Yếu tố ảnh hưởng đến tác dụng phụ của thuốc

Thực tế, bạn hoàn toàn có thể hỏi bác sĩ về thông tin của loại thuốc được kê đơn trong toa thuốc của mình mà không cần phải cảm thấy ngại ngùng hay lo lắng quá nhiều. Tìm hiểu kỹ về các loại thuốc mà mình được ghi toa điều trị sẽ giúp các bạn sử dụng thuốc đúng cách hơn, hiểu rõ giá trị và hiệu quả của thuốc, đảm bảo tuân thủ điều trị để đạt được hiệu quả điều trị cao nhất.

Những quan điểm phổ biến ở người bệnh

Phỏng vấn một vài người bệnh ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết mọi người đều tin tưởng vào bác sĩ và không có thói quen hỏi thông tin về các loại thuốc được chỉ định, cũng như nghĩ rằng bảo hiểm y tế chỉ cung cấp một vài loại thuốc cố định.

Cô Kim Quý, cư dân ở Quận 7, TP. HCM, cho biết: “Sức khỏe rất quan trọng nên tôi thường cố gắng đi khám sức khỏe định kỳ hoặc bất cứ khi nào cảm thấy không khỏe. Tuy nhiên, tôi thường không hỏi bác sĩ được nhiều về tình hình sức khỏe của bản thân cũng như cách dùng thuốc vì sợ mất thời gian và khiến bác sĩ khó chịu”.

Anh Thanh Tùng, từ Bình Dương lên TP. HCM khám bệnh, cũng chia sẻ rằng anh dùng bảo hiểm cá nhân khi khám, chữa bệnh nên khi bác sĩ kê đơn thuốc anh thường không hỏi gì nhiều vì nghĩ thuốc dành cho bảo hiểm sẽ đủ tốt và không có nhiều sự lựa chọn mặc dù anh nghĩ thuốc là yếu tố chính ảnh hưởng đến quá trình điều trị bệnh.

Bác Quỳnh đang điều trị bệnh tại Bệnh viện quận Tân Bình cho hay: “Tôi nghĩ khi dùng bảo hiểm để khám, chữa bệnh thì đương nhiên bác sĩ sẽ kê những loại thuốc tốt nhất có trong danh mục bảo hiểm. Bởi vì tôi không hiểu nhiều về thuốc nên cũng không biết hỏi hay thảo luận với bác sĩ những gì về toa thuốc của mình”.

Những chia sẻ trên rất thường gặp ở nhiều bệnh nhân. Với tâm lý ngại hỏi, ngại làm phiền các bác sĩ trong quá trình điều trị, đôi khi người bệnh đã đánh mất vai trò chủ động của mình trong quá trình kiểm soát bệnh. Thực tế, bệnh nhân có một vai trò rất quan trọng để tự kiểm soát bệnh của mình. Bằng việc nâng cao kiến thức cá nhân về bệnh lý, về các loại thuốc điều trị, tích cực chia sẻ với bác sĩ những trở ngại trong đời sống hàng ngày khi dùng thuốc, yêu cầu các loại thuốc chất lượng cao, bạn sẽ có được kết quả điều trị tối ưu nhất.

Một loại thuốc được chỉ định phụ thuộc vào sự cân bằng giữa lợi ích và nguy cơ của nó. Khi đưa ra quyết định, bác sĩ lâm sàng thường cân nhắc các yếu tố có phần chủ quan, chẳng hạn như kinh nghiệm cá nhân, truyền miệng, người thực hành trước và ý kiến chuyên môn.

Số bệnh nhân cần được điều trị [NNT] ít mang tính chủ quan về những lợi ích có thể có của một loại thuốc [hoặc bất kỳ sự can thiệp nào khác]. NNT là số bệnh nhân cần được điều trị để mang lại lợi ích cho một bệnh nhân. Ví dụ, hãy xem xét một loại thuốc làm giảm tỷ lệ tử vong của một bệnh cụ thể từ 10% xuống 5%, giảm nguy cơ tuyệt đối là 5% [1 trong 20]. Điều đó có nghĩa là 100 bệnh nhân, 90 người sẽ sống ngay cả khi không điều trị, và do đó sẽ không được hưởng lợi từ thuốc. Bên cạnh đó, 5 trong số 100 bệnh nhân sẽ chết mặc dù họ dùng thuốc và do đó cũng không có lợi. Chỉ có 5 trong 100 bệnh nhân [1 trong 20] được hưởng lợi từ việc dùng thuốc; Do đó, cần 20 bệnh nhân được điều trị để 1 bệnh nhân được hưởng lợi từ việc điều trị, và NNT là 20. NNT có thể được tính toán đơn giản là nghịch đảo của việc giảm nguy cơ tuyệt đối; nếu giảm nguy cơ tuyệt đối là 5% [0,05], NNT = 1/0,05 = 20. NNT cũng có thể được tính toán cho các tác dụng không mong muốn, trong trường hợp đó đôi khi nó được gọi là số người cần được điểu trị để xảy ra tác hại [NNH].

