Cảm nhận về nhân vật Mị trong đoạn văn sau

Đề bài: Cảm nhận về hình tượng nhân vật Mị trong hai đoạn văn sau: Lần lần, mấy năm qua.... Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa

Mục Lục bài viết:
1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
3. Bài mẫu số 3

Cảm nhận về hình tượng nhân vật Mị trong hai đoạn văn sau: Lần lần, mấy năm qua.... Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa


1. Mẫu số 1:

Truyện ngắn "Vợ chồng A phủ" là một trong số những tác phẩm xuất sắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Mị và đặc biệt, qua hai đoạn trích "Lần lần, mấy năm qua.... Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa" giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về số phận của nhân vật. Trước hết, ở đoạn văn thứ nhất đã cho chúng ta thấy rõ được số phận bất hạnh của nhân vật Mị khi trở thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra. Vì món nợ truyền kiếp, Mị bỗng chốc trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí, sống cuộc sống lầm lũi, trở thành công cụ lao động và mất hết ý niệm về thời gian. Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng nhà văn Tô Hoài đã giúp người đọc cảm nhận được số phận tủi khổ của Mị. Nhưng ở Mị, người ta còn thấy ánh lên sức sống, tinh thần phản kháng tiềm tàng và ở đoạn văn thứ hai đã giúp chúng ta cảm nhận rõ nét điều đó. Không còn lầm lũi trong căn buồng kín mít, Mị khao khát được đi chơi, thấy lòng "vui sướng như những đêm ngày Tết lúc trước" và rồi Mị ý thức được số phận của mình ở hiện tại. Và một lần nữa, Mị lại nghĩ đến cái chết, cái chết để giải thoát đi những tủi cực, bất hạnh của số phận mình. Như vậy, chỉ với hai đoạn văn, nhưng cũng đủ để người đọc có thể cảm nhận được hình ảnh nhân vật Mị trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài.


2. Đoạn văn 2:

Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị. Đặc biệt, qua hai đoạn trích "Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết... Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa" càng giúp chúng ta hiểu sâu sắc thêm về nhân vật. Trước hết, hai đoạn trích đã cho người đọc thấy được cuộc sống, số phận của nhân vật Mị khi trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá tra. Kể từ khi trở thành con dâu nhà thống lí, Mị dần bị chai sạn, Mị mất hết ý niệm về không gian, thời gian và biến thành cỗ máy làm việc. Những tưởng, cuộc sống của Mị sẽ mãi mãi quẩn quanh trong bóng đêm mịt mờ ấy, nhưng không, ở cô gái dân tộc H'mông ấy ta vẫn thấy ánh lên sức sống, khát vọng sống tiềm tàng. Mùa xuân lại về trên mảnh đất Tây Bắc, Mị từ cô gái chai sạn, "ngồi trơ giữa nhà" bỗng lại thấy "phơi phới trở lại", Mị thấy vui vẻ và muốn được đi chơi như những năm tháng vui tươi trước đây. Và rồi, trong giây phút ấy, Mị thức tỉnh và Mị nghĩ "nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa". Mị muốn chết vì hơn lúc nào hết, Mị ý thức sâu sắc về số phận của mình, về nỗi đau đớn của mình. Và như vậy, qua hai đoạn văn trên đã giúp người đọc cảm nhận được sâu sắc, rõ nét về số phận của nhân vật Mị.


3. Đoạn văn 3

Đọc truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài, người đọc sẽ không thể nào quên được hình ảnh nhân vật Mị. Đặc biệt, qua hai đoạn trích "Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết... Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa" càng giúp chúng ta hiểu thêm về cô gái dân tộc H'Mông xinh đẹp này. Trước hết, qua hai đoạn trích, người đọc thấy được cuộc sống khổ cực, số phận bất hạnh của Mị. Chỉ vì món nợ truyền kiếp của gia đình từ bao nhiêu năm nay, Mị bỗng chốc trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí và cũng kể từ đây, cuộc sống của Mị bước sang một trang mới. Không còn là cô gái xinh đẹp với bao khao khát, rạo rực của tuổi mới lớn, Mị dần trở nên bị chai sạn về mặt tâm hồn, trở thành cỗ máy lao động và mất hết mọi ý niệm về không gian thời gian. Mị cứ lầm lũi như vậy từ ngày này qua ngày khác và "Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa". Nhưng Mị không sống mãi như thế, qua hai đoạn trích có thể thấy có những giây phút sức sống, khát khao sống tiềm tàng trong Mị đã sống dậy. Cô cũng khao khát được đi chơi Tết, thấy vui sướng và thấy mình còn trẻ. Thế nhưng, chính trong phút giây ấy, Mị lại nghĩ nếu có lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết chứ không còn muốn nhớ lại. Mị muốn ăn lá ngón để chết bởi lúc này đây, Mị đang ý thức một cách rõ nét về cuộc sống vô vị, không ý nghĩa của chính mình và về những tủi cực, khổ sở của bản thân. Như vậy, qua hai đoạn văn trên, nhà văn Tô Hoài đã thêm một lần nữa giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn về nhân vật Mị.

