Chính trị là gì vi sao hành chính công lệ thuộc chính trị

Mục lục

TÀI LIỆU ÔN THI MÔN LÝ LUẬN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [311.6 KB, 53 trang ]

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN LLHCNN
Caau1: Hãy nêu định nghĩa HCNN ? Bản chất HCNN và so sánh QLNN với
các dạng Quản lý xã hội khác.
1. Định nghĩa HCNN
Quản lý: Là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý thông qua các phương pháp và công cụ nhằm hướng hành vi
của đối tượng đạt tới mục tiêu đã định trước.
Điều kiện quản lý:
- Phải có quyền uy.
- Có tổ chức
- Và có sức mạnh cưỡng chế .
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực
nhà nước và sử dụng pháp luật, chính sách để điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức
trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước
thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì ổn định và phát triển của xã hội.
Đặc trưng cơ bản của QLNN
- Chủ thể của quản lý Nhà nước là các cơ quan, cá nhân trong bộ máy Nhà nước:
Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp.
- Đối tượng quản lý của quản lý Nhà nước bao gồm toàn bộ nhân dân, mọi cá
nhân sống và làm việc trên lãnh thổ quốc gia.
- Khách thể của quản lý Nhà nước: bao gồm các hành vi và quá trình xã hội.
- Phạm vi QLNN là quản lý toàn diện trên tất vả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội:
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao.
- Công cụ quản lý của quản lý Nhà nước mang tính quyền lực Nhà nước và sử
dụng pháp luật làm công cụ chủ yếu để duy trì trật tự xã hội và thúc đẩy xã hội
phát triển. Ngoài ra còn có các công cụ khác như chính sách, kế hoạch, chiến
lược.
1
- Phương pháp quản lý của quản lý Nhà nước là cưỡng chế. Cưỡng chế là biện
pháp bắt buộc của cơ quan nhà nước buộc các cá nhân, tổ chức phải tuân thủ pháp
luật trong những trường hợp quy định.


- Mục tiêu của quản lý Nhà nước là nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và
phát triển của toàn xã hội.
Hành chính là hoạt động chấp hành và điều hành trong quản lý một hệ
thống theo những quy định trước nhằm đạt mục tiêu của hệ thống.
• Tính chấp hành của hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thể
hiện ở sự thực hiện trên thực tế các văn bản: hiến pháp, luật, pháp lệnh và nghị
quyết của cơ quan lập pháp - cơ quan dân cử.
• Tính điều hành của hoạt động quản lý hành chính nhà nước thể hiện ở
chỗ là định hướng [thông qua quy hoạch, kế hoạch], điều chỉnh các quan hệ xã
hội [thông qua ban hành văn bản lập quy]; hướng dẫn và tổ chức thực hiện Hiến
pháp, luật, chính sách…; kiểm tra, thanh tra và xử lý những vi phạm pháp luật.
Có nhiều quan niệm khác nhau về HCNN, tùy theo mỗi quan điểm và cách
thức tiếp cận mà tồn tại những khái niệm khác nhau, tuy nhiên quan niệm của
Việt Nam về HCNN như sau:
 Hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước,
đó là hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống hành chính nhà nước trong
quản lý xã hội theo khuôn khổ pháp luật nhà nước nhằm phục vụ nhân dân, duy
trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
2. Bản chất của HCNN
HCNN vừa mang bản chất chính trị, mang tính pháp lý, vừa là hoạt động quản lý
và là một nghề.
a. HCNN mang bản chất chính trị
+ HCNN thực hiện những mục tiêu, những nhiệm vụ do chính trị thiết lập;
+ HCNN tham gia vào quá trình lập pháp;
+ HCNN vừa là chủ thể ban hành chính sách vừa là chủ thể thực thi chính sách;
+ Phục vụ lợi ích nhân dân và lợi ích công.
Ví dụ: Các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ đều là các
Ủy viên Trung ương Đảng, một số đồng chí trong thường trực Chính phủ, Bộ
2
trưởng Công an, Quốc phòng là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung

ương.
b. HCNN mang tính pháp lý
+ HCNN hoạt động trong khuôn khổ PL, theo những chỉ dẫn PL của NN.
+ Chủ thể HCNN có trách nhiệm tổ chức thi hành PL, đưa PL vào đời sống XH
nên hoạt động của nó mang tính pháp lý.
+ HCNN thực hiện chức năng lập quy: ban hành các VBQPPL dưới luật để cụ thể
hóa và hướng dẫn thi hành luật.
c. HCNN là hoạt động quản lý
+ HCNN là một bộ phận của QLNN, mang bản chất QLNN.
+ HCNN là chức năng hành pháp của NN – thi hành PL, chính sách.
+ HCNN phối hợp hoạt động hợp tác của các cá nhân, tổ chức trong XH nhằm đạt
những mục tiêu nhất định.
+ HCNN vừa là khoa học vừa là nghệ thuật:
- Là khoa học: HCNN là khoa học nó dựa trên các tiêu chí khoa học có người
nghiên cứu nó, có các công trình nghiên cứu, có cơ sở để nghiên cứu nó.
- HCNN là nghệ thuật: Đây là nghệ thuật làm việc với con người, giao tiếp, tìm
hiểu tâm lý con người và nghệ thuật này được ứng dụng vào bất cứ lĩnh vực nào
để công việc được thực hiện một cách hoàn hảo, khéo léo.
- HCNN là khoa học kết hợp với nghệ thuật: Nghĩa là HCNN tác động đến hoạt
động của con người mang tính hai mặt. Một mặt, là nghệ thuật, nghệ thuật của
việc sử dụng kỹ năng, các mối quan hệ, đòi hỏi phải vận dụng nhiều quy luật. Mặt
khác, nó là khoa học vì nếu thiếu cơ sở khoa học thì HCNN không thể tồn tại.
d. HCNN là một nghề
Nghề hành chính là nghề tổng hợp, đòi hỏi một đội ngũ CBCC phải có trình độ,
chuyên môn, nghiệp vụ nhất định.
Hành chính là nghề lao động trí óc và là nghề hiện thực hóa các ý tưởng của các
nhà chính trị.
3. So sánh QLNN với các dạng QLXH khác:
3
So với quản lý của các tổ chức khác, thì quản lý nhà nước có những điểm

khác biệt như sau:
Trước hết, chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan, cá nhân trong bộ máy
nhà nước được trao quyền, gồm: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư
pháp;
Thứ hai, đối tượng quản lý của Nhà nước là tất cả các cá nhân, tổ chức sinh
sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, công dân làm việc bên ngoài
lãnh thổ quốc gia.
Thứ ba, phạm vi quản lý nhà nước là quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng,
ngoại giao;
Thứ tư, tính chất của quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, sử
dụng công cụ pháp luật nhà nước, chính sách để quản lý xã hội.
Thứ năm, mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn
định và phát triển của toàn xã hội.
Ví dụ:
Quản lý nhà nước khác quản lý của tổ chức đoàn thanh niên ở điểm nào?
4
Câu 2: Hãy nêu và phân tích vai trò của hành chính nhà nước.
Vai trò của hành chính nhà nước được thể hiện trên các mặt sau:
- Thứ nhất, hành chính nhà nước hiện thực hóa các mục tiêu, ý tưởng của các
nhà chính trị - những người đại diện của nhân dân. Vai trò này xuất phát từ chức
năng chấp hành của hành chính nhà nước. Chủ thể hành chính nhà nước có trách
nhiệm chấp hành quyết định của các cơ quan chính trị nhằm đạt được các mục
tiêu chính trị của quốc gia, phục vụ lợi ích của đất nước, của nhân dân.
- Thứ hai, hành chính nhà nước điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội
nhằm đạt mục tiêu tới mức tối đa và với hiệu quả cao nhất. Vai trò này xuất phát
từ chức năng cụ thể của điều hành hành chính nhà nước là: định hướng [thông qua
quy hoạch, kế hoạch], điều chỉnh các quan hệ xã hội [thông qua ban hành văn bản
lập quy]; hướng dẫn và tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật, chính sách ; kiểm tra,
thanh tra và xử lý những vi phạm pháp luật.

5
Tiêu chí
Quản lý nhà nước
Quản lý của đoàn thanh
niên
Phạm vi
Quản lý trên tất cả mọi lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hóa…
Giới hạn trong tổ chức
đoàn
Công cụ
Cơ quan nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật
Duy trì điều lệ đoàn
Tính chất Mang tính cưỡng chế Tự nguyện
Đối tượng quản

Toàn thể nhân dân Chỉ là các đoàn viên
Mục tiêu
Duy trì xã hội, ổn định phát
triển, đáp ứng quyền lợi nhân
dân
Phát triển đoàn viên
Nguồn tài chính Thuế Quỹ đoàn
Hình thức xử lý
Cảnh báo, phạt tiền, bỏ tù, tước
quyền sở hữu con người.
Khai trừ ra khỏi tổ chức
đoàn.
- Thứ ba, hành chính nhà nước duy trì và thúc đẩy xã hội phát triển theo định

hướng. Để thực hiện tốt hai vai trò trên, hành chính luôn có trách nhiệm duy trì và
tạo lập những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các yếu tố cấu thành xã hội
như: duy trì và phát triển các nguồn tài nguyên, kiến tạo các nguồn lực vật chất,
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, phát triển nguồn lực con người, khắc
phục những thất bại của thị trường hoặc hậu quả do những sai sót của hành chính
nhà nước gây ra
- Thứ tư, hành chính nhà nước đảm bảo cung cấp dịch vụ công cho xã hội.
Cùng với sự phát triển của xã hội và quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, thì vai
trò này ngày càng quan trọng và mở rộng. Vì suy cho cùng, hành chính nhà nước
được thiết lập nhằm để phục vụ lợi ích của nhân dân với tư cách là chủ thể của xã
hội, là chủ thể của quyền lực nhà nước.
Câu 3: Những đặc trưng cơ bản của Hành chính công. Liên hệ thực tiễn
hoạt động Hành chính công ở Việt Nam để làm rõ những đặc trưng trên.
Những đặc trưng cơ bản của nền hành chính Nhà nước: 7
1. Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị:
*Tính lệ thuộc vào chính trị:
 HCNN là nơi thực hiện những nhiệm vụ chính trị do cơ quan quyền lực
Nhà nước quyết định.
 HCNN thực hiện các hoạt động của mình trong khuôn khổ các đạo luật do
cơ quan lập pháp ban hành;
 Các nhà hành chính cấp cao đồng thời cũng là các nhà chính trị.
Nền hành chính trước hết là phục vụ chính trị, thực hiện những nhiệm vụ
chính trị do cơ quan quyền lực Nhà nước quyết định. Hành chính nhà nước là
trung tâm thực thi các quyết định của hệ thống chính trị.
* Tính phục vụ chính trị:
 HCNN là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị, biến những mục
tiêu chính trị thành sản phẩm cụ thể;
6
VD: Đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành 1 nước công nghiệp theo
hướng hiện đại  HCNN hiện thực hóa mục tiêu đó: phát triển CN, đa dạng hóa