Quan trọng là NNT dựa trên sự thay đổi nguy cơ tuyệt đối; không thể tính được từ những thay đổi nguy cơ tương đối. Nguy cơ tương đối là tỷ lệ phần trăm của hai nguy cơ. Ví dụ, một loại thuốc giảm tỷ lệ tử vong từ 10% xuống 5% nghĩa là làm giảm tử vong tuyệt đối 5% nhưng giảm tỷ lệ tử vong tương đối là 50% [tức là tỷ lệ tử vong 5% chỉ ra rằng ít tử vong hơn 50% so với tỷ lệ tử vong 10%]. Thông thường, lợi ích được báo cáo trong y văn là giảm nguy cơ tương đối bởi vì nhìn vào số liệu này sẽ thấy thuốc hiệu quả hơn so với giảm nguy cơ tuyệt đối [trong ví dụ trước, giảm 50% tử vong có vẻ tốt hơn giảm 5%]. Ngược lại, các tác dụng không mong muốn thường được báo cáo theo nguy cơ tuyệt đối tăng bởi vì chúng tạo ra một loại thuốc an toàn hơn. Ví dụ, nếu thuốc tăng tỷ lệ xuất huyết từ 0,1% đến 1%, mức tăng này thường được báo cáo là 0,9% hơn là 1000%.

  • Tính toán số người cần được điều trị [NNT] dựa trên sự thay đổi nguy cơ tuyệt đối, chứ không phải là tương đối.

Khi NNT cân bằng với NNH, điều quan trọng là cân nhắc giữa lợi ích cụ thể và các nguy cơ. Ví dụ, một thuốc có nhiều tác hại hơn lợi ích vẫn có thể được kê đơn nếu các tác hại đó là nhỏ [ví dụ tác hại có thể hồi phục, nhẹ] và các lợi ích là lớn [ví dụ như ngăn ngừa tử vong hoặc phòng bệnh]. Trong mọi trường hợp, sử dụng các chỉ tiêu hướng tới bệnh nhân là tốt nhất.

Dữ liệu về gen đang ngày càng được sử dụng để xác định các phân nhóm bệnh nhân nhạy cảm hơn với những lợi ích và tác dụng không mong muốn của một số loại thuốc. Ví dụ, ung thư vú có thể được xét nghiệm các chỉ dấu di truyền HER2 dự đoán đáp ứng với các loại thuốc hóa trị liệu nhất định. Bệnh nhân HIV/AIDS có thể được xét nghiệm với allele HLA-B * 57: 01, gen dự đoán quá mẫn với abacavir, làm giảm tỷ lệ phản ứng quá mẫn và do đó làm tăng NNH. Sự khác nhau về gen của các enzym chuyển hóa thuốc khác nhau giúp dự đoán bệnh nhân đáp ứng với thuốc xem dược học di truyền Gen dược học như thế nào và cũng thường ảnh hưởng đến lợi ích, tác hại, hoặc cả hai.

Một mục tiêu phát triển thuốc là có sự khác biệt lớn giữa liều hiệu quả và liều gây ra các tác dụng không mong muốn. Sự khác biệt lớn được gọi là phạm vi điều trị rộng, hệ số điều trị, hoặc cửa sổ điều trị. Nếu phạm vi điều trị là hẹp [ví dụ, < 2], các yếu tố thường không quan trọng về mặt lâm sàng [ví dụ, tương tác giữa thức ăn và thuốc, tương tác thuốc-thuốc Tương tác thuốc , sai sót nhỏ trong liều lượng] có thể gây ra những tác động lâm sàng có hại. Ví dụ, warfarin có một phạm vi điều trị hẹp và tương tác với nhiều loại thuốc và thức ăn. Liều thuốc chống đông không đủ làm tăng nguy cơ biến chứng của các bệnh cần được điều trị bằng thuốc chống đông máu [ví dụ tăng nguy cơ đột quỵ trong rung tâm nhĩ], trong khi quá liều thuốc chống đông làm tăng nguy cơ chảy máu.

