Ý nghĩa về sự ra đời của nhà nước

Nhà nước là thuật ngữ đã xuất hiện từ rất lâu kể từ khi xã hội bắt đầu xuất hiện sự phân tầng giai cấp. Nhưng trên thực tế, nhà nước là gì và nguồn gốc ra đời của nhà nước ra sao? Cùng chúng tôi tham khảo ngay những nội dung sau!

Ý nghĩa về sự ra đời của nhà nước

1. Nhà nước là gì?

Về khái niệm, nhà nước được hiểu là tổ chức đặc biệt sở hữu quyền lực chính trị của một quốc gia. Đây là bộ máy chuyên thực hiện các nghiệm vụ cưỡng chế, thực hiện những thức năng quản lý có phần đặc biệt để duy trì trật tự trong xã hội. Mục đích cuối cùng là bảo vệ địa vụ của tầng lớp giai cấp thống trị trong xã hội.

Ý nghĩa về sự ra đời của nhà nước

2. Các học thuyết lý giải về nguồn gốc ra đời của nhà nước

Nhắc đến nguồn gốc ra đời của nhà nước, chúng ta sẽ có rất nhiều góc nhìn khác nhau dựa trên hệ thống các lý thuyết và quan điểm. Cụ thể:

Nguồn gốc nhà nước theo thuyết thần quyền

Thuyết thần quyền đưa ra quan điểm rằng thượng đế chính là người sắp đặt nên các trật tự xã hội, trong đó bao gồm nhà nước. Nhà nước được thượng đế sáng tạo ra nhằm mục đích bảo vệ trật tự xã hội nói chung.

Nguồn gốc của nhà nước theo thuyết gia trưởng

Theo thuyết gia trưởng, việc xuất hiện của nhà nước chính là kết quả của sự phát triển các mối quan hệ gia đình. Về bản chất, nhà nước chính là một mô hình gia tộc được mở rộng, quyền lực từ nhà nước chính là quyền gia trưởng trong thuyết gia trưởng được nâng cao. Đây chính là hình thức tổ chức tự nhiên của xã hội con người.

Nguồn gốc nhà nước theo thuyết bạo lực

Theo thuyết bạo lực, nguồn gốc của nhà nước xuất hiện bởi các cuộc chiến tranh xâm lược cũng như việc thị tộc này sử dụng bạo lực để giải quyết vấn đề với thị tộc khác. Kết quả của các cuộc chiến tranh chính là bên thắng được quyền đặt ra hệ thống cơ quan quản lý đặc biệt là “nhà nước”.

Ý nghĩa về sự ra đời của nhà nước

Nguồn gốc của nhà nước theo thuyết tâm lý

Theo lý thuyết này, việc ra đời của nhà nước là kết quả thỏa mãn nhu cầu tâm lý của con người. Họ luôn muốn phụ thuộc vào các giáo sĩ, thủ lĩnh để dẫn dắt, tạo động lực cố gắng.

Nguồn gốc nhà nước theo thuyết khế ước xã hội

Thuyết khế ước xã hội cho rằng sự ra đời của nhà nước chính là sản phẩm được tạo thành từ một khế ước xã hội. Khế ước này được ký kết giữa những người sống trong trạng thái không có nhà nước với một nhà nước mới. Trong trường hợp không giữ được vai trò của mình  thì khế ước sẽ bị mất hiệu lực, nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký khế ước với chính quyền mới.

Nguồn gốc của nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin

Theo quan điểm thuộc chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước và pháp luật thực tế không phải những thứ tồn tại vĩnh cửu. Nhà nước chỉ xuất hiện khi mà xã hội của loài người chúng ta phát triển đến một giai đoạn nhất định nào đó. Cụ thể:

Nhà nước xuất hiện một cách khách quan: Điều này không có nghĩa là nhà nước là vĩnh cửu và vĩnh viễn, nó có thể tiếp tục vận động, phát triển và biến mất hoặc bị thay mới nếu không đáp ứng được những nhu cầu khách quan của dự tồn tại và phát triển của con người.

Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội đạt đến giai đoạn nhất định: Điều này có nghĩa là nhà nước xuất hiện bởi sự tan rã của thể chế cộng sản nguyên thủy trước đó. Nhà nước chỉ xuất hiện ở thời gian nào đó khi có sự tồn tại của sự phân chia xã hội thành những giai cấp đối kháng nhau.