SX…
*Tính độc lập tương đối với chính trị
 Độc lập tương đối về chuyên môn, kỹ thuật và các tác nghiệp cụ thể.
 Các CBCC HCNN vận dụng hệ thống tri thức khoa học vào việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình.
 Chính trị đề ra mục tiêu còn hành chính được chủ động sáng tạo đưa ra
cách thức tiến hành [tổ chức bộ máy, sắp xếp nhân sự…].
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
HCNN phải chấp hành các quyết định của các cơ quan quyền lực nhà nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Ví dụ, điều 109, Hiến pháp 1992
quy định “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội… Chính phủ chịu trách
nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước”.
+ Tất cả các văn bản HCNN đều là sự hiện thực hóa chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng. Ví dụ như trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011
- 2020”, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ “Thực hiện chương trình tổng thể cải cách
hành chính và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia”. Trên cơ sở đó, chính phủ đã
ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP, ngày 8/11/2011 về “chương trình tổng thể
cải cách HCNN giai đoạn 2011 - 2012”; trong đó đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp… cụ thể nhằm thực hiện chủ trương trên của Đảng.
+ Những người lãnh đạo, công chức giữ vị trí quan trọng trong bộ máy
HCNN là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, có trách nhiệm cụ thể hóa chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng.
Nền hành chính Việt Nam luôn thực hiện các nhiệm vụ do Đảng cộng sản
và Nhà nước Việt Nam đề ra, ở đây nền hành chính mang đầy đủ bản chất của
nước Việt Nam – Nhà nước của dân, do dân và vì dân. hành chính nhà nước ở
nước ta là yếu tố cấu thành hệ thống chính trị. Trong hoạt động thực thi quản lý
Nhà nước, hành chính nhà nước là yếu tố quan trọng quá trình hiệu quả hoạt
động quản lý Nhà nước cả hệ thống chính trị.
7

2. Tính pháp quyền
- Trong một nhà nước pháp quyền thì hệ thống pháp luật là tối cao, mọi chủ
thể trong xã hội đều phải hoạt động trên cơ sở PL và phải tuân thủ PL. Vì vậy,
đòi hỏi các chủ thể của HCNN phải sử dụng đúng quyền lực NN, thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được trao và áp dụng đúng PL.
Là phải đảm bảo nền hành chính hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật
Nhà nước. Mọi hoạt động đều phải tuân thủ pháp luật và hành chính là thực thi
quyền lực nên phải đi đầu trong việc tuân thủ pháp luật.
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và với tư cách là công
cụ của Nhà nước pháp quyền nên nền hành chính mang đậm tính pháp quyền,
nghĩa là tính cưỡng bức của Nhà nước, nó hoạt động theo quy tắc đòi hỏi mọi cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công chức, đều phải nắm vững quyền lực, sử dụng
đúng đắn quyền lực, đảm bảo đúng chức năng và thẩm quyền của mình khi thực
thi công vụ đồng thời phải nâng cao uy tín về chính trị, phẩm chất đạo đức và
năng lực trí tuệ. Kết hợp chặt chẽ yếu tố quyền lực và yếu tố uy tín.
3. Tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng:
Hành chính là phục vụ nhân dân mà công việc này phải làm hàng ngày,
thường xuyên cho nên nền hành chính Nhà nước phải đảm bảo tính liên lục, ổn
định để không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống nào.
* Tính liên tục:
+ Hoạt động của HCNN diễn ra hàng ngày;
+ HCNN đảm bảo các nguồn lực để tránh tình trạng gián đoạn;
+ Hoạt động HCNN không được làm theo “phong trào, chiến dịch”, sau đó “đánh
trống bỏ dùi”.
+ Gắn với tính kế thừa.
* Tính ổn định tương đối:
 Nhà nước là sản phẩm của sự phát triển xã hội. XH càng phát triển, các
MQH xã hội, nhu cầu của con người ngày càng đa dạng;
 Nền HCNN muốn đáp ứng và phục vụ tốt hơn nhu cầu của XH thì phải
thay đổi nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.

8
* Tính thích ứng:
 Đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân;
 Thích nghi với xu thế của thời đại, của môi trường quốc tế.
* Liên hệ:
- Nền hành chính ở Việt Nam khá ổn định và hiện nay đang liên lục đổi
mới để đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước, nó liên tục phát triển và
ngày càng hoàn thiện.
4. Tính chuyên môn hoá và nghề nghiệp cao:
Vì sao?
Hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước là một
hoạt động đặc biệt và tạo ra những sản phẩm đặc biệt.
+ HCNN là hoạt động có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội. Sản phẩm của
HCNN chính là các quyết định quản lý nhà nước, các quyết định này ảnh hưởng
rất lớn đến đời sống xã hội.
Các hoạt động trong nền hành chính Nhà nước có nội dung phức tạp, đa
dạng nên nó đòi hỏi rất cao đến các kiến thức xã hội và chuyên môn của các nhà
hành chính. Vì vậy tiêu chuẩn về kiến thức chuyên môn và năng lực quản lý phải
trở thành một tiêu chuẩn cơ bản của côngchức.
Ở Việt Nam hiện nay nền hành chính đã đang xây dựng những tiêu chuẩn
rất cơ bản và khá khắt khe đối với viên chức hành chính, họ chỉ là những viên
chức hành chính nếu họ đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn đưa ra, vì vậy được
lựa chọn kỹ càng thì nền hành chính của nước ta trong tương lai sẽ có các viên
chức có năng lực.
5. Tính hệ thống thức bậc chặt chẽ:
Vì sao?
+ HCNN là hoạt động mệnh lệnh, phục tùng nên phải có tính thứ bậc, trên dưới
rõ ràng;
+ HCNN sử dụng QLNN nên phải tạo ra một hệ thống để kiểm soát lẫn nhau.
Biểu hiện tính thứ bậc chặt chẽ trong HCNN:

9
- Là một hệ thống được tổ chức một cách thông suốt từ trên xuống dưới
[hệ thống dọc], thể hiện tính thứ bậc hành chính chặt chẽ trong tổ chức và hoạt
động của toàn bộ cơ quan cũng như trong toàn bộ hệ thống.
- Cấp dưới phục tùng cấp trên, nhận chỉ thị mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra
thường xuyên của cấp trên. [Khác với cơ quan lập pháp và tư pháp].
- HCNN là một hệ thống thứ bậc chặt chẽ có sự phân biệt giữa cấp trên và
cấp dưới. Cấp trên ra mệnh lệnh, cấp dưới phải thực hiện, cấp trên kiểm soát mọi
hoạt động của cấp dưới.
Các cơ quan hoạt động trong phạm vi thẩm quyền được giao. Tuy vậy, hệ
thống này cũng có tính linh hoạt tương đối để không trở thành một hệ thống xơ
cứng và quan liêu.
Liên hệ:
Nền hành chính Nhà nước bao gồm một hệ thống định chế theo thứ bậc
chặt chẽ và thông suốt từ Trung ương đến địa phương, trong đó cấp dưới phục
tùng cấp trên,nhận chỉ thị mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp
trên. Các cơ quan hoạt động trong phạm vi thẩm quyền được giao. Tuy vậy, hệ
thống này cũng có tín linh hoạt tương đối để không trở thành một hệ thống sơ
cứng và quan liêu.
Nền hành chính Việt Nam hình thành một hệ thống chặt chẽ từ Trung ương
gồm Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ đến địa phương bao gồm các Uỷ ban
nhân dân các cấp và các cơ quan trực thuộc. Các cơ quan ở địa phương phải chịu
sự quản lý và kiểm tra của các cơ quan Trung ương, bên cạnh đó các cơ quan
chuyên môn phải chịu sự quản lý song trùng.
6. Tính không vụ lợi:
Hành chính Nhà nước có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công và lợi ích công
dân. Mọi hoạt động trong hệ thống hành chính Nhà nước đều mang tính chất phục
vụ chứ không theo đuổi mục đích lợi nhuận. Vì vậy hành chính hoạt động phải vô
tư, tận tâm, trong sạch.
Liên hệ:

10
Tại Việt Nam, nền hành chính phục vụ hết mình cho công dân, nó không hề
vụ lợi và ngày nay đang đấu tranh để làm cho nền hành chính Việt Nam ngày
càng trong sạch và vì lợi ích cộng đồng hơn nữa.
Tính không vụ lợi thể hiện rõ nhất ở chức năng cung cấp các dịch vụ công
cộng của nền HCNN [dịch vụ y tế, giáo dục…] nhằm đáp ứng các nhu cầu tối
thiểu của người dân. Người dân sử dụng các dịch vụ này vẫn phải trả phí nhưng ở
mức thấp hơn nhiều so với cùng loại dịch vụ do tư nhân cung cấp, mức phí này
không phản ánh đúng quy luật giá trị, giá cả; mức phí này được nộp vào ngân
sách nhà nước để đầu tư cho các công trình công cộng, phúc lợi xã hội Ngoài ra,
nhà nước còn có các chính sách ưu đãi đối với các đối tượng là hộ nghèo, người
có công với cách mạng, người già, người dân tộc thiểu số, vùn núi và hải đảo…
Điều này thể hiện rõ nét bản chất tốt đẹp của nhà nước ta.
7. Tính nhân đạo:
Xuất phát từ bản chất nhân đạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy tất
cả các hoạt động của nền hành chính đều vì con người và phục vụ cộng đồng, tôn
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, không gây phiên hà cho nhân dân.
Hoạt động quản lý mang tính thuyết phục là chính, sự cưỡng bức chỉ là biện pháp
cần thiết nhằm đảm bảo để mọi vi phạm phải được xử lý chứ không phải chỉ
nhằm để trừng phạt.
Nhà nước Việt Nam có bản chất là Nhà nước của nhân dân và do nhân dân,
vì dân vì vậy tôn trọng quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân là xuất phát
điểm của hệ thống lật, thể chế quy tắc, thủ tục hành chính. Các công chức không
được quan liêu, cửa quyền, hách dịch, gây phiên hà cho dân khi thi hành công vụ.
Mặt khác, hiện nay chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường nên nền hành chính
càng đảm bảo tính nhân đạo để hạn chế tối đa mặt trái của nền kinh tế thị trường,
thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển bền vững.
Câu 4: Các nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của hành chính nhà
nước Việt Nam
1. Khái niệm:

