Bản tuyên ngôn độc lập được viết ở đâu

Chuyện kể rằng: Sau cách mạng Tháng Tám 1945, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định đưa Bác về Thủ đô Hà Nội để lãnh đạo, giữ vững và củng cố chính quyền non trẻ.

Lúc này, Bác rất gầy và thêm bị ốm. Trên đường về Hà Nội, có lúc mệt quá, Bác không đi được, anh em dùng vải và đòn tre làm cáng. Nằm trên cáng, Bác sốt cao, nóng hầm hập nhưng Bác vẫn thấy vui vì đi tới đâu cũng thấy cờ đỏ sao vàng và đồng bào hào hứng hô vang: ''Ủng hộ Việt Minh'', “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm''. Bác về đến ngoại thành Hà Nội, chiều tối ngày 26/8/1945, đồng chí Trường Chinh đến đón Bác. Xe đưa Bác vào nhà số 48 phố Hàng Ngang [Hà Nội], nhà của ông Trịnh Văn Bô, một thương gia lớn và là cơ sở của cách mạng. Ngôi nhà 3 tầng, tầng l và tầng 3 chủ nhà dành để ở và bán hàng. Còn tầng 2 dành phục vụ cho cách mạng. Lúc này, chủ nhà chưa biết người cách mạng vào ở nhà mình là Hồ Chí Minh. Đi lên, đi xuống nhiều lần chủ nhà chỉ thấy một cụ già dáng người gầy nhưng nhanh nhẹn, có đôi mắt sáng lạ thường. Sau này, chủ nhà mới biết ngôi nhà của mình có vinh dự được đón tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay chiều tối hôm sau ngày 27/8, đồng chí Vũ Kỳ được Trung ương chọn làm thư ký riêng cho Bác đến gặp Bác. 

Bác thân mật hỏi Vũ Kỳ “Chú tên gì?”.  Vũ Kỳ đáp: “Dạ, cháu tên Cần ạ”. [tên Vũ Kỳ hồi đó]. Có lẽ tôi xúc động nói không rõ nên Bác nghe thành Cẩn, Bác trìu mến bảo: “Cẩn à! Cẩn là cẩn thận. Rất tốt”. Sáng hôm sau, Bác gọi tên Cẩn, tôi thưa rất rõ: “Dạ cháu là Cần ạ”. Bác tỏ ra rất vui và nói ngay : “Cần thì càng tốt. Cần là cần, kiệm, liêm, chính”. Đó cũng là niềm mong muốn của Bác về phẩm chất, đạo đức của người cán bộ cách mạng. Chúng ta biết sau này tại chiến khu Việt Bắc, Vũ Kỳ là một trong tám đồng chí làm việc bên Bác được Bác đặt tên: Trường - Kỳ -Kháng - Chiến - Nhất - Định - Thắng - Lợi .

Nguồn: Internet

Trong căn nhà 48 phố Hàng Ngang, hằng ngày Bác ngủ  dậy rất sớm tập thể dục, sau đó ngồi vào bàn làm việc, chiếc máy chữ trên bàn cứ nghe lách tách liên hồi. Ban đêm, Bác thức rất khuya, trầm ngâm suy nghĩ về những nội dung trong bản thảo Tuyên ngôn Độc lập và dùng bút chỉnh sửa. Sau mấy ngày sốt, tuy sức khoẻ giảm sút trông thấy, nhưng Bác vẫn miệt mài làm việc. Đêm 29 tháng 8, Bác thức khuya hơn bình thường vì ngày 02 tháng 9 đã cận kề. Bác viết rồi lại sửa. Pha nước cho Bác, tôi mạo muội mời Bác ngã lưng tí cho khỏe vì khuya quá rồi. Bác cầm li nước ấm trên tay và đi ra cửa sổ nhìn xuống dưới đường. Lúc này, có em bé bán lạc rang vừa đi, vừa rao : «Ai lạc rang ... không !  Ai lạc rang ... không !»... Bác nhìn mãi khi bóng em bé khuất vào góc đường, Bác quay vào bàn ôn tồn nói: Dân mình nghèo khổ quá, đến khuya thế này rồi mà trẻ con còn đi mưu sinh. Rồi Bác lại  ngồi vào bàn viết, thấy thế, tôi không dám mời Bác ngủ nữa. Ngồi bên Bác, lòng cứ ái ngại lo lắng cho sức khỏe của Bác. Bác viết, rồi nghỉ... những lúc suy nghĩ căng thẳng nhất Bác thường đặt tay lên trán và thường nhìn vào những dòng chữ như có hồn vừa được viết ra với đôi mắt sáng. Cho đến ngày 30 tháng 8, bản Tuyên ngôn Độc lập được dự thảo xong. Bác đưa ra tranh thủ ý kiến các đồng chí Trung ương. Sáng 31 tháng 8, Bác hỏi Vũ Kỳ:

- Chú có biết Quảng trường dự định họp mít tinh như thế nào không? Rồi Bác bảo Vũ Kỳ vẽ phác thảo bản đồ cho Bác xem. Xem bản đồ xong. Bác hỏi:

- Liệu được bao nhiêu người?