Ý nghĩa về sự ra đời của nhà nước

3. Những chức năng của nhà nước

Chức năng của nhà nước chính là những mục tiêu và cách thức hoạt động chủ yếu mà nhà nước hướng đến. Thực tế, chức năng của nhà nước được xuất hiện từ bản chất của nhà nước và được hình thành bởi cơ cấu giai cấp trong xã hội và cơ cấu kinh tế quyết định. Cụ thể, nhà nước hiện nay được điển hình bởi 2 chức năng chính sau:

Chức năng đối nội

Chức năng đối nội chính là các hoạt động của nhà nước hướng đến sự phát triển nội bộ trong nước. Cụ thể bao gồm:

  • Bảo vệ chế độ nhà nước, an ninh chính trị và trật tự xã hội
  • Bảo vệ các quyền tự do và dân của của người dân
  • Bảo vệ trật tự pháp luật và tăng cường pháp chế
  • Tổ chức và quản lý các hoạt động kinh tế, văn hóa, giáo dục hay khoa học

Chức năng đối ngoại

Đối ngoại là chức năng mà nhà nước sử dụng để thiết lập các mối quan hệ với dân tộc, nhà nước khác. Mục tiêu cuối cùng là kết nối, đem đến cơ hội phát triển và cơ hội hợp tác quốc tế cho nhân dân. Từ đó tăng cường tính đối ngoại, phát triển kinh tế quốc gia, khu vực.

Các chức năng khác

Ngoài ra, chức năng của nhà nước còn được chia làm nhiều nhóm khác nhau tùy vào lĩnh vực. Tiêu biểu có thể nhắc đến những chức năng nổi bật sau:

  • Chức năng kinh tế
  • Chức năng trấn áp
  • Chức năng xã hội
  • Chức năng bảo vệ quốc gia
  • Chức năng thiết lập các mối quan hệ với các nước khác

Hy vọng với những nội dung nêu trên, bạn đọc đã có được những kiến thức hữu ích liên quan đến nhà nước và nguồn gốc của nhà nước. Từ đó có được những kiến thức hữu ích nhất liên quan đến sự ra đời của nhà nước nói chung.

Màn biểu diễn cờ lau tập trận tại lễ hội truyền thống Hoa Lư năm 2017. Ảnh: MQ

Một là, Nhà nước Đại Cồ Việt ra đời vào năm 968 đã chấm dứt tình trạng phân tán, cát cứ kéo dài, mà “loạn 12 sứ quân” chỉ là một hiện tượng điển hình; cùng với đó, quốc gia dân tộc được thống nhất với cương vực lãnh thổ riêng.Tình trạng phân tán với xu hướng tách khỏi sự ràng buộc của bộ máy quản lý nhà nước tập trung chính là di sản nặng nề do quá khứ để lại, buộc dân tộc ta vào thế kỷ X phải từng bước loại trừ để cùng nhau tồn tại và phát triển. Vì vậy, sự xuất hiện của Đinh Bộ Lĩnh với vai trò dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, thành lập Nhà nước Đại Cồ Việt là một cột mốc quan trọng trong quá trình phát triển của quốc gia dân tộc. Nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh, từ quá trình ra đời đã giáng một đòn quyết định, chặn đứng mọi âm mưu chia rẽ đất nước của các thế lực phân tán tồn tại dai dẳng từ trước, hướng tới thống nhất, tập quyền, phù hợp với yêu cầu của lịch sử. Đồng thời, Nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh đại diện cho lợi ích và sức mạnh của cộng đồng các giáp, xã… tượng trưng cho sự đoàn kết, tập hợp các lực lượng vì mục đích độc lập, tự chủ và thống nhất.

Đây là thành tựu được các sử gia nhìn nhận và đánh giá rất cao. Thậm chí, đối với sử gia phong kiến, vấn đề “thống nhất quốc gia” còn là một tiêu chí để xem xét tính “chính thống” của một triều đại. Chính vì vậy, sự kiện thành lập Nhà nước Đại Cồ Việt được coi là mở nền chính thống cho thời đại phong kiến độc lập, tự chủ của dân tộc ta (“chính thống thuỷ”). Do đó, các bộ chính sử, từ Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ XV), Đại Việt sử ký tiền biên (thếkỷ XVIII) đến Khâm định Việt sử thông giám cương mục (thế kỷ XIX) đều xác định: Triều đại nhà Đinh với sự thành lập Nhà nước Đại Cồ Việt là mốc mở đầu phần Bản kỷ hoặc Chính biên.


Hai là, với việc thiết lập triều đình riêng do một hoàng đế đứng đầu, có niên hiệu riêng, quản lý một lãnh thổ riêng biệt, sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước Đại Cồ Việt chính là sự khẳng định mạnh mẽ nền độc lập, tự chủ của đất nước vừa mới được khôi phục sau một thiên niên kỷ lệ thuộc vào phong kiến phương Bắc.
Đối với Việt Nam, một nước nhỏ bé ở bên cạnh một đế chế hùng mạnh, rộng lớn như Trung Hoa, thì việc đặt tên nước, xưng đế hiệu, định niên hiệu mang một ý nghĩa lớn về ý thức tự tôn, tự cường dân tộc.

Trong lịch sử dân tộc, trước Đinh Tiên Hoàng, có 2 vị vua nổi dậy khởi nghĩa thời kỳ Bắc thuộc, khi thành công cũng xưng Đế. Đó là Lý Bí, sử gọi là Lý Nam Đế (544-548) và Mai Thúc Loan, sử gọi là Mai Hắc Đế (713-722); tuy nhiên, ngay sau đó, đấtnước ta lại bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Tiếp đó, vào những thập niên đầu thế kỷ X, kể từ Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ đến Ngô Quyền, mặc dù đã giành được quyền tự chủ, nhưng để giữ sự hòa hiếu với phương Bắc, chỉ xưng là Tiết độ sứ hoặc xưng Vương.