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Tô Hoài viết về cuộc sống và số phận của những người nông dân nghèo dưới chế độ phong kiến miền núi hà khắc. Tìm hiểu chi tiết vể nhân vật Mị cũng như giá trị của truyện ngắn này, bên cạnh bài Cảm nhận về nhân vật Mị trên đây, các em có thể tham khảo thêm: Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Phân tích hành động cởi trói của Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực trong Vợ chồng A Phủ, Diễn biến tâm trạng của Mị trong "đêm tình mùa xuân" trong Vợ chồng A Phủ.

3 đoạn văn ngắn trình bày Cảm nhận về hình tượng nhân vật Mị trong hai đoạn văn sau: Lần lần, mấy năm qua.... Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa giúp các em hiểu được hoàn cảnh đáng thương của Mị khi buộc trở thành con dâu trừ nợ nhà thống lí Pá Tra.

Có ai đó đã từng nói: Thơ cám dỗ người đọc bằng ngôn từ, còn truyện ngắn lại cám dỗ người đọc bằng chi tiết, hình ảnh. Bởi vậy, sáng tạo chi tiết, hình ảnh độc đáo đòi hỏi nhà văn phải lựa chọn nghiêm ngặt sao cho cô đọng, hàm súc, ấn tượng, ám ảnh. Với ý niệm ấy, “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài thực sự đã để lại cho người đọc những ấn tượng đặc sắc, có sức hút lớn. Đặc biệt là qua hai hình ảnh miêu tả nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân :

Trong đêm tình mùa xuân: “Trong bóng tối […] mình không bằng con ngựa”

Tô Hoài là nhà văn có vốn hiểu biết rất sâu rộng về nhiều vùng văn hóa khác nhau trên đất nước ta, đặc biệt là vùng văn hóa Tây Bắc – nơi ông có chuyến đi dài tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng vùng đất này, để rồi từ đó “Vợ chồng A Phủ” đã ra đời. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn bạn đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải với vốn từ vựng giàu có, phong phú – nhiều khi rất bình dân nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc.

“Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” là tác phẩm tiêu biểu của Tô Hoài viết về vùng đất và con người Tây Bắc bao la và nghĩa tình. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về cuộc sống bi thảm của người dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của chủ nô miền núi, vừa là bài ca ca ngợi sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do mãnh liệt của của con người. Tiêu biểu cho nội dung ấy là hình tượng nhân vật Mị – một hình tượng nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn chứa đựng nhiều thông điệp của nhà văn. Hình tượng nhân vật này đã được nhà văn Tô Hoài tập trung khắc họa một cách ấn tượng, chân thực và sinh động qua hai đoạn văn: Đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ. Có thể nói, đây là hai đoạn trích tuyệt bút thể hiện tài năng bậc thầy của Tô Hoài trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.

Đoạn văn là hình ảnh nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân với sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong hoàn cảnh bị vùi dập.

Trước đó nhà văn miêu tả nhân vật Mị – một cô gái trẻ đẹp, giàu nhân phẩm, giàu tài năng âm nhạc với điệu sáo làm say mê lòng người. Vì món nợ nhà giàu của cha mẹ, Mị bị bắt làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý, cuộc sống thống khổ như trâu ngựa dần biến Mị thành người đàn bà câm lặng, chai sạn, băng giá. Thể xác bị bóc lột, tinh thần bị tê liệt, mất ý thức phản kháng bởi sự cầm tù của thần quyền và cường quyền. Đêm tình mùa xuân đến, cùng với sự náo nức rạo rực của đất trời là sự náo nức trong lòng Mị. Cùng với tiếng sáo và men rượu nồng nàn, Mị đã sống dậy những phút giây hạnh phúc nhất của tuổi trẻ. Mị nhận thức được thanh xuân của mình. Mị thấy “Mị trẻ lắm. Mị vẫn đang còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Khát vọng tự do cháy bỏng khiến Mị quên đi nỗi sợ hãi về cường quyền và thần quyền. Mị thắp đèn, cuốn lại tóc, lấy váy hoa, rút thêm cái áo sửa soạn đi chơi. Nhưng A Sử đã nhẫn tâm vùi dập Mị bằng một thúng sợi đay, hắn trói Mị vào cột, “tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”.