Đồng chí Vũ Kỳ trả lời; được vài chục vạn người Bác ạ.

Bác hỏi tiếp: Thế các chú định bố trí để đồng bào đi vệ sinh ở đâu?

Đồng chí Vũ Kỳ sững sờ trước câu hỏi của Bác và lúng túng không biết trả lời thế nào. Bác dặn đồng chí Vũ Kỳ làm việc với Ban tổ chức nếu trời có mưa thì kết thúc mít tinh sớm hơn, tránh cho đồng bào khỏi bị ướt, nhất là đối với các cụ già và các cháu thiếu nhi.

Thật hạnh phúc biết bao cho nhân dân Việt Nam khi được biết vị đứng đầu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, trước khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, một việc lập quốc, khai sinh một đất nước sau gần thế kỷ mất nước, nô lệ; sau một ngàn năm phong kiến lạc hậu ...trong khoảnh khắc ấy người đã để tâm lo cả những việc rất nhỏ trong đời sống nhân dân, đặc biệt cho trẻ em và người già.

Nguồn: Internet

Ngày 02-9-1945 đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi: khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á. Tại Quảng trường Ba Đình, khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, đến đoạn tố cáo tội ác thực dân Pháp và phát xít Nhật, cả biển người im phăng phắc. Tiếng Người trầm ấm đi vào lòng người. Bất chợt, Bác ngừng đọc cất tiếng hỏi rất thân mật:  “Đồng bào nghe tôi nói rõ không? ”. Bác e rằng đồng bào có thể nghe không rõ bởi giọng nói của một người đã đi xa Tổ quốc suốt 30 năm, giữa Quảng trường rộng lớn, tiếng gió hòa lẫn nhiều âm thanh rền vang khác của hàng vạn người ... mà khoảnh khắc ấy Bác quên cả mình là Chủ tịch nước đang trịnh trọng đọc Tuyên ngôn. Nên nhà thơ Tố Hữu đã cảm nhận,

“Ôi câu hỏi hơn một lời kêu gọi

Rất  đơn sơ mà ấm áp bao lòng 

Cả dân tộc một lời đáp có

Như trường sơn say gió biển đông”.

Chưa bao giờ và chưa ở đâu, người ta lại thấy tình cảm giữa lãnh đạo cao nhất và dân chúng gần gũi và thân thương đến thế! Kết thúc cuộc mít tinh, ra về nhưng mọi người vẫn như nhìn thấy ánh mắt, vẫn như nghe thấy giọng nói ấm áp và hiền hậu của Bác.

76 năm đi qua, hình ảnh Người, lời nói trầm ấm của Người mãi còn khắc sâu trong tâm khảm của thế hệ người Việt Nam được may mắn chứng kiến sự kiện lịch sử có một không hai, lịch sử được khắc sâu qua những câu chuyện kể cho thế hệ hôm nay. Câu chuyện Vũ Kỳ kể về Bác Hồ viết và đọc Tuyên ngôn Độc lập mãi được con cháu kể tiếp, viết lại nhưng tính thời sự vẫn mãi còn vang vọng.

Lịch sử dân tộc là mồ hôi, nước mắt, máu xương của cha ông hàng ngàn năm xây dựng qua những lần khẳng định chủ quyền của quốc gia dân tộc. Đọc tuyên Ngôn độc lập Hồ Chí Minh viết và đọc 02/9/1945, bao thế hệ Việt Nam hôm nay lại ngẫm về “bài thơ thần” “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, [triều nhà Lý], vang lên trên phòng tuyến sông Như Nguyệt [1076], làm kẻ thù khiếp vía. “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi [triều nhà Lê sơ]  cất cao khúc ca khải hoàn, kết thúc thắng lợi 21 năm chống quân Minh [1406- 1427].

Từ Tuyên ngôn Độc lập 02/9/1945, gợi nhắc quá khứ hùng thiêng của dân tộc qua mấy ngàn năm lịch sử, luôn ngẩng cao đầu, đứng lên giành quyền tự quyết, quyền độc lập cho chính mình, ta càng yêu hơn đất nước Việt Nam; càng tự hào về dân tộc anh hùng đã sản sinh ra những vĩ nhân làm rạng danh cho non sông, đất nước; để trong mỗi trái tim Việt Nam sáng mãi tên Người - Hồ Chí Minh./.

Như Hoa

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.


Nghe Hồ Chủ tịch đọc Tuyên ngôn độc lập

........................................

Hỡi đồng bào cả nước,

"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền  ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: "người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở trung, nam, bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.

Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.

Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.

Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.

Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.

Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông - dương để mở thêm căn cứ đánh đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng trị đến Bắc kỳ hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng dã man bán nước ta hai lần cho Nhật.

Trước ngày mồng 9 tháng 3, biết bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt minh hơn nữa.

Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên bái và Cao bằng.

Tuy vậy, đối với nước Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày mồng 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.

Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.

Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.

Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.

Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.

Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.

Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! dân tộc đó phải được độc lập!

Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

Tuyên ngôn độc lập, đọc tại lễ Quốc khánh 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình

Hồ Chí Minh toàn tập

Video liên quan

Chủ Đề