11
Nguyên tắc hành chính nhà nước là các quy tắc, tư tưởng chỉ đạo, những
tiêu chuẩn hành vi mà chủ thể HCNN phải tuân thủ và thực hiện trong quá trình tổ
chức và hoạt động QL HCNN.
2. Yêu cầu đối với nguyên tắc HCNN:
- Nguyên tắc hành chính nhà nước phải phản ánh được các yêu cầu của các
quy luật vận động khách quan của xã hội;
- Các nguyên tắc hành chính nhà nước phải phù hợp với mục tiêu của hành
chính nhà nước;
- Các nguyên tắc hành chính nhà nước phải phản ánh đúng tính chất và các
quan hệ hành chính nhà nước;
- Các nguyên tắc hành chính nhà nước phải đảm bảo tính hệ thống, tính
nhất quán và phải được đảm bảo tuân thủ bằng tính cưỡng chế.
3. Nội dung các nguyên tắc: 7 nguyên tắc
3.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với hành chính nhà nước
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống chính trị nhất
nguyên, trong đó chỉ tồn tại một đảng là Đảng cộng sản Việt Nam – lực lượng duy
nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền,
giữ vai trò lãnh đạo toàn dân, toàn diện bao gồm chính trị, kinh tế - xã hội, an
ninh, quốc phòng, ngoại giao.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với hành chính nhà nước được thể hiện trên các
nội dung sau:
- Đảng đề ra đường lối, chủ trương định hướng cho quá trình tổ chức và
hoạt động của hành chính nhà nước;
- Đảng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng những người có phẩm chất, năng lực
và giới thiệu vào đảm nhận các chức vụ trong bộ máy nhà nước thông qua con
đường bầu cử dân chủ;
- Đảng kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng;
- Các cán bộ, đảng viên và các tổ chức Đảng gương mẫu trong việc thực

hiện đường lối, chủ trương của Đảng.
12
Nguyên tắc này một mặt đòi hỏi trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà
nước nói chung và hành chính nhà nước nói riêng phải thừa nhận và chịu sự lãnh
đạo của Đảng. Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, hành chính nhà nước có trách
nhiệm đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn đời sống xã hội và đảm
bảo sự kiểm tra của tổ chức Đảng đối với hành chính nhà nước.
Liên hệ:
* Ví dụ: Hàng năm, theo quý, theo tháng, các cơ quan tổ chức họp Chi bộ
để các cá nhân, tổ chức báo cáo tình hình hoạt động của cá nhân và bộ phận mình
cho Chi bộ biết để có định hướng chủ trương điều hành cho phù hợp.
- Trong các năm gần đây, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách đúng đắn, kịp thời, góp phần quan trọng cho định hướng, hoạt động của
HCNN đó là: Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 17-NQ/TW,
ngày 01/8/2007 “Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của
bộ máy Nhà nước. Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 tại Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08
tháng 11 năm 2011 và trong năm 2013 Chính phủ tiếp tục ban hành Chỉ thị số
07/CT-TTg, ngày 22/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh thực
hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011-2013.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên và sắp xếp, bố trí cán bộ.
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết sách quan trọng
để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đồng thời quy hoạch, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 42-
NQ/TW, ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh
đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp theo
trong năm 2012, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Kết luận số 24-KL/TW ngày
05/6/2012 của Bộ Chính trị [khóa XI] về đẩy mạnh công tác quy hoạch, luân
chuyển cán bộ đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Bên cạnh đó Đảng và Nhà

nước ta đã bố trí, sắp xếp các Đảng viên ĐCS vào giữ các vị trí chủ chốt trong bộ
máy HCNN từ Thủ tướng, các Phó thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thủ trưởng
13
các cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ đều là các Đảng viên, Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương, một số đồng chí là Ủy viên Bộ Chính trị BCH Trung ương.
- Công tác kiểm tra của Đảng viên đối với HCNN được thực hiện thường
xuyên , liên tục, góp phần quan trọng vào nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà
nước và cải cách nền hành chính công vụ cũng như cải cách thủ tục hành chính.
- Uy tín của các Đảng viên, tổ chức Đảng trong cơ quan HCNN thể hiện
ngày càng rõ nét, được nhân dân tín nhiệm cao.
3.2. Nguyên tắc nhân dân làm chủ trong quản lý hành chính nhà nước
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhà nước là công cụ thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, trong hoạt động hành chính nhà nước phải
đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động hành chính nhà
nước.
Nguyên tắc này đòi hỏi:
Thứ nhất, tăng cường và mở rộng sự tham gia trực tiếp của công dân vào
việc giải quyết các công việc của Nhà nước.
Thứ hai, nâng cao chất lượng của hình thức dân chủ đại diện, để các cơ
quan này thực sự đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Thứ ba, hành chính nhà nước có trách nhiệm tạo ra cơ sở pháp lý và các
điều kiện tài chính, vật chất.v.v. cho các tổ chức xã hội hoạt động; định ra những
hình thức và biện pháp để thu hút sự tham gia của các tổ chức xã hội, nhân dân
tham gia vào hoạt động hành chính nhà nước.
3.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản và áp dụng cho tất cả các cơ quan nhà nước và
tổ chức của nhà nước trong đó có cơ quan hành chính nhà nước. Nguyên tắc này
xuất phát từ hai yêu cầu khách quan của quản lý, đó là: đảm bảo tính thống nhất
của hệ thống lớn [quốc gia, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, bộ phận] và đảm

bảo sự phù hợp với đặc thù của hệ thống con lệ thuộc [từng ngành, từng địa
phương, từng cơ quan, đơn vị, bộ phận, cá nhân]. Nguyên tắc này tạo khả năng
kết hợp quản lý xã hội một cách khoa học với việc phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý
từng cấp, từng khâu, từng bộ phận.
14
Tập trung trong hành chính nhà nước được thể hiện trên các nội dung: [1]
tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước theo hệ thống
thứ bậc; [2] thống nhất chủ trương, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển; [3] thống nhất các quy chế quản lý; [4] thực hiện chế độ một thủ
trưởng hoặc trách nhiệm cá nhân người đứng đầu ở tất cả các cấp, đơn vị.
Dân chủ trong hành chính nhà nước là sự phát huy trí tuệ của các cấp, các
ngành, cơ quan, đơn vị và các cá nhân tổ chức và hoạt động hành chính. Tính dân
chủ được thể hiện cụ thể ở: [1] cấp dưới được tham gia thảo luận, góp ý kiến về
những vấn đề trong quản lý; [2] cấp dưới được chủ động, linh hoạt trong việc thực
hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm trước cấp trên về việc thực hiện
nhiệm vụ của mình.
Hai nội dung tập trung và dân chủ liên quan hữu cơ với nhau, tác động bổ
trợ cho nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ và dân chủ trong khuôn khổ tập trung.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở bất kỳ cấp nào cùng đòi hỏi sự kết hợp
hài hoà hai nội dung đó để tạo ra sự nhất trí giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo, giữa
người chỉ huy và người thừa hành.
Liên hệ:
- Trong quá trình đổi mới từ năm 1986 đến nay các cơ chế và chính sách
mới đã mở rộng quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế, phát huy tiềm năng của các
thành phần kinh tế, mọi người dân được phép tự do kinh doanh theo pháp luật.
Trong sinh hoạt tư tưởng, người dân được tự do thảo luận nhiều vấn đề; sự thảo
luận và đối thoại trong Quốc hội thẳng thắn, công khai; nhân dân được tham gia
trực tiếp vào những vấn đề trọng đại của đất nước. Nhiều chủ trương, chính sách,
pháp luật quan trọng đã được nhân dân tham gia góp ý kiến trước khi quyết định.
Nhiều văn bản pháp quy được ban hành nhằm từng bước thực hiện dân chủ hóa

kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa góp phần phát huy tính tích cực, chủ động của
nhân dân trên cơ sở môi trường – tâm lý xã hội ngày càng dân chủ. Nội dung và
phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị được đổi mới
theo hướng phát huy dân chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường
trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan dân cử, nâng cao hiệu lực quản lý của
chính quyền các cấp.
15
Hiện nay, các thế lực chống đối chủ nghĩa xã hội trong và ngoài nước đang
lợi dụng vấn đề dân chủ như một diễn đàn trọng yếu trong chiến lược thay đổi chế
độ chính trị ở nước ta, nhằm đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Các thế lực đó đem đối lập Ðảng Cộng sản với dân chủ nhằm bài bác vai trò lãnh
đạo của Ðảng, nhân tố quyết định việc thực hiện quá trình dân chủ hóa. Có thể
khẳng định rằng, đó là điều đi ngược lại quy luật vận động của lịch sử và nguyện
vọng chính đáng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động về quyền làm chủ
của mình. Không phải cứ đa nguyên thì dân chủ, còn một đảng thì mất dân chủ.
Vấn đề là ở chỗ đảng cầm quyền có thực sự cách mạng, có thực sự vì quyền lợi
của nhân dân hay không.
3.4. Nguyên tắc kết hợp giữa quản lý ngành với quản lý lãnh thổ
Trong xã hội xuất hiện hai xu hướng khách quan có quan hệ mật thiết với
nhau và thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, đó là: chuyên môn hoá theo ngành và
phân bố sản xuất theo địa phương, vùng lãnh thổ. Vì vậy, trong quản lý nhà nước
cần phải kết hợp giữa quản lý ngành với quản lý theo lãnh thổ [địa phương và
vùng lãnh thổ]
Hành chính nhà nước đối với ngành là điều hành hoạt động của ngành
theo các quy trình công nghệ, quy tắc kỹ thuật, nhằm đạt được các định mức kinh
tế – kỹ thuật đặc thù của ngành.
Nội dung của quản lý theo ngành bao gồm:
- Định hướng cho sự phát triển của ngành thông qua hoạch định chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển;
- Tạo môi trường pháp lý phù hợp cho sự phát triển của ngành thông qua

việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các quy tắc quản lý, các quy định
chuyên môn kỹ thuật;
- Khuyến khích, hỗ trợ và điều tiết sự pháp triển của ngành thông qua việc
ban hành chính sách, tài trợ, hạn ngạch, nghiên cứu và đào tạo…
- Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản quản lý nhà nước;
- Ngăn ngừa, phát hiện và khắc phục những tiêu cực phát sinh trong phạm
vi ngành thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra.
16
Hành chính nhà nước địa phương và vùng lãnh thổ là hành chính tổng
hợp và toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của một khu vực
dân cư trên địa bàn lãnh thổ đó, có nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức hoạt động.
Tại các địa phương có các cơ quan chuyên môn cấp địa phương, các cơ
quan này vừa trực tiếp chịu sự quản lý trực tiếp về tổ chức, nhân sự và hoạt động
của chính quyền địa phương, vừa chịu sự chỉ đạo về chuyên môn theo ngành dọc.
Các cơ quan này thực hiện chức năng tham mưu cho chính quyền địa phương về
quản lý ngành, đồng thời đảm bảo đạt được các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật của
ngành. Các chính quyền địa phương có trách nhiệm bảo đảm cho các doanh
nghiệp đóng trên địa bàn địa phương mình hoạt động thuận lợi như: nguồn nhân
lực, tài nguyên, điều kiện vật chất, kỹ thuật
3.5. Nguyên tắc phân định giữa quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý
kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước được
trao quyền tự chủ kinh doanh theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước. Nên vai trò chủ yếu của Nhà nước là định
hướng, dẫn dắt, hỗ trợ và điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp, không can
thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước như trước đây. Vì
vậy, cần phải phân định và kết hợp tốt chức năng quản lý nhà nướcc về kinh tế
với chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan hành chính nhà nước không can thiệp
vào nghiệp vụ kinh doanh, phải tôn trọng tính độc lập và tự chủ của các đơn vị

