đường tiêu hóa gây rối loạn tiêu hóa, đi lỏng, ở phối gây viêm phế quản, ho.

- Toàn thân: khi ban bắt đầu mọc, toàn thân nặng lên, sốt cao hơn, mệt hơn. Khi ban mọc đến chân nhiệt độ giảm dần, triệu chứng toàn thân giảm dần rồi hết.

- Xét nghiệm ở giai đoạn này có bạch cầu giảm, neutro giảm, lympho tăng.

3.1.4. Lui bệnh [giai đoạn ban bay]

Thường vào ngày thứ 6 ban bắt đầu bay. Ban bay theo thứ tự từ mặt đến thân mình và chi, để lại các nốt thâm có tróc da mỏng, mịn kiểu bụi phân hay vảy cám. Những chỗ da thâm của ban bay và chỗ da bình thương tạo nên màu da loang lổ gọi là dấu hiệu “vằn da hổ” đó là dấu hiệu để truy chẩn đoán. Toàn thân bệnh nhân hồi phục dần nếu không biến chứng.

3.2. Các thể lâm sàng khác

3.2.1.Thể theo tiên lượng

3.2.1.1. Thể nhẹ

- Không sốt hoặc sốt nhẹ

- Viêm xuất tiết mũi họng nhẹ

- Ban thưa, mờ, lặn nhanh.

- Hay gặp ở trẻ dưới 6 tháng [còn miễn dịch mẹ].

Chú ý: đánh giá tiên lượng sởi phải căn cứ chủ yếu vào hội chứng nhiễm khuẩn nhiễm độc toàn thân, không nên chỉ dựa vào ban, vì ban thưa có thể gặp ở nhẹ nhưng cũng có thể gặp ở thể nặng khi trẻ suy dinh dưỡng tính phản ứng yếu. Ngược lại ban mọc dầy không nhất thiết là nặng vì có thể gặp ở trẻ dinh dưỡng tốt, tính phản ứng mạnh.

3.2.1.2. Thể vừa

Thể thông thường điểu hình [như mô tả trên]

3.2.1.3. Thể nặng [thể sởi ac tính]

Các dấu hiệu ác tính thường xuất hiện nhanh chóng trong vài giờ trên những thể địa quá mẫn, vào cuối giai đoạn khởi phát, trước lúc mọc ban. Thường có các triệu chứng sau: sốt cao vọt 39 – 41 độ C, u ám, vật vã, mê sảng, hôn mê, co giật, mạch nhanh, huyết áp tụt, thở nhanh, tím tái, nôn, ỉa lỏng, đái ít, xuất huyết dưới da hay phủ tạng.. Tùy theo triệu chứng nào nổi bật, sẽ có:

. Sởi ác tính thể xuất huyết: xuất huyết dưới da hoặc nội tạng.

. Sởi ác tính thể phế quản – phổi: biểu hiện chủ yếu là suy hô hấp.

. Sởi ác tính thể nhiễm độc nặng: sốt cao, vật vã, co giật mạnh, hôn mê, mạch nhanh nhỏ, huyết áp tụt.

. Sởi ác tính thể ỉa chảy: rối loạn tiêu hóa nổi bật.

. Sởi ác tính thể bụng cấp: giống viêm ruột thừa thường gặp ở trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi, trẻ suy dinh dưỡng hoặc còi xương, trẻ đang mắc các bệnh khác…

3.2.2. Thể bệnh theo thể địa

- Sởi ở trẻ dưới 6 tháng thường nhẹ

- Sởi ở trẻ 6 tháng – 2 tuổi: thường nặng

- Sởi ở trẻ suy dinh dưỡng – còi xương: sởi thường không điển hình và nặng.

- Sởi ở trẻ đã được gây miễn dịch bằng Gamma globulin hoặc vacxin thường nhẹ.

- Sở ở phụ nữ mang thai: gây sẩy thai, dị dạng, đẻ non…

- Sởi kết hợp với các bệnh nhiễm trùng khác như: ho gà, lao, bạch hầu,… làm bệnh nặng lên.

V. CÁC BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH:

 Biến chứng đường hô hấp

Viêm thanh quản

- Giai đoạn sớm, là do virus sởi: xuất hiện ở giai đoạn khởi phát, giai đoạn đầu của mọc ban thường mất theo ban,hay có Croup giả, gây cơn khó thở do co thắt thanh quản.

- Giai đoạn muộn: do bội nhiễm [hay gặp do tụ cầu, liên cầu, phế cầu…], xuất hiện sau mọc ban. Diễn biến thường nặng: sốt cao vọt lên, ho ông ổng, khàn tiêng, khó thở, tím tái.

 Viêm phế quản

Thường do bội nhiễm, xuất hiện vào cuối thời kì mọc ban. Biểu hiện sốt lại, ho nhiều, nghe phổi có ran phế quản, bạch cầu tăng, neutro tăng, X quang có hình ảnh viêm phế quản.

 Viêm phế quản – phổi

Do bội nhiễm, thường xuất hiện muộn sau mọc ban. Biểu hiện nặng: sốt cao khó thở, khám phổi có ran phế quản và ra nổ. X quang có hình ảnh phế quản phế vêm [nốt mờ rải rác 2 phổi]. Bạch cầu tăng, neutro tăng, thường là nguyên nhân gây tử vong trong bệnh sởi, nhất là ở trẻ nhỏ.

