Luật Quốc tịch Việt Nam là quy định pháp lý về Quốc tịch Việt Nam do Quốc hội Việt Nam thông qua. Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam. Quốc tịch Việt Nam thể hiện quyền và nghĩa vụ của một người với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và ngược lại.[1] Quốc tịch Việt Nam về cơ bản được trao cho một người [tự động hoặc qua thủ tục pháp lý] theo quan hệ huyết thống, tuy nhiên vẫn có nhiều trường hợp ngoại lệ. Nhà nước Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam [trừ một số ngoại lệ đặc biệt] nhưng cũng đồng thời không cấm công dân được mang thêm các quốc tịch khác nghĩa là công dân Việt Nam nhập quốc tịch nước ngoài thì không mất quốc tịch Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam | ||||
Quốc hội Việt Nam | ||||
Căn cước công dân là một giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam
Điều 11, Luật quốc tịch Việt Nam 2008 quy định một trong các giấy tờ sau đây có giá trị chứng minh người có quốc tịch Việt Nam:
Người được xác định có quốc tịch Việt Nam, nếu có một trong những căn cứ sau đây: 1. Do sinh ra
2. Được nhập quốc tịch Việt Nam; 3. Được trở lại quốc tịch Việt Nam; 4. Theo quy định tại các điều 18, 35 và 37 của Luật này;
5. Theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Đa số người mang quốc tịch Việt Nam là những người sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, tuy nhiên cũng có một số ít những người lấy quốc tịch Việt Nam bằng cách nhập tịch. Điều 19 Luật quốc tịch 2008 quy định:
1] Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam; 2] Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam; 3] Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng Việt Nam; 4] Đã thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam; 5] Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
a] Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam; b] Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; c] Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhập tịch do kết hôn và định cưSửa đổiHiện nay có hai diện nhập tịch chính cho người nước ngoài là Nhập tịch thông qua kết hôn và Nhập tịch sau khi định cư lâu dài tại Việt Nam. Hầu hết những người nước ngoài lấy vợ Việt Nam đều đủ tiêu chuẩn nhập quốc tịch Việt Nam và còn được ưu tiên không cần thôi quốc tịch nước ngoài. Trên thực tế, nhiều cầu thủ bóng đá Việt Nam sinh ra ở nước ngoài không nhập cư theo diện định cư lâu dài mà thông qua con đường kết hôn.[11] Một số khác sau khi hoàn thành thời gian thường trú 5 năm ở Việt Nam và từ bỏ quốc tịch nước ngoài thì tiến hành thủ tục nhập tịch.[12] Các cầu thủ đã nhập quốc tịch là những công dân Việt Nam nên phải được đối xử bình đẳng theo Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, báo chí đã từng phản ánh việc Liên đoàn bóng đá Việt Nam hạn chế số lượng cầu thủ gốc ngoại tham gia thi đấu là không đúng.[13] Nhập tịch do không có quốc tịchSửa đổiNgười không quốc tịch là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài. Ở Việt Nam hiện nay có hàng chục nghìn người không quốc tịch[14] thuộc những nhóm người sau:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muốn hạn chế tối đa tình trạng không quốc tịch nên đã tạo điều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quốc tịch và những người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam được vào quốc tịch Việt Nam.[20] Người không có quốc tịch phải "cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên" theo điều 22 Luật quốc tịch. Chính sách quốc tịch Việt Nam được đánh giá là tốt nhất trong khu vực dù vẫn còn rất nhiều khó khăn trong việc xác minh quốc tịch.[21] Nhập tịch theo diện đặc biệtSửa đổiDiện cuối cùng và đặc biệt nhất là Nhập tịch do có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam được Chủ tịch nước ký quyết định. Ông Hồ Cương Quyết [tên khai sinh: Menras André Marcel] là người đầu tiên được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết kí quyết định trao quốc tịch theo diện này vào năm 2009. Sau đó có thêm một số trường hợp như ông Nguyễn Văn Lập [tên khai sinh: Kostas Sarantidis] được trao năm 2011[22]. Điều 26 của Luật quốc tịch 2008 quy định những căn cứ để xác định một người đã mất quốc tịch Việt Nam:
Trong quá khứ, vào thời kỳ chiến tranh và trước Đổi mới, khi pháp luật về quốc tịch chưa hoàn thiện thì có nhiều người Việt Nam bị mất quốc tịch theo cách này hay cách khác và trở thành những người không quốc tịch sống ở nước ngoài.
Hiện nay, nếu một người không làm thủ tục xin thôi quốc tịch Việt Nam thì rất hiếm khi có trường hợp bị mất quốc tịch [ví dụ: bị tước quốc tịch], trừ khi phạm những tội liên quan đến an ninh quốc gia. Năm 2017, ông Phạm Minh Hoàng, một người có hai quốc tịch Việt Nam và Pháp, đã bị tước quốc tịch Việt Nam do có hành vi xâm hại an ninh quốc gia của Việt Nam và đã bị kết án vì hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân[29]. Ngày 1/6/2017, Tổng lãnh sự quán Pháp tại TP Hồ Chí Minh thông báo cho ông, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã ký văn bản tước quốc tịch đối với ông vào hôm 17/5 [30].
Video liên quanChủ Đề |