kinh doanh. Còn các đơn vị kinh doanh trong việc thực hiện nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
chấp nhận cạnh tranh, mở cửa phải tuân theo pháp luật và chịu sự điều chỉnh
bằng pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước.
Tuy cần phân biệt giữa quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý kinh doanh
song cũng cần thấy hai mặt đó không tách rời nhau một cách máy móc, mà kết
hợp với nhau, thống nhất với nhau trong hệ thống kinh tế và cơ chế quản lý kinh
tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
3.6. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
17
Nguyên tắc này đòi hỏi tổ chức và hoạt động hành chính nhà nước phải dựa
trên cơ sở pháp luật của Nhà nước. Nguyên tắc này không cho phép các cơ quan
nhà nước thực hiện quản lý nhà nước một cách chủ quan, tuỳ tiện mà phải dựa
vào pháp luật, làm đúng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành nguyên tắc pháp chế,
cụ thể:
- Hành chính nhà nước phải chịu sự giám sát của các cơ quan lập pháp, tư
pháp và xã hội;
- Tổ chức và hoạt động hành chính nhà nước trong phạm vi do pháp luật
quy định, không vượt quá thẩm quyền;
- Các hành vi hành chính phải được tiến hành đúng trình tự, thủ tục mà
pháp luật quy định;
- Các quyết định quản lý hành chính nhà nước được ban hành đúng luật.
Liên hệ:
- Hiện nay, HCNN thực hiện xây dựng các văn bản pháp quy chưa tốt, chất
lượng chưa cao, một số văn bản chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn về tính hợp
lý, hợp pháp.
Ví dụ: Quy định chó, mèo “chính chủ” của Bộ Nông nghiệp gây phản ứng
trái chiều. Theo quy định đó thì chủ nhân nuôi chó, mèo sẽ phải đăng ký với
UBND xã, phường, các đội chuyên trách bắt giữ chó, mèo thả rông cũng được
thành lập. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vừa phê duyệt kế hoạch

khống chế và loại trừ bệnh dại năm 2012. Theo đó, các hộ nuôi chó, mèo sẽ tới
đăng ký với UBND xã để được cấp số cho vật nuôi. Chi cục Thú y và Trạm thú y
phải có sổ theo dõi số lượng chó nuôi, số hộ nuôi chó ở tỉnh, huyện. Thú y cấp xã,
thôn, ấp có trách nhiệm thống kê số lượng chó, mèo và số hộ nuôi chó, mèo để
quản lý.
- Cán bộ công chức vi phạm pháp pháp luật trong quản lý hành chính nhà
nước: ban hành sai thẩm quyền, trái pháp luật, ban hành ngẫu hứng, tham nhũng,
nhiều cán bộ công chức lạm dụng chức quyền chiếm đoạt của công dân gây hậu
quả nghiêm trọng, cán bộ công chức còn nhũng nhiễu hách dịch với người dân.
3.7. Nguyên tắc công khai, minh bạch
18
Công khai là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị thông tin chính thức về văn bản,
hoạt động hoặc nội dung nhất định. Tất cả những thông tin của hành chính nhà
nước phải được công khai cho người dân trừ trường hợp có quy định cụ thể với lý
do hợp lý và trên cơ sở những tiêu chí rõ ràng.
Minh bạch trong hành chính là những thông tin phù hợp được cung cấp kịp
thời cho nhân dân dưới hình thức dễ sử dụng, và đồng thời các quyết định và các
quy định của hành chính nhà nước phải rõ ràng và được phổ biến đầy đủ. Tính
minh bạch là điều kiện tiên quyết để hành chính nhà nước có trách nhiệm thực sự
trước nhân dân và giúp nâng cao khả năng dự báo của người dân. Nếu không
minh bạch sẽ dẫn đến sự tùy tiện hoặc sai lầm trong việc thực thi quyền hạn, có
những giao dịch không trung thực, những dự án đầu tư sai lầm, dẫn đến quan liêu,
tham nhũng. Sự minh bạch sẽ giúp xây dựng một nền hành chính cởi mở, có trách
nhiệm, ngăn chặn được tham nhũng trong hành chính nhà nước.
Nguyên tắc này đòi hỏi, các cơ quan nhà nước, các tổ chức và đơn vị khi xây
dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được tiến hành công
khai, minh bạch, đảm bảo công bằng, dân chủ theo quy định của pháp luật.
Liên hệ:
+ Trên thực tế, ở một số địa phương, việc công khai, minh bạch các thủ tục
hành chính chưa được thực hiện nghiêm túc. Một số cán bộ, công chức còn cố tình

không công khai minh bạch các thủ tục để có cơ hội “gây khó mới ló phong bì”
[đánh giá của ông Ngô Hải Phan, Cục trưởng Cục kiểm soát thủ tục hành chính,
tháng 01/2012].
+ Vấn đề tuyển dụng công chức cũng không được thông tin kịp thời đến người
dân, ngày hôm nay mới đăng thông báo tuyển dụng thì ngày hôm sau đã có người đi
làm như vậy thông báo chỉ là hình thức còn mọi thứ đã được tiến hành âm thầm từ
trước. Còn hiện tượng “gửi gắm”, “con ông cháu cha” trong tuyển dụng công chức.
Điều này, khiến cho việc tuyển dụng sẽ không đáp ứng dược yêu cầu về trình độ
năng lực chuyên môn và thiệt thòi cho một số ứng cử viên khác.
Câu 5: Các bộ phận hợp thành nền hành chính nhà nước và mối quan hệ
giữa các bộ phận đó
19
Trả lời
Nền hành chính nhà nước bao gồm: hệ thống thể chế hành chính nhà nước, hệ
thống các cơ quan hành chính nhà nước, đội ngũ nhân sự làm việc trong các cơ quan
hành chính nhà nước và các nguồn lực vật chất cần thiết bảo đảm cho việc thực hiện
nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước của các cơ quan nhà nước.Theo cách tiếp cận
này, về cấu trúc của nền hành chính nhà nước bao gồm các yếu tố:
- Thứ nhất, hệ thống thể chế hành chính bao gồm Hiến pháp, Luật, Pháp
lệnh và các văn bản qui phạm về tổ chức, hoạt động của hành chính nhà nước và
tài phán hành chính ;
- Thứ hai, cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính nhà
nước các cấp, các ngành phù hợp với yêu cầu thực thi quyền hành pháp;
- Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức hành chính được đảm bảo về số lượng
và chất lượng để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của hành chính nhà nước;
Thứ tư, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm yêu cầu thực
thi công vụ của các cơ quan và công chức hành chính.
Giữa các yếu tố của nền hành chính có mối quan hệ hữu cơ và tác động lẫn
nhau trong một khuôn khổ thể chế. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả nền hành chính
nhà nước cần phải cải cách đồng bộ cả bốn yếu tố trên.

Cấu trúc của nền hành chính nhà nước có thể mô tả bằng sơ đồ:
20
Thể chế của
nền hành chính
nhà nước
Đội ngũ công
chức và hoạt
động của họ
Hệ thống tổ
chức bộ máy
hành chính nhà
nước
Nguồn lực công
bảo đảm cho nền
hành chính hoạt
động
Hoạt động của nền hành chính nhà nước được thực hiện dưới sự điều hành
thống nhất của Chính phủ nhằm phát triển hệ thống và đảm bảo sự ổn định, phát
triển kinh tế -xã hội theo định hướng. Trong quá trình đó, các chủ thể hành chính
cần thực hiện sự phân công, phân cấp cho các cơ quan trong hệ thống nhằm phát
huy tính chủ động, sáng tạo và thế mạnh riêng có của từng ngành, từng địa
phương vào việc thực hiện mục tiêu chung của cả nền hành chính.
Nền HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC là một thể thống nhất, một cấu trúc để
thực thi pháp luật, đưa PHÁP LUẬT vào quản lý ĐỜI SỐNG XÃ HỘI . Do đó,
các yếu tố cấu thành nền HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC có mối quan hệ gắn bó
hữu cơ, Không thể tách rời và có ảnh hưởng lẫn nhau.
+ Một thể chế HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Không thể tự mình vận hành
trong xã hội nếu Không được một bộ máy thực thi áp dụng. Một cơ cấu tổ chức
dù tốt cũng Không có giá trị nếu Không được nhân viên làm việc trong đó Không
có đủ năng lực hoặc Không được khuyến khích đầy đủ để làm việc.

+ Những nhân viên có đầy đủ năng lực, phẩm chất nếu để làm việc trong
một bộ máy quan liêu, chồng chéo và trì trệ sẽ Không thể phát huy được tối đa tài
năng của mình và dễ dẫn đến chán nản.Và bất kỳ hoạt động nào cũng Không thể
tiến hành được tốt nếu thiếu những nguồn lực vật chất cần thiết.
Công cuộc cải cách hành chính trước hết hướng tới việc cải thiện chất
lượng của các yếu tố cấu thành nền hành chính. Mục tiêu chung của công cuộc cải
cách nền hành chính nhà nước ở nước ta là xây dựng một nền hành chính dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng
yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Câu 6: Hãy nêu các yếu tố ảnh hưởng đến thể chế HCNN và phân tích
yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến nền HCNN; Vai trò của thể chế
HCNN trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của Việt Nam Hiện
nay.
Trả lời:
21
6.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thể chế HCNN và phân tích yếu tố quan
trọng nhất ảnh hưởng đến nền HCNN.
- Khái niệm: “Thể chế hành chính nhà nước là toàn bộ các yếu tố cấu
thành hành chính nhà nước để hành chính nhà nước hoạt động quản lý nhà nước
một cách hiệu quả, đạt được mục tiêu của quốc gia”.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến thể chế HCNN gồm có 4 yếu tố:
+ Môi trường chính trị;
+ Môi trường kinh tế - xã hội;
+ Lịch sử phát triển của quốc gia và truyền thống, văn hóa dân tộc;
+ Các yếu tố quốc tế.
* Môi trường chính trị:
- Chế độ chính trị của mỗi quốc gia là sự tổ chức quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước và quan hệ giữa quyền lực nhà nước với xã hội [các quy định về

nguồn gốc, cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, hình thức cấu trúc, hình thức
chính thể, chế độ chính đảng, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, tổ chức].
- Chế độ chính trị có ý nghĩa quyết định trong việc tổ chức chính quyền nhà
nước và thể chế HCNN. Các phương thức tổ chức nhà nước: tập quyền, phân
quyền, tản quyền, tập trung, mang tính chính trị cũng ảnh hưởng lớn đến thể chế
HCNN. Chế độ chính trị của mỗi nhà nước do bản chất của hệ thống chính trị
quốc gia đó quyết định.
- Bản chất chính trị, cơ cấu tổ chức hệ thống Nhà nước, vấn đề phân bố quyền
lực Nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung của thể chế HCNN.
- Nhà nước CHXHCN Việt Nam có vai trò trung tâm của quyền lực chính trị
thể hiện ý chí nhân dân. Nhà nước là bộ máy trực tiếp thực thi quyền lực của nhân
dân và là thiết chế biểu hiện tập trung quyền lực của Đảng cầm quyền.
Nhà nước trước hết là công cụ trong tay giai cấp thống trị để giúp giai cấp
đó thực hiện các mục tiêu chính trị của mình. Do đó mọi hoạt động của nhà nước
đều không thể đi ngược lại các mục tiêu chính trị. Các quy định về sự điều tiết của
22
nhà nước đối với xã hội cũng phải phù hợp với những định hướng chính trị trong
xã hội. Chính vì vậy, những định hướng chính trị có ảnh hưởng to lớn tới toàn bộ
hệ thống thể chế nhà nước nói chung và thể chế hành chính nhà nước nói riêng.
* Môi trường kinh tế - xã hội: Các quy định điều tiết hoạt động của các
đối tượng trong xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Vai
trò và mức độ điều tiết của Nhà nước đối với các quá trình kinh tế - xã hội diễn ra
ở các nước khác nhau không giống nhau. Sự thay đổi trong môi trường kinh tế -
xã hội buộc hệ thống thể chế hành chính nhà nước phải thay đổi theo, thích ứng
với những thay đổi trong xã hội để có thể quản lý xã hội một cách hiệu quả nhất.
+ Ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển: NN ít can thiệp vào nền
KT [Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực…], xã hội hóa, tư nhân hóa DVC; NN chỉ
quản lý ở tầm vĩ mô.
+ Trái lại ở những nước có nền KT kém phát triển: NN can thiệp nhiều vào nền
KT [nhiều bộ, một bộ quản lý ít ngành, ít lĩnh vực…].