Biến chứng thần kinh

Viêm não – màng não – tủy cấp

Là biến chứng nguy hiểm gây tử vong và di chứng cao. Gặp ở 0,1 – 0,6% bệnh nhân sởi. Thường gặp ở trẻ lớn [tuổi đi học], vào tuần đầu của ban [ngày 3 – 6 của ban]. Khởi phát đột ngột, sốt cao vọt co giật, rối loạn ý thức: u ám – hôn mê, liệt ½ người hoặc 1 chi, liệt dây III, VII hay gặp hội chứng tháp – ngoại tháp, tiểu não, tiền đình…

- Viêm màng não kiểu thanh dịch [do virus].

- Viêm tủy: liệt 2 chi dưới, rối loạn cơ vòng.

Cơ chế: có 2 giả thuyết, cho là phản ứng dị ứng hoặc là phản ứng miễn dịch bệnh lí.

Viêm màng não

- Viêm màng não thanh dịch do viru sởi

- Viêm màng não mủ sau viêm tai do bội nhiễm.

 Viêm não chất trắng bán cấp xơ hóa[Van bogaert]

Hay gặp ở tuổi 2 – 20 tuổi, xuất hiện muộn sau vài năm, điều này nói lên virus sởi có thể sống tiềm tàng nhiều năm trong cơ thể bệnh nhân có đáp ứng miễn dịch bất thường. Diến biến bán cấp từ vài tháng đến 1 năm. Bệnh nhân chết trong tình trạng tăng tương lực cơ và co cứng mất não.

3.3.3. Biến chứng đường tiêu hóa

3.3.3.1. Viêm niêm mạc miệng

- Lúc đầu do virus sởi, thường hết cùng với ban.

- Muộn thường do bội nhiễm

Cam mã tấu [noma]

Xuất hiện muộn, do bội nhiễm xoắn khuẩn Vincent là một loại vi khuẩn hoại thư gây loét niêm mạc miệng, lan sâu rộng vào xương hàm gây hoại tử niêm mạc, viêm xương, rụng răng, hơi thở hôi thối.

Viêm ruột

Do bội nhiễm các loại vi khuẩn như shigella, E. coli…

Biến chứng tai – mũi – họng

- Viêm mũi họng bội nhiễm

- Viêm tai – viêm tai xương chũm.

 Biến chứng do suy giảm miễn dịch

Dễ mắc thêm các bệnh khác như lao, bạch hầu, ho gà…

VI. CHUẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT:

Bệnh Rubella [hay bệnh sởi Đức]

- Sốt nhẹ, viêm long đường hô hấp nhẹ, dấu hiệu nhiễm độc không rõ.

- Ban dát sẩn dạng sởi nhưng thường nhỏ hơn, mọc thưa hơn và mọc sớm ngay từ ngày thứ 1 – 2, mọc cùng lúc, khi bay để lại vết thâm, không có hạt Koplick.

- Hạch sau tai, chẩm sưng đau

- Xét nghiệm máu: tăng tương bào [plasmoxit]

- Chẩn đoán xác định bằng phản ứng ngăn ngưng kết hồng cầu.

 Bệnh do virus có phát ban khác[virus Adeno, ECHO, Coxsackie,…].

Ban dị ứng

Ban toàn thân không theo thứ tự, thường ngứa, có nguyên nhân dùng thuốc, thời tiết, thức ăn…

VII. ĐIỀU TRỊ VÀ DỰ PHÒNG:

 Điều trị

Chủ yếu là điều trị triệu chứng – săn sóc và nuôi dưỡng.

- Hạ sốt: phương pháp vật lí, thuốc hạ sốt thông thường [Paracetamol].

- An thần.

- Thuốc ho, long đờm

- Kháng histamin: Dimedron, Pipolphen.

- Sát trùng mũi họng: nhỏ mắt nhỏ mũi bằng dung dịch Chloromycetin, Argyrol…

- Kháng sinh chỉ dùng khi có bội nhiễm và dùng cho trẻ dưới 2 tuổi, và trẻ suy dinh dưỡng.

- Khi có biến chứng: viêm thanh quản, viêm não, sởi ác tính thì dùng kháng sinh và corticoid.

- Các biện pháp hồi sức tùy theo triệu chứng của bệnh nhân: hồi sức hô hấp khi có suy hô hấp [thở O2, hô hấp hỗ trợ…] hồi sức tim mạch…

- Chế độ ăn uống tốt.

Dự phòng

- Gramma globulin 40mg/kg dùng phòng bệnh khẩn cấp cho trẻ suy dinh dưỡng, hoặc trẻ đang bị một bệnh khác… mà có tiếp xúc với trẻ bị sởi.

- Vacxin sởi: vacxin sống, giảm độc lực dùng cho trẻ 6 – 9 tháng tuổi trở lên, có tác dụng bảo vệ cao. Vacxin sởi là một vacxin bắt buộc trong “Chương trình tiêm chủng mở rộng” ở nước ta hiện nay. Nhờ đó, hiện nay tỷ  lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong do sởi đã giảm nhiều.

Video liên quan

Chủ Đề