Thuốc là một trong những phương pháp điều trị hiệu quả đối với hầu hết nhiều bệnh lý. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả tối ưu nhất thì trong quá trình sử dụng thuốc cần phải lưu ý đến một số vấn đề như bảo quản thuốc, tương tác thuốc, phối hợp thuốc... là những điều có thể ảnh hưởng để hiệu quả của thuốc mà bệnh nhân đang sử dụng.

Những điều ảnh hưởng đến thuốc của người bệnh đang sử dụng bao gồm:

Như chúng ta đã biết, một vài loại thuốc sẽ không thể phát huy tác dụng khi phối hợp thuốc với nhau. Bên cạnh đó, những thức ăn và đồ uống được đưa vào cơ thể cũng có thể ảnh hưởng đến thuốc uống của người bệnh. trước khi uống thuốc lần đầu tiên, cần tư vấn cùng bác sĩ điều trị và dược sĩ để nắm rõ được danh sách những loại thức ăn và những loại thuốc khác cần tránh trong quá trình dùng thuốc.

Bưởi là loại quả có múi, có khả năng làm thay đổi một số tế bào trong ruột nên ảnh hưởng để quá trình hấp thụ và di chuyển thuốc trong cơ thể. Theo thống kê, ăn bưởi khi uống thuốc có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của hơn 50 loại thuốc. Điển hình là bưởi có thể làm giảm hiệu quả của thuốc Fexofenadine hoặc làm những thuốc khác như Atorvastatin là thuốc giảm Cholesterol trở nên hoạt động quá mạnh.

Ăn bưởi khi uống thuốc có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của hơn 50 loại thuốc

Sữa và những sản phẩm làm từ sữa có thể khiến cơ thể người bệnh khó khăn trong việc xử lý một số loại thuốc kháng sinh. Trong sữa, những khoáng chất như calci, magie là một phần nguyên nhân của vấn đề này, cùng với những protein casein. Vì vậy, nếu người bệnh đang điều trị với thuốc kháng sinh thì nên lưu ý về việc dùng sữa trong quá trình này.

Một số người bệnh thường dùng cam thảo như một phương thuốc thảo dược để giải quyết các vấn đề về hệ tiêu hóa, một số khác lại xem cam thảo như một hương liệu trong chế biến thực phẩm. Tuy nhiên, trong cam thảo có chứa Glycyrrhizin là một chất hóa học có thể làm suy yếu tác dụng của một số loại thuốc, trong đó có Cyclosporine là thuốc dùng trên những bệnh nhân đã tiến hành cấy ghép tạng.

Chocolate đen có thể làm suy yếu tác dụng của những loại thuốc an thần hoặc thuốc ngủ như Zolpidem Tartrate. Nó cũng có thể làm tăng sức mạnh của một số loại thuốc kích thích như Methylphenidate. Trong trường hợp bệnh nhân dùng thuốc ức chế MAO là thuốc điều trị bệnh lý trầm cảm thì chocolate có thể khiến người bệnh đối mặt với tình trạng tăng huyết áp nguy hiểm.

Khi bổ sung sắt cho cơ thể thì cũng đồng nghĩa với việc tác dụng của thuốc Levothyroxine trong điều trị bệnh lý suy giáp cũng sẽ bị giảm đi. Nếu dùng thuốc này và vitamin tổng hợp thì cần cân nhắc xem loại vitamin tổng hợp đó có chứa sắt hay không, nếu có hãy hỏi ý kiến của bác sĩ về việc dùng thuốc và vitamin vào những thời điểm khác nhau trong ngày để hạn chế sự tương tác thuốc này.

Rượu khiến cho thuốc trở nên kém hiệu quả, thậm chí trở nên không có tác dụng trong chữa trị bệnh, điển hình là thuốc điều trị tăng huyết áp và thuốc điều trị các bệnh lý tim mạch. Rượu cũng khiến cho một số loại thuốc khác hoạt động mạnh hơn mức cần thiết hoặc gây ra những tác dụng phụ nguy hiểm.

Cà phê có thể làm suy yếu những loại thuốc chống loạn thần như Lithium, Clozapine cũng như làm tăng hoạt động và tác dụng phụ của những nhóm thuốc khác như Aspirin, Epinephrine trong điều trị phản ứng dị ứng nghiêm trọng hay Albuterol trong điều trị các bệnh lý hô hấp. Cà phê cũng khiến cơ thể trở nên khó hấp thu và sử dụng chất sắt hơn.