* Lịch sử phát triển của quốc gia và truyền thống, văn hóa dân tộc:
Mỗi dân tộc trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài đều có những
đặc điểm truyền thống, văn hóa riêng, không giống với các dân tộc khác. Do đặc
tính này mà mọi quy định để điều tiết hành vi của các đối tượng trong xã hội phải
được xây dựng phù hợp với các chuẩn mực chung được thừa nhận theo truyền
thống văn hóa. Một hệ thống thể chế chỉ tốt và được thực hiện tự nguyện khi nó
phát huy được những ưu điểm của các giá trị văn hóa truyền thống, nhưng đồng
thời cũng loại bỏ đi những nhược điểm của những hủ tục lạc hậu, tư tưởng bảo
thủ, cục bộ địa phương
* Các yếu tố quốc tế: Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, mỗi quốc gia
muốn phát triển không nằm ngoài mối liên hệ với các quốc gia khác. Sự giao thoa
văn hóa, tri thức và các giá trị chung của văn minh thế giới cũng tác động không
nhỏ tới sự hình thành và phát triển của hệ thống thể chế hành chính nhà nước. Sự
ràng buộc pháp lý đối với một quốc gia khi chấp nhận tham gia các tổ chức quốc
tế có ảnh hưởng to lớn tới hệ thống thể chế của quốc gia đó. Ví dụ, việc Việt Nam
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới [WTO] có ảnh hưởng lớn tới hệ thống các
23
quy định về thuế xuất nhập khẩu, chúng ta không thể tự mình quyết định tỷ lệ
đánh thuế như trước đây mà phải căn cứ vào các hiệp định quan hệ đa phương
được thừa nhận chung trong WTO và những thỏa thuận đã ký kết khi tham gia tổ
chức tổ chức này.
- Yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thể chế hành chính nhà nước: Yếu
tố về Chính trị và Yếu tố về quốc tế.
6.2. Vai trò của thể chế HCNN trong nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Thể chế hành chính nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự hình
thành và phát triển của hệ thống hành chính nhà nước. Hệ thống thể chế hành
chính nhà nước có các vai trò quan trọng trên các mặt chủ yếu sau:
- Thể chế hành chính nhà nước là căn cứ để xác lập mức độ và phạm vi can
thiệp của nhà nước đối với hoạt động của các đối tượng trong xã hội;

- Thể chế hành chính nhà nước là căn cứ để thiết lập nên tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước;
- Thể chế hành chính nhà nước là căn cứ để xây dựng đội ngũ nhân sự hành
chính chính nhà nước;
- Thể chế hành chính nhà nước là cơ sở để xác định mối quan hệ giữa nhà
nước với công dân và tổ chức trong xã hội;
- Thể chế hành chính nhà nước là căn cứ để quản lý, điều chỉnh việc sử
dụng các nguồn lực của xã hội một cách có hiệu lực và hiệu quả.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay, việc xây dựng một hệ thống
thể chế hành chính có năng lực để quản lý nền kinh tế thị trường là cần thiết. Thể
chế hành chính nhà nước đó có vai trò như sau:
1. Hệ thống thể chế hành chính nhà nước tạo môi trường pháp lý ổn định
cho thị trường phát triển.
Vai trò này được thể hiện trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, Thể chế hành chính nhà nước tạo môi trường ổn định cho sự phát
triển thị trường, tạo lập lòng tin với các chủ thể kinh tế.
Thứ hai, thể chế hành chính nhà nước tạo cơ sở pháp lý cho thị trường phát
triển. Ở Việt Nam, trong những giai đoạn đầu của sự phát triển theo xu hướng kế
24
hoạch hóa tập trung, chỉ chấp nhận và cho phép hoạt động chủ yếu hai thành phần
kinh tế thuộc sở hữu nhà nước và tập thể. Điều này được nhà nước thể chế hóa
trong các văn bản pháp luật, thể chế kinh tế. Chuyển sang chế độ kinh tế mới,
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhà nước Việt Nam thừa nhận sự đa dạng về sở hữu và nhà nước đã thay
đổi một cách cơ bản thể chế kinh tế cũng như thể chế hành chính nhà nước để
quản lý kinh tế một cách tương ứng.
2. Vai trò định hướng cho sự phát triển của thị trường
Ở Việt Nam hiện nay, vai trò của nhà nước đối với kinh tế không chỉ xuất
phát từ yêu cầu phổ biến của quá trình phát triển kinh tế thị trường, mà còn xuất
phát từ tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do

đó, trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, tự do hóa trị trường và sự can thiệp
của nhà nước phải đi đôi với nhau.
3. Vai trò hỗ trợ thị trường
Thứ nhất, các thể chế thông tin hỗ trợ thị trường. Thông tin là huyết mạch
của mọi nền kinh tế. Nếu không có thông tin đáng tin cậy, thị trường sẽ không
hoạt động tốt.
Ở Việt Nam, Chính phủ làm điều này chưa tốt. Vì vậy, mặc dù doanh
nghiệp và người dân, đặc biệt đã rất năng động nhưng hiệu quả thu được vẫn rất
thấp. Một minh họa cho thực trạng này là ý kiến của lão nông Lê Văn Lam trong
thư gửi Thủ tướng Chính phủ ngày 4/5/2008: “Người nông dân luôn phải lao đao
về việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, khi thì đào ao nuôi cá, lúc thì bỏ ruộng trồng
bắp nhưng hầu như không mang lại hiệu quả, cũng vì người nông dân thiếu kiến
thức về thị trường cũng như kỹ thuật sản xuất”.
Thứ hai, các thể chế về quyền sở hữu
Thị trường hoạt động dựa trên nền móng của các thể chế. Khi không có các
nguyên tắc cơ bản của trật tự xã hội với các thể chế làm trụ đỡ thì thị trường
không thể hoạt động được.
Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường cần thiết lập và bảo vệ quyền sở
hữu tư nhân, cũng như quyền được hưởng các lợi ích kinh tế xuất phát từ việc sử
dụng quyền sở hữu đó.
25

BÀI 3: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Thứ ba - 21/07/2020 08:28 379.724 0


I. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Khái quát về hệ thống chính trị
1.1.1 Khái niệm hệ thống chính trị


Chính trị hiểu theo nghĩa chung nhất là một lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các mối quan hệ giữa các chủ thể trong đời sống xã hội liên quan đến việc nhận diện và giải quyết các vấn đề chung của toàn xã hội, nhất là những vấn đề có tính tranh chấp, xung đột mang tính phổ biến trong các mối quan hệ xã hội. Để có thể giải quyết được các vấn đề trên, một quyền lực chung được thiết lập có sức mạnh cưỡng chế nhằm duy trì trật tự, hòa bình và công lý trong xã hội, đảm bảo các quyền, tự do của công dân. Nhà nước được tổ chức để thực thi quyền lực này. Do vậy, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từNhân dân.

Trong các xã hội có giai cấp, các giai cấp tùy vào khả năng và tương quan lực lượng của mình đều tìm cách để giành quyền lực nhà nước để hiện thực hóa lợi ích của giai cấp mình, trên cơ sở và nhân danh thực hiện mục tiêu chung của xã hội. Chính vì vậy, ở cách tiếp cận này,chính trị được khái quát là quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp trong việc giành, giữ và thực thi quyền lựcnhà nước.

Từ đó có thể hiểu, hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội được liên kết với nhau trong một hệ thống cấu trúc, chức năng với các cơ chế vận hành và mối quan hệ giữa chúng nhằm thực thi quyền lực chính trị.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị
Trong xã hội có giai cấp, các chủ thể chính trị được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền, đồng thời thực hiện lợi ích của các chủ thể khác ở mức độ nhất định.

- Tính quyền lực: Hệ thống chính trị của bất kỳ chế độ, xã hội nào cũng là hệ thống tổ chức phân bổ và thực thi quyền lực chính trị của các chủ thể, lực lượng trong xã hội. Chẳng hạn, bên cạnh chủ thể nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước, còn có các chủ thể khác tham gia, tác động đến việc thực thi quyền lực nhà nước theo những cách thức nhất định, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của mình trong xã hội.

- Tính vượt trội:Hệ thống chính trị được xác lập và hoạt động theo các thể chế, luật lệ và cơ chế nhằm tạo ra sức mạnh, tính vượt trội của hệ thống. Theo đó, những tương tác có hại làm triệt tiêu động lực và kết quả hoạt động của nhau sẽ bị hạn chế, ngăn chặn, đồng thời cho phép và khuyến khích những tương tác mang tính hỗ trợ, hợp tác nhằm đạt được kết quả tốt nhất cho các bên và cho xã hội.

1.1.3. Cấu trúc của hệ thống chính trị

- Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị [hợp pháp] thực thi những chức năng nhất định trong xã hội, gồm có:
+ Đảng chính trị: Đảng cầm quyền là lực lượng chủ yếu thực thi quyền lực nhà nước, quyết định chính sách quốc gia. Các đảng khác [trong mô hình hệ thống chính trị có nhiều đảng] đóng vai trò hợp tác, tham gia phản biện, giám sát, kể cả tìm cách hạn chế, ngăn cản hoạt động của đảng cầm quyền nhằm bảo vệ lợi ích của đảng mình.

+ Nhà nước: được cấu thành bởi 3 cơ quanlập pháp,hành pháp vàtư pháp. Ba cơ quan này thực thi quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước khác với quyền lực của các tổ chức chính trị khác ở tính “độc quyền cưỡng chế hợp pháp”.

+ Các tổ chức chính trị - xã hội: là những tổ chức của công dân được lập ra nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, có thể tác động đến việc thực hiện quyền lực của Đảng cầm quyền,Nhà nước để bảo vệ lợi ích của tổ chức mình và lợi ích của các thành viên.Mức độsự tác động này phụ thuộc vào vị trí, khả năng, nguồn lực của tổ chức đó trong xã hội.

- Sự tương tác của các thể chế chính trị

Sự tương tác của các thểchếchính trị theo các cơ chế và mối quan hệ đã được xác lập, chủ yếu trên cơ sở của luật pháp. Theo đó, các tổ chức này có sự liên kết tương hỗ, hỗ trợ hoặc đối trọng, ngăn cản nhau trong các quá trình nhất định nhằm thực thi quyền lực chính trị, đạt được mục đích chung của hệ thống và xã hội cũng như lợi ích của các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị.

Chẳng hạn, trong hệ thống chính trị, các đảng chính trị thường đề ra cương lĩnh, mục tiêu, đường lối phát triển đất nước để vận động, thuyết phụcNhân dân ủng hộ, bỏ phiếu nhằm giành được đủ phiếu bầu trở thành đảng cầm quyền hoặc đảng đối lập có vị trí trong bộ máy nhà nước.

Khi trở thành đảng cầm quyền, đảng cầm quyền sẽ thể chế hóa cương lĩnh, mục tiêu, đường lối chính trị của đảng thành luật pháp, chương trình, dự án, chính sách và tổ chức thực hiện. Các đảng đối lập và các tổ chức chính trị - xã hội, phương tiện truyền thông có thể tham gia vào quá trình này để giám sát, phản biện chính sách của đảng cầm quyền tùy theo vị trí, nguồn lực mà họ có, nhằm làm tăng tính cẩn trọng, hợp lý của chính sách được ban hành hoặc phản đối, ngăn cản chính sách nhằm bảo vệ lợi ích của mình hoặc của người dân và xã hội theo quan điểm của họ.

1.2. Khái quát về hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
1.2.1. Các thành tố trong hệ thống chính trị Việt Nam


Hệ thống chính trị Việt Nam gồm có:

- Đảng Cộng sản Việt Nam

- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội gồm có: Công đoàn Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam.

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một tổ chức thành viên của Mặt trận, vừa là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là hạt nhân của hệ thống chính trị; Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị.

Thuật ngữ “hệ thống chính trị” được chính thức sử dụng ở Việt Nam từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI [1989]. Việc chuyển từ “hệ thống chuyên chính vô sản” sang “hệ thống chính trị” có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự tương tác, hợp tác của các chủ thể trong đời sống chính trị - xã hội, nhằm tạo nên sức mạnh hợp lực của toàn hệ thống và khả năng thích nghi của hệ thống với những thay đổi của môi trường xã hội.

1.2.2. Vị trí,chức năng, nhiệm vụ của các thành tố trong hệ thống chính trị Việt Nam

* Đảng Cộng sản Việt Nam:

Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhânViệt Nam, đại biểu trung thành lợi íchcủagiai cấp công nhân,Nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, đồng thời là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị.

Ðảng Cộng sản Việt Nam là Ðảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Chức năng lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau: Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược,chủ trương phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.

Đảng tổ chức, thực hiện tuyên truyền, thuyết phục, vận động các tổ chức và xã hội ủng hộ, thực hiện đường lối, chủ chương của Đảng.

Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viênưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Ðảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua việc thực hiện, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.

* Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân[1]. Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị Việt Nam. Nhà nước gồm các có các cơ quan trung ương như Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương.

Quốc hộilà cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Quốc hội được toàn thểNhân dân bầu ra theo hình thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồngQuốc phòng và an ninh, Hội đồngBầu cử quốc gia.

Quốc hộilà cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Chủ tịch nướclà người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.

Chính phủlà cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy banThường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Chính phủ gồm Thủ tướng chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên chính phủ do Quốc hội quyết định.

Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu ra là người đứng đầuChính phủ. Chịu trách nhiệm trước Quốc hội và hoạt động củaChính phủ và những nhiệm vụ được giao.

Chính phủ thực hiện chức năng hành pháp, “tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy banThường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước”, thống nhất quản lý về các lĩnh vực, ngành và nền hành chính quốc gia.

Tòa án nhân dânlà cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp. Tòa án gồmTòa án nhân dân được thành lập từ cấptrung ương đến cấp huyện và các tòa án khác do luật định.

Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tòa án xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.

Viện kiểm sát nhân dânthực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chính quyền địa phương

Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dânvàỦy ban nhân dânđược tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo luật định.

- “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyềnlực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”[2]. Nhiệm kỳ củaHội đồng nhân dânlà05 năm.

Hội đồng nhân dân có hai chức năng cơ bản là: [1] quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; [2] giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

- “Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệmtrước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”[3].

Ủy ban nhân dân có 3 chức năng chính: [1] Tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; [2] Tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân; [3] Thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.

* Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có tên gọi ban đầu là Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, được thành lập ngày 18/11/1930.

Từ khi được thành lập đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và cùng trải qua các thời kỳ hoạt động cách mạng với những tên gọi khác nhau, Mặt trận là tổ chức tập hợp, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc của Việt Nam - một nhân tố quan trọng góp phần quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Kế tục và phát huy vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam các thời kỳ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nayvẫn tiếp tục đại diện cho lợi ích, tiếng nói rộng rãi của các nhóm xã hội, các giai cấp, tầng lớp nhân dân, tạo sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, huy động nguồn lực, sức mạnh của toàn thể nhân dân vào xây dựng đảng, chính quyền, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tập hợp, thu hút các tầng lớpNhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội; tuyên truyền động viênNhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật; phản biện xã hội đối với dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tập hợp ý kiến, kiến nghị củaNhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền với lợi ích chính đáng củaNhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữaNhân dân Việt Nam vớiNhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.

Các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm: “Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niêncộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên, tổ chức của mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”[4].

Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng củaNhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ củaNhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Ðảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là tổ chức lãnh đạo Mặt trận.

- Công đoàn Việt Nam

Công đoàn Việt Namđượcthành lập ngày 28/7/1929. Trải qua quá trình hình thành và phát triển,tổ chức Công đoàn Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng giai cấp, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Hiến pháp 2013 quy định:“Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người dân lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội: tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[5].

Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có quan hệ hợp tác với Nhà nước và phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội khác; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

-Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam[thành lập ngày 20/10/1930] là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển, tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã đoàn kết, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, góp phần tích cực, quan trọng vào sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. HộiLiên hiệpPhụ nữ Việt Nam đã có sự phát triển mạnh trong việc tổ chức, thu hút hội viên; có những mô hình liên kết, hỗ trợ thiết thực, sáng tạo cho sự phát triển của các hội viên, tham gia xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế gia đình và đặc biệt đóng góp những ý kiến phản biện, đề xuất chính sách cho Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của phụ nữ, trẻ em và thực hiện những hoạt động cho sự phát triển, bình đẳng giới của phụ nữ Việt Nam

- Hội Nông dân Việt Nam

Hội Nông dân Việt Nam [thành lập ngày 14/10/1930] là tổ chức chính trị - xã hội của nông dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong bối cảnh hiện nay, mục đích của Hội là tập hợp đoàn kết nông dân, tạo diễn đàn chia sẻ thông tin và tri thức trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, tạo sự kết nối, hỗ trợ giữa các hội viên, đồng thời đại diện và bảo vệ cho quyền, lợi ích chính đáng của hội viên trong quan hệ với các chủ thể khác của đời sống xã hội. Từ đó, tạo sự đồng thuận, sức mạnh của tổ chức, xứng đáng là lực lượng đồng minh tin cậy trong khối liên minh công, nông, trí, bảo đảm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và phát triển nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ mới.

- Hội Cựu chiến binh Việt Nam

Hội Cựu chiến binh Việt Nam [thành lập ngày06/12/1989] là một tổ chức chính trị - xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là một cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ trương của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội.

Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ Cựu chiến binh giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quảcách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng và hợp pháp củacựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ nhau trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.

-ĐoànThanh niêncộng sản Hồ Chí Minh

Đoàn Thanh niêncộng sản Hồ Chí Minh [thành lập ngày 26/3/1931] là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục đích, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Đoàn Thanh niêncộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật củanước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước. Nhà nước quản lý thanh niên và công tác thanh niên; thể chế hoá đường lối, chủtrươngcủa Đảng về thanh niên và công tác thanh niên thành pháp luật,chính sách, chiến lược, chương trình hành động và cụ thể hoá trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh hằng năm của các cấp, các ngành.Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, tổ chức kinh tế, xã hội, các tập thể lao động và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi; tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia vào việc quản lý nhà nước và xã hội.

Đoàn giữ vai trò nòng cốt chính trị trong việc xây dựng tổ chức và hoạt động của HộiLiên hiệpthanh niên Việt Nam, HộiSinh viên Việt Nam và các thành viên khác của hội. Đối với ĐộiThiếu niên tiền phong,Đoàn giữ vai trò là người phụ trách xây dựng tổ chứcĐội.

Tóm lại, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tuân theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện các nhiệm vụ sau:

1] Thực hiện Hiến pháp, pháp luật, Điều lệ, Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quy chế phối hợp và thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; các chương trình phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên với cơ quan nhà nước cùng cấp có liên quan.

2] Tập hợp ý kiến, kiến nghị của thành viên, đảng viên, đoàn viên, hội viên,Nhân dân và kết quả thực hiện chương trình phối hợp và thống nhất hành động gửi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.

3] Tuyên truyền, vận động thành viên, đảng viên, đoàn viên, hội viên,Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, thực hiện Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

4] Vận động các thành viên, đảng viên, đoàn viên, hội viên của tổ chức mình thực hiện đúng chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.

5]Giám sát, phản biện xã hội.

6] Đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ những tổ chức, cá nhân chưa gia nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhưng có tinh thần hưởng ứng, ủng hộ, thực hiện Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

7] Tham gia thực hiện các nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

1.2.3. Mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị

Các quan hệ trong hệ thống chính trị Việt Nam, các quan hệ chính trị được xác lập theo một cơ chế chủ đạo là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.

Toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội củaNhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện vai trò, chức năng lãnh đạo đối với toàn xã hội, nhằm phát huy và thực hiện quyền làm chủ củaNhân dân.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước củaNhân dân, doNhân dân, vìNhân dân. Quyền lực của Nhà nước là quyền lực củaNhân dân giao cho để phục vụNhân dân. Nhà nước thể chế hóa đường lối, mục tiêu, chủ trương lãnh đạo của Đảng thành pháp luật, chính sách của Nhà nước và tổ chức thực hiện.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho lợi ích rộng rãi của các giai cấp, tầng lớp xã hội, của toàn thểNhân dân lao động và yêu nước Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hộihoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, các tổ chức vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; đồng thời chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Mọi hành vi lợi dụng dân chủ, lợi dụng quyền lập hội để chống phá Đảng, chính quyền nhân dân, đi ngược lại lợi ích củaNhân dân và dân tộcđều vi phạm pháp luật Việt Nam và bị xử lý theo pháp luật.

Đảng, Nhà nước, cấp ủy và chính quyền địa phương tôn trọng tính tự chủ, tự nguyện, ủng hộ và tạo mọi điều kiện để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động tích cực, sáng tạo đóng góp cho Đảng, chính quyền và đất nước, mang lại lợi ích choNhân dân. Đảng, chính quyền lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.