Chính lúc này đây, sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong con người lao động được bộc lộ sâu sắc và mãnh liệt nhất. Chính sức sống ấy đã làm Mị quên đi nỗi đọa đày khổ nhục, quên đi đớn đau về thể xác. Câu văn đầu mở ra hình ảnh tội nghiệp của Mị: “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói”. Cái “im lặng như không biết mình đang bị trói” ấy không phải là sự vô cảm, sự nhẫn nhục thường thấy ở người đàn bà này. Đây chính là lúc mà thể xác của Mị đã không còn cảm nhận được nỗi đau. Bởi thể xác Mị nằm đây giữa bốn bức tường lạnh lẽo, nhưng tâm hồn Mị thì đang ở ngoài kia – thế giới của thiên đường mênh mang tiếng sáo gọi bạn tình. Men rượu chưa tan, men rượu còn nồng nàn trong Mị, hương rượu quyện hòa trong hương thơm của men tình dặt dìu theo tiếng sáo. Nếu trước đó tiếng sáo là tác nhân đã phá tan lớp băng vô cảm, đã mở toang cánh cửa trái tim Mị để đón nhận hương đời. Thì nay, sáo đã trao cho Mị chiếc chìa khóa vàng để lòng khát khao sống, khát khao yêu được bùng cháy. Lúc này đây trong cơn say, tiếng sáo lại một lần nữa đến bên Mị, cứu rỗi linh hồn Mị, dìu Mị đi trong những “cuộc chơi, những đám chơi”. Tình yêu của Mị dành cho tuổi trẻ, cho cuộc đời còn nồng nàn lại được tiếng sáo nâng đỡ, dìu dắt khiến cho tình yêu ấy càng đắm say, ngây ngất. Tiếng sáo đã không còn “lửng lơ bay ngoài đường” nữa mà đã nhập vào hồn Mị. Tâm hồn Mị như rung lên cùng nhịp sáo:

“Em không yêu, quả pao rơi rồi

Em yêu người nào, em bắt pao nào”

         Có thể nói, tiếng sáo là chi tiết hay nhất trong “Vợ chồng A Phủ”, là “hạt bụi vàng” của tác phẩm. Nhờ chi tiết tiếng sáo mà người đọc nhìn thấu được cảm xúc, tâm trạng cũng như sự hồi sinh mạnh mẽ, mãnh liệt ở Mị. Tiếng sáo là biểu tượng cho thế giới tự do, là hiện thân của tuổi trẻ, tài năng và ký ức đẹp tươi của Mị. Bởi thế chính tiếng sáo là âm thanh hay nhất, lay động nhất tới sự hồi sinh của nhân vật. Sức mạnh tiếng sáo và giấc mơ tự do đã khiến Mị quên đi thực tại ê chề. Đúng như Tô Hoài từng nhận định: “Tiếng sáo kia quá tha thiết, quá mạnh mẽ, nó dìu hồn Mị bay lên trên hoàn cảnh, nó là biểu tượng của niềm khát sống, khát khao yêu, ở đây còn là lòng khao khát tự do nữa”. Tâm hồn Mị như đang thăng hoa cùng tiếng sáo gọi bạn tình. Thế giới nội tâm ấy thật đẹp biết bao!

         Nhưng cũng chính tiếng sáo là tác nhân khắc sâu thêm bi kịch của Mị. Tiếng sáo nhập vào hồn Mị khiến Mị quên đi thực tại đau buồn nhưng cũng chính nó lại đánh thức thực tại của Mị. Nghe tiếng sáo, “Mị vùng bước đi”. Bốn chữ “Mị vùng bước đi” thật ngắn gọn nhưng hàm chứa trong đó là sức phản kháng, sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Câu văn tinh tế, sâu sắc, gợi ra biết bao suy tưởng về nhân vật. Làm sao Mị có thể vùng bước đi khi đã bị trói bằng cả một thúng  sợi đay? Nhưng Mị đã “vùng bước đi” thật. Mị không ý thức được hoàn cảnh thực tại, bởi Mị là kẻ mộng du đang lang thang với giấc mơ tự do của mình. Chỉ khi “tay chân đau không cựa được”, Mị mới thoát khỏi cơn mộng du của mình. Lúc này, nỗi đau thể xác hiện hữu cùng âm thanh tiếng chân ngựa đạp vào vách làm hiện thực trở nên phũ phàng, cay đắng. Tiếng sáo vụt biến tan, chỉ còn tiếng chân ngựa. Tiếng chân ngựa là âm thanh của thực tại, tiếng sáo là hiện thân của giấc mơ. Tiếng chân ngựa đã đập vỡ giấc mơ và khát vọng tự do của Mị, kéo Mị từ thiên đường trở lại địa ngục. Thế giới giấc mộng không còn, thế giới của thiên đường cũng biến mất, chỉ tiếng “gãi chân, nhai cỏ” là có thật. Mị quay trở về với hiện thực đau buồn, chợt cay đắng nhận ra thân phận thật sự của mình: “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Đề ra và bài làm của thầy Phan Danh Hiếu.

Có thể nói: Bi kịch của cuộc sống hiện tại không ngăn được khát vọng tự do mãnh liệt như ngọn lửa đang bùng cháy trong Mị. Đêm tình mùa xuân đi qua, Mị vẫn trở về với ô cửa lỗ vuông, với tảng đá cạnh tàu ngựa, vẫn những công việc đầu năm, giữa năm, cuối mùa vẽ ra trước mắt. Nhưng tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân giống như một tia lửa nhỏ mà “một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai” [Lỗ Tấn]. Tia lửa ấy sẽ bùng cháy vào ái đêm cởi trói cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài sau này.

Video liên quan

Chủ Đề