Cà phê có thể làm suy yếu những loại thuốc chống loạn thần như Lithium, Clozapine

Những thuốc kháng Histamin có tác dụng giảm hắt hơi, sổ mũi trong bệnh lý dị ứng nhưng nó cũng góp phần khiến cho hiệu quả thuốc điều trị tăng huyết áp kém hiệu quả khi ta phối hợp thuốc. Thuốc kháng histamin cũng làm tăng nhịp tim của người dùng, vì vậy nếu những bệnh nhân đang dùng thuốc huyết áp thì cần có những chỉ định phù hợp hơn trong việc điều trị dị ứng.

Thuốc AED có tác dụng kiểm soát cơn động kinh nhưng vẫn có một số tương tác thuốc xảy ra khi dùng kèm với thuốc tránh thai làm giảm tác dụng của loại thuốc này. Ngoài ra, thuốc cũng làm tăng tác dụng của một số loại thuốc khác cũng như khiến những tác dụng phụ ngày càng trầm trọng hơn.

Trên những bệnh nhân dùng thuốc Warfarin điều trị và dự phòng huyết khối thì cần lưu ý đến hàm lượng vitamin K đưa vào cơ thể. Thuốc có thể làm loãng máu, khiến cho nguy cơ cục máu đông xuất hiện nhiều hơn. Những loại thực phẩm có chứa nhiều vitamin K mà người bệnh cần lưu ý đó là bông cải xanh, cải Brussels, cải xoăn, rau mùi tây, rau bina... Bệnh nhân cũng cần lưu ý ăn cùng một lượng thực phẩm này mỗi ngày để nồng độ Warfarin trong máu không đổi.

Nhân sâm làm giảm tác dụng của Warfarin, khiến bệnh nhân dễ bị chảy máu hơn khi đang dùng các thuốc chống đông máu như Heparin, Aspirin và những thuốc kháng viêm không Steroid như Ibuprofen, Naproxen... Nếu bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế MAO thì nhân sâm có thể gây nên tình trạng đau đầu, khó ngủ, tăng động hoặc căng thẳng.

Nhân sâm làm giảm tác dụng của Warfarin, khiến bệnh nhân dễ bị chảy máu hơn khi đang dùng các thuốc chống đông máu

Loại thảo dược này thường được sử dụng trên những bệnh nhân bị trầm cảm, khi dùng thì có thể làm cho gan của người bệnh giải phóng những enzym làm suy yếu tác dụng của một số loại thuốc như Lovastatin trong điều trị Cholesterol, thuốc Sildenafil trong điều trị rối loạn cương dương hoặc thuốc Digoxin trong điều trị bệnh lý tim mạch.

Loại thảo dược quý này thường được sử dụng để điều trị và ngăn ngừa tình trạng cao huyết áp, điều trị chứng mất trí nhớ, ù tai và một số bệnh lý khác. Khi dùng chung với những loại thuốc chống động kinh như Carbamazepine hay Axit Valproic thì có thể gây ra tương tác thuốc và làm giảm tác dụng của những loại thuốc này.

Theo thống kê, chỉ khoảng 50% thuốc được dùng đúng theo quy định và bệnh nhân thường có xu hướng dùng ít hơn mức mà cơ thể cần để chữa bệnh. Ngoài ra, việc uống thuốc vào bất cứ thời điểm nào trong ngày, một cách ngẫu nhiên và khoảng thời gian giữa các liều thuốc cũng quá lớn khiến cho hiệu quả điều trị không cao. Vì vậy, bệnh nhân cần có một kế hoạch điều trị cụ thể và tuân thủ nghiêm ngặt thời gian uống thuốc mà bác sĩ đưa ra.

Kết luận

Việc dùng thuốc điều trị bệnh cần được thực hiện đúng quy trình, đúng thời gian và đúng phương pháp thì mới đem lại hiệu quả cho sức khỏe của người bệnh. Bệnh nhân cần chủ động tìm hiểu cũng như cần được tư vấn với bác sĩ điều trị và dược sĩ về những loại thuốc, thực phẩm cần tránh cũng như phối hợp thuốc hợp lý để giảm thiểu nguy cơ tương tác thuốc và tác dụng phụ nguy hiểm.

Quý khách vui lòng theo dõi website [www.vinmec.com] để có thêm thông tin hướng dẫn về chăm sóc sức khỏe sẽ được chúng tôi cập nhật thường xuyên.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 [phím 0 để gọi Vinmec] hoặc đăng ký lịch khám tại viện TẠI ĐÂY. Nếu có nhu cầu tư vấn sức khỏe từ xa cùng bác sĩ Vinmec, quý khách đặt lịch tư vấn TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn

Nguồn tham khảo: webmd.com

XEM THÊM:

Video liên quan

Chủ Đề