Do đó, việc đặt quốc hiệu “Đại Cồ Việt”, rồi xưng đế (được bề tôi dâng tôn hiệu “Đại Thắng Minh Hoàng Đế”) thể hiện một cách rõ ràng ý đồ của Đinh Bộ Lĩnh khi so sánh, đặt mình ngang với các Hoàng đế Trung Hoa; phủ nhận những tên gọi nước ta trước đó mà triều đình phong kiến phương Bắc đặt cho, như: An Nam, Giao Châu… Tiếp đó, việc Đinh Tiên Hoàng bỏ không dùng niên hiệu của các Hoàng đế Trung Hoa nữa, định niên hiệu mới là Thái Bình (năm 970) mang một ý nghĩa lớn lao; biểu hiện ý chí độc lập, tự chủ, không muốn lệ thuộc vào Trung Quốc ngày đó.

Như vậy, với việc đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt, xưng Hoàng đế và định niên hiệu là Thái Bình, một lần nữa khẳng định sự tự tin vào sức mạnh dân tộc, khát vọng về một đất nước thái bình, hưng thịnh của vua Đinh Tiên Hoàng.

Ba là, Nhà nước Đại Cồ Việt (thời Đinh) với tổ chức bộ máy, chính sách đối nội, đối ngoại tuy sơ khai nhưng đã mở ra một thời kỳ mới về tổ chức quản lý đất nước trong lịch sử dân tộc - thời kỳ phong kiến độc lập, tự chủ lâu dài với sự nối tiếp nhau của các nhà nước quân chủ trung ương tập quyền.

Trước Nhà nước Đại Cồ Việt, lịch sử nước ta đã ghi nhận sự xuất hiện của nhà nước sơ khai thời Văn Lang - Âu Lạc, lại có các nhà nước tồn tại ngắn ngủi trong thời kỳ đấu tranh chống Bắc thuộc như: Nhà nước của Trưng Nữ Vương, nhà nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế, rồi các chính quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương, họ Ngô. Nhưng phải đến khi Nhà nước Đại Cồ Việt được ra đời, một thời kỳ mới về tổ chức quản lý đất nước mới được khai mở.

Với việc tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ gồm một đội ngũ quan lại có phân công, phân nhiệm rành mạch và việc chia đất nước thành các đơn vị hành chính mới, Nhà nước Đại Cồ Việt là một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền độc lập, tự chủ, hoà hợp và mở rộng, gắn bó với cộng đồng giáp, xã; đối ngoại mềm dẻo trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền của dân tộc. Trên cơ sở ban đầu đó, các vương triều sau còn phải tiến hành sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh và củng cố cho phù hợp với sự phát triển của đất nước trong quá trình hình thành và xác lập chế độ phong kiến loại hình phương Đông ở nước ta.

Hơn nữa, bằng những hoạt động đối nội và đối ngoại phù hợp, Nhà nước Đại Cồ Việt đã đưa lịch sử nước ta vào một bước phát triển mới chưa từng có (so với trước đó), khôi phục lại thế đứng hiên ngang cho đất nước, cho dân tộc. Nhờ vậy, từ đây, đất nước của cộng đồng các dân tộc Việt, bằng sức sống bền bỉ và năng động của mình đã vươn lên mạnh mẽ, đủ sức chống chọi với mọi âm mưu và hành động xâm lược của giặc ngoại xâm, giữ một vị trí quan trọng trong khu vực trước những biến động lớn đã từng xảy ra và còn tiếp diễn ở nhiều thế kỷ sau này.

Như vậy, kể từ thế kỷ X, trên hành trình lịch sử Đại Cồ Việt - Đại Việt - Đại Nam - Việt Nam, Nhà nước Đại Cồ Việt (thời Đinh) mãi mãi xứng đáng với vị trí mở đầu cho thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài của dân tộc. Như lời sử thần Lê Tung trong Việt giám thông khảo tổng luận nhận định: “Đinh Tiên Hoàng nhân khi nhà Ngô loạn lạc, dẹp được 12 sứ quân, trời cho người theo, thống nhất bờ cõi… sang chế triều nghi, định lập quân đội. Vua chính thống của nước Việt ta thực bắt đầu từ đấy…”. Hay, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Lịch sử nước Nam ta” cũng dành cho Đinh Tiên Hoàng nói riêng, Nhà nước Đại Cồ Việt (thời Đinh) nói chung những lời tốt đẹp:

“Đến hồi thập nhị sứ quân


Bốn phương loạn lạc muôn dân cơ hàn
Động Hoa Lư, cõi Tiên hoàng
Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh
Ra tài kiến thiết kinh dinh”.