Trong hệ thống chính trị, các bộ phận cấu thành đều có chung một mục đích là duy trì và đại diện cho quyền lực và lợi ích của giai cấp và dân tộc. Cả hệ thống chính trị Việt Nam đều có chung mộtmụctiêu là phấn đấu vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội góp phần quan trọng trong việc thực hiện cương lĩnh, mục tiêu, phương hướng chính trị của Đảng cầm quyền và Nhà nướcxã hội chủ nghĩa.Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội góp phần bảo đảm sức mạnh của hệ thống chính trị. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quyết định việc tập hợp lực lượngnhân dân, tổ chức các phong trào nhân dân và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Cơ chế và các nguyên tắc vận hành
Hệ thống chính trị Việt Nam hoạt động theo cơ chế Đảng lãnh đạo,Nhà nước quản lý,Nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị Việt Nam hoạt động theo những nguyên tắc phổ biến của hệ thống chính trị nói chung như: nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc vềNhân dân; nguyên tắc ủy quyền có điều kiện và có thời hạn; nguyên tắc pháp quyền. Ngoài ra hệ thống chính trị Việt Nam hoạt động theo những nguyên tắc riêng như: tập trung dân chủ, lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất, không phân chia, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quannhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

1.2.4. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam

Hệ thống chính trị Việt Nam cũng được tổ chức theo những mô hình phổ biến của hệ thống chính trị các nước trên thế giới. Mặt khác hệ thống chính trị Việt Nam cũng có những đặc điểm riêng.

Thứ nhất,hệ thống chính trị Việt Nam do duy nhất một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Không tồn tại các đảng chính trị đối lập. Đặc điểm này thể hiện tính phổ biến của hệ thống chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa, vừa thể hiện tính đặc thù xuất phát từ điều kiện thực tế cụ thể ở Việt Nam. Bởi vì, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được sự tín nhiệm củaNhân dân, đượcNhân dân ủng hộ, tôn vinh ở vị trí lãnh đạo và thực tế Đảng đã xứng đáng với vị trí được tôn vinh này[6].

Thứ hai,hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có tham khảo kinh nghiệm của thế giới. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta xác định“Chủ nghĩa Mác-Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng”.

Thứ ba,do lịch sử hình thành gắn với các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên do Đảng thành lập và lãnh đạo, có mối quan hệ gắn bó, mật thiết với Đảng và Nhà nước. Các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập: Nhà nước là hình thức tổ chức quyền lực củaNhân dân - do Đảng lập ra. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội do Đảng sáng lập có nhiệm vụ chính trị là tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện ý chí và nguyện vọng của quần chúng.

Thứ tư,hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống mang tính thống nhất và tập trung quyền lực. Tính thống nhất của hệ thống chính trị xuất phát từ nguồn gốc quyền lực của nhân nhân ủy quyền cho Đảng,Nhà nước để thực hiện mục đích chung. Mục đích chính trị của toàn bộ hệ thống là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và mục tiêu cụ thể được xác định là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ năm,trong hệ thống chính trị Việt Nam, các thành viên có địa vị pháp lý vững chắc. Do vị trí, chức năng của mỗi thành viên trong hệ thống chính trị được quy định trong Hiến pháp và các đạo luật, như: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên…

II. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - THÀNH TỐ HẠT NHÂN VÀ LÃNH ĐẠO CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

2.1. Vai trò hạt nhân và yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị Việt Nam

Vai trò hạt nhân lãnh đạo

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội. Vai trò lãnh đạo đó xuất phát từ chính bản chất của một Đảng Cộng sản theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất đó được hình thành từ 3 yếu tố quan trọng.Thứ nhất, Đảng Cộng sản khác về chất với các đảng chính trị hiện có [đảng tư sản] ở chỗ: luôn đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động, đấu tranh và phấn đấu cho mục tiêu giải phóng con người, xóa bỏ bất công và áp bức trong xã hội, xây dựng một xã hội vì con người, vì sự phát triển và hoàn thiện các khả năng của con người.Thứ hai,Đảng Cộng sản là tổ chức của những người cộng sản tiêu biểu về mặt trí tuệ, đồng thời luôn thu hút và tập hợp được những người tài giỏi nhất của giai cấp và xã hội.Thứ ba,Đảng Cộng sản còn có tính tiền phong, tiêu biểu cho những giá trị, tiến bộ và văn minh của nhân loại.

Chính vì có “chất cộng sản” trên, Đảng luôn có được sự ủng hộ của Nhân dân, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhân dân giành lại quyền lực nhà nước từ tay giai cấp thống trị, lập nên Nhà nước, lãnh đạo Nhà nước tổ chức thực thi quyền lực của Nhân dân, cho Nhân dân và vì Nhân dân. Lãnh đạo Nhân dân và xã hội thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội tốt đẹp, phát triển - xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình này, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự thành công của công cuộc xây dựng xã hội mới ở Việt Nam.

Đảng có vai trò lãnh đạoNhà nước và xã hội nhưng mọi tổ chức đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đây là nguyên tắc hiến định đảm bảo nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam, hướng tới mục tiêu xây dựngNhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị:

Thứ nhất,sự lãnh đạo của Đảng xuất phát từ tính chất của một Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản khác với các đảng chính trị khác ở 03 tiền đề quan trọng: [1] là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, Đảng tập hợp những con người tiêu biểu của xã hội; [2] là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động và của dân tộc. Việc ra đời và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt thời gian qua đã biểu hiện rõ tính chất nêu trên. Đảng là đảng của cả dân tộc, tức của mọi giai tầng trong xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Đảng là đảng của giai cấp lao động, mà cũng là đảng của toàn dân”[1]. Ngoài lợi ích đại diện cho dân, cho nước, Đảng không có lợi ích nào khác; [3] tiêu biểu về trí tuệ, Đảng tập hợp, thu hút được những người tài giỏi nhất của giai cấp và các tầng lớp Nhân dân vào trong tổ chức của mình. Ba tiền đề trên chính là yếu tố tạo nên sức mạnh, năng lực lãnh đạo của Đảng và sự tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân.

Thứ hai,việc lựa chọn con đường phát triển của đất nước dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Con đường phát triển này luôn cần có sự lãnh đạo của một Đảng cộng sản - Đảng luôn đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân và của dân tộc trong tổ chức và thực thi quyền lực của Nhân dân. Theo đó, Đảng vì mục tiêu, lý tưởng cộng sản của mình sẽ là lực lượng lãnh đạo Nhân dân giành chính quyền, giành lại quyền lực nhà nước về tay Nhân dân và tổ chức thực thi quyền lực của Nhân dân, cho Nhân dân và vì Nhân dân. Trong quá trình này, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực thi vì mục đích, lợi ích của Nhân dân và xã hội.

Thứ ba,xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của Việt Nam. Trong hệ thống chính trị một Đảng Cộng sản cầm quyền, không thể có một tổ chức hay lực lượng nào khác trong tương quan so sánh có khả năng dẫn dắt, lãnh đạo Nhân dân thực hiện được những mục đích tốt đẹp như Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện.Trong Điều lệ Đảng chỉ rõ mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đặc điểm này cho thấy rằng, đường lối cách mạng của Đảng là đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng củaNhân dân. Đây là cơ sở quan trọng cho sự lãnh đạo của Đảng ở Việt Nam hiện nay.

Trong sự lãnh đạo của mình, Đảng đề cao nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc vềNhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, tổ chức quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Đảng lãnh đạo xã hội được xác định là chủ yếu bằng Nhà nước. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã nêu rõ: “Trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền và có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước”[2].

Tuy nhiên, khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo hệ thống chính trị và lãnh đạo toàn bộ xã hội trong thời kỳ hòa bình, Đảng phải luôn đề phòng khả năng chủ quan, duy ý chí, độc đoán, chuyên quyền. Việc phân định chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý củaNhà nước hiện nay làm cho sự lãnh đạo của Đảng trên thực tế có thể dẫn tới hai khuynh hướng:hoặc bao biện làm thay các công việc củaNhà nước, can thiệp trực tiếp vào các công việc củaNhà nước hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Quá trình đổi mới hệ thống chính trị trong thời gian qua đã có sự phân định ngày càng rõ hơn chức năng, mối quan hệ của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị. Theo đó, ngoài việc xác định rõ nội dung lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, giữa các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn xây dựng quy chế phối hợp hoạt động, tạo sự thống nhất, thông suốt trong hoạt động của hệ thống chính trị.

2.2. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Để thực hiện chức năng lãnh đạo, cần có các nội dung lãnh đạo. Nội dung lãnh đạo của Đảng là những vấn đề, nhiệm vụ cụ thể mà Đảng đặt ra và chủ yếu được xác định ở mục tiêu trong các đường lối, chủ chương, chính sách nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Nội dung lãnh đạo của Đảng bao gồm tất cả các vấn đề về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.

Về nguyên tắc: Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị, toàn xã hội; Đảng lãnh đạo trực tiếp và tuyệt đối trên các lĩnh vực như cán bộ, công tác đối ngoại, an ninh, quốc phòng. Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.

Những nội dung lãnh đạo của Đảng:

Một là,Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, chiến lược, đường lối, chính sách lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa chúng thành các luật lệ, quy định, chính sách và tổ chức thực hiện, Mặt trận và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị dựa trên đường lối của Đảng, luật pháp, chương trình, kế hoạch của công tác và tổ chức thực hiện phù hợp với chức năng của từng tổ chức, Đảng không quyết định những vấn đề thuộc chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức khác, Đảng tôn trọng tính độc lập của từng tổ chức.

Hai là,Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch vững mạnh, đủ năng lực và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thực sự là Nhà nước củaNhân dân, doNhân dân, vìNhân dân. Việc xây dựngNhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng được tiến hành từng bước phù hợp với tình hình thực tiễn. Theo đó, ngoài việc lãnh đạoQuốc hội tập trung vào việc xây dựng hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, Đảng lãnh đạoNhà nước thực hiện cải cách quy trình lập pháp, cải cách nền hành chính nhà nước chuyên nghiệp, hiện đại, cải cách tư pháp.

Bên cạnh đó, Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội đủ sức tập hợp rộng rãi quần chúngNhân dân và phát huy có hiệu quả quyền làm chủ của họ trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực này thể hiện ở việc đề ra các quan điểm, các nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng tổ chức và hoạt động của các tổ chức; đề cao tính tự chủ, chủ động của các tổ chức. Đảng không can thiệp vào công việc tổ chức cụ thể của các thành viên khác trong hệ thống chính trị.

Ba là,Đảng xác định thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ thông qua việc hoạch định chủ trương, chính sách cán bộ. Đảng quyết định những chính sách lớn về cán bộ, thực hiện công tác tổ chức và cán bộ trên tất cả các khâu đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, đánh giá và sử dụng cán bộ. Trực tiếp bố trí và quyết định nhân sự chủ chốt của hệ thống chính trị, nhất là ở các cấp cao, giới thiệu các đảng viên ưu tú, có uy tín, năng lực, trung thành với Đảng, dân tộc choNhân dân lựa chọn, bầu vào các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan dân cử và các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Bốn là,Đảng tiến hành kiểm tra đối với các tổ chức Đảng, Nhà nước và các tổ chức chủ yếu khác trong hệ thống chính trị. Nội dung kiểm tra chủ yếu là việc quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, việc tuân thủ pháp luật và trách nhiệm trướcNhân dân. Đảng vừa trực tiếp kiểm tra, vừa tổ chức sự phối hợp hoạt động kiểm tra của cả hệ thống kiểm tra Đảng, giám sát của Quốc hội, thanh tra Nhà nước, điều tra củaViệnKiểm sát và kiểm tra của các tổ chức chính trị - xã hội khác. Thông qua kiểm tra, phát hiện những việc làm đúng, những sai sót trong tổ chức thực hiện, qua đó tiến hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật củaNhà nước. Từ đó nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, hiệu lực,hiệu quả củaNhà nước, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Như vậy,nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong cương lĩnh chính trị, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính định hướng chính trị cho sự phát triển đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội hướng tới mục tiêu:dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Phương thức lãnh đạo của Đảng chính là cách thức tác động của Đảng đối với những đối tượng lãnh đạo nhằm biến đường lối chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành động, qua đó thực hiện được các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.

- Chủ thể tác động: Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Đối tượng tác động: Nhà nước, các lực lượng xã hội, các tổ chức, cá nhân.

- Phương thức tác động: thông qua hệ thống những cách thức, phương pháp, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác của Đảng.

- Mục đích: nhằm biến đường lối chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành động của đối tượng lãnh đạo qua đó thực hiện các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.

Phương thức lãnh đạo của Đảng:

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [Bổ sung, phát triển năm 2011]xác định phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội bằng:

- Cư­ơng lĩnh, chiến l­ược, các định h­ướng về chính sách và chủ tr­ương lớn của Đảng, được thể hiện trong cương lĩnh, văn kiện, các nghị quyết của Đảng. Trên cơ sở những quan điểm đường lối, chính sách lớn của Đảng,Nhà nước thể chế hóa thành Hiến pháp, các đạo luật, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.

- Công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động: đây là một phương thức lãnh đạo chủ yếu và quan trọng của Đảng. Đường lối, mục tiêu, chủ trương, chính sách củaĐảng dù có đúng đắn và khoa học vì dân, nhưng nếu không có sự tuyên truyền, thuyết phục, vận động thì chúng cũng khó đến được với các chủ thể khác trong hệ thống chính trị, khó tạo được sự thống nhất về tư tưởng, và hành động. Phương thức lãnh đạo này mang tính dân chủ, góp phần tạo sự đồng thuận và huy động sức mạnh của hệ thống, xã hội.

- Công tác tổ chức, cán bộ,Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có năng lực vàphẩmchất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.

- Công tác kiểm tra, giám sát được coi là một phương thức lãnh đạo củaĐảng. Lãnh đạo mà không có kiểm tra, giám sát thì coi như là không lãnh đạo. Việc kiểm tra, giám sát của Đảng giúp cho việc nhận diện việc nắm bắt và thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng đã đúng chưa, có những vướng mắc, bất cập gì trong thực tế và cần phải hoàn thiện chính sách hay khắc phục như thế nào.

- Sự gư­ơng mẫu của đảng viên, nhất là những người đứng đầu các tổ chức, cơ quan của Đảng. Sự gương mẫu của mỗi đảng viên, nhất là của những người đứng đầu ở các vị trí cao của hệ thống chính trị luôn có sức lay động và cảm hóa mạnh mẽ đối vớiNhân dân.

- Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Thông qua tính kỷ luật và thống nhất trong Đảng, cácđảng viên và tổ chứcđảng sẽ là người tuân thủ, thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách củaĐảng. Đồng thời họ cũng là người có vai trò phổ biến, vận động, thuyết phục đối với các thành viên khác của xã hội nhận thức và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.

Ngoài những điểm nêu trên, Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội vàNhân dân từ uy tín của Đảng, từ sự đề cao và tôn trọng vai trò của Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội.

II. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - THÀNH TỐ HẠT NHÂN VÀ LÃNH ĐẠO CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

2.1. Vai trò hạt nhân và yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị Việt Nam

Vai trò hạt nhân lãnh đạo

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội. Vai trò lãnh đạo đó xuất phát từ chính bản chất của một Đảng Cộng sản theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất đó được hình thành từ 3 yếu tố quan trọng.Thứ nhất, Đảng Cộng sản khác về chất với các đảng chính trị hiện có [đảng tư sản] ở chỗ: luôn đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động, đấu tranh và phấn đấu cho mục tiêu giải phóng con người, xóa bỏ bất công và áp bức trong xã hội, xây dựng một xã hội vì con người, vì sự phát triển và hoàn thiện các khả năng của con người.Thứ hai,Đảng Cộng sản là tổ chức của những người cộng sản tiêu biểu về mặt trí tuệ, đồng thời luôn thu hút và tập hợp được những người tài giỏi nhất của giai cấp và xã hội.Thứ ba,Đảng Cộng sản còn có tính tiền phong, tiêu biểu cho những giá trị, tiến bộ và văn minh của nhân loại.

Chính vì có “chất cộng sản” trên, Đảng luôn có được sự ủng hộ của Nhân dân, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhân dân giành lại quyền lực nhà nước từ tay giai cấp thống trị, lập nên Nhà nước, lãnh đạo Nhà nước tổ chức thực thi quyền lực của Nhân dân, cho Nhân dân và vì Nhân dân. Lãnh đạo Nhân dân và xã hội thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội tốt đẹp, phát triển - xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình này, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự thành công của công cuộc xây dựng xã hội mới ở Việt Nam.

Đảng có vai trò lãnh đạoNhà nước và xã hội nhưng mọi tổ chức đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đây là nguyên tắc hiến định đảm bảo nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam, hướng tới mục tiêu xây dựngNhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị:

Thứ nhất,sự lãnh đạo của Đảng xuất phát từ tính chất của một Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản khác với các đảng chính trị khác ở 03 tiền đề quan trọng: [1] là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, Đảng tập hợp những con người tiêu biểu của xã hội; [2] là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động và của dân tộc. Việc ra đời và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt thời gian qua đã biểu hiện rõ tính chất nêu trên. Đảng là đảng của cả dân tộc, tức của mọi giai tầng trong xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Đảng là đảng của giai cấp lao động, mà cũng là đảng của toàn dân”[1]. Ngoài lợi ích đại diện cho dân, cho nước, Đảng không có lợi ích nào khác; [3] tiêu biểu về trí tuệ, Đảng tập hợp, thu hút được những người tài giỏi nhất của giai cấp và các tầng lớp Nhân dân vào trong tổ chức của mình. Ba tiền đề trên chính là yếu tố tạo nên sức mạnh, năng lực lãnh đạo của Đảng và sự tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân.

Thứ hai,việc lựa chọn con đường phát triển của đất nước dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Con đường phát triển này luôn cần có sự lãnh đạo của một Đảng cộng sản - Đảng luôn đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân và của dân tộc trong tổ chức và thực thi quyền lực của Nhân dân. Theo đó, Đảng vì mục tiêu, lý tưởng cộng sản của mình sẽ là lực lượng lãnh đạo Nhân dân giành chính quyền, giành lại quyền lực nhà nước về tay Nhân dân và tổ chức thực thi quyền lực của Nhân dân, cho Nhân dân và vì Nhân dân. Trong quá trình này, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực thi vì mục đích, lợi ích của Nhân dân và xã hội.

Thứ ba,xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của Việt Nam. Trong hệ thống chính trị một Đảng Cộng sản cầm quyền, không thể có một tổ chức hay lực lượng nào khác trong tương quan so sánh có khả năng dẫn dắt, lãnh đạo Nhân dân thực hiện được những mục đích tốt đẹp như Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện.Trong Điều lệ Đảng chỉ rõ mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đặc điểm này cho thấy rằng, đường lối cách mạng của Đảng là đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng củaNhân dân. Đây là cơ sở quan trọng cho sự lãnh đạo của Đảng ở Việt Nam hiện nay.

Trong sự lãnh đạo của mình, Đảng đề cao nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc vềNhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, tổ chức quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Đảng lãnh đạo xã hội được xác định là chủ yếu bằng Nhà nước. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã nêu rõ: “Trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền và có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước”[2].

Tuy nhiên, khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo hệ thống chính trị và lãnh đạo toàn bộ xã hội trong thời kỳ hòa bình, Đảng phải luôn đề phòng khả năng chủ quan, duy ý chí, độc đoán, chuyên quyền. Việc phân định chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý củaNhà nước hiện nay làm cho sự lãnh đạo của Đảng trên thực tế có thể dẫn tới hai khuynh hướng:hoặc bao biện làm thay các công việc củaNhà nước, can thiệp trực tiếp vào các công việc củaNhà nước hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Quá trình đổi mới hệ thống chính trị trong thời gian qua đã có sự phân định ngày càng rõ hơn chức năng, mối quan hệ của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị. Theo đó, ngoài việc xác định rõ nội dung lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, giữa các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn xây dựng quy chế phối hợp hoạt động, tạo sự thống nhất, thông suốt trong hoạt động của hệ thống chính trị.

2.2. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Để thực hiện chức năng lãnh đạo, cần có các nội dung lãnh đạo. Nội dung lãnh đạo của Đảng là những vấn đề, nhiệm vụ cụ thể mà Đảng đặt ra và chủ yếu được xác định ở mục tiêu trong các đường lối, chủ chương, chính sách nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Nội dung lãnh đạo của Đảng bao gồm tất cả các vấn đề về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.

Về nguyên tắc: Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị, toàn xã hội; Đảng lãnh đạo trực tiếp và tuyệt đối trên các lĩnh vực như cán bộ, công tác đối ngoại, an ninh, quốc phòng. Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.

Những nội dung lãnh đạo của Đảng:

Một là,Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, chiến lược, đường lối, chính sách lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa chúng thành các luật lệ, quy định, chính sách và tổ chức thực hiện, Mặt trận và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị dựa trên đường lối của Đảng, luật pháp, chương trình, kế hoạch của công tác và tổ chức thực hiện phù hợp với chức năng của từng tổ chức, Đảng không quyết định những vấn đề thuộc chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức khác, Đảng tôn trọng tính độc lập của từng tổ chức.

Hai là,Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch vững mạnh, đủ năng lực và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thực sự là Nhà nước củaNhân dân, doNhân dân, vìNhân dân. Việc xây dựngNhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng được tiến hành từng bước phù hợp với tình hình thực tiễn. Theo đó, ngoài việc lãnh đạoQuốc hội tập trung vào việc xây dựng hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, Đảng lãnh đạoNhà nước thực hiện cải cách quy trình lập pháp, cải cách nền hành chính nhà nước chuyên nghiệp, hiện đại, cải cách tư pháp.

Bên cạnh đó, Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội đủ sức tập hợp rộng rãi quần chúngNhân dân và phát huy có hiệu quả quyền làm chủ của họ trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực này thể hiện ở việc đề ra các quan điểm, các nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng tổ chức và hoạt động của các tổ chức; đề cao tính tự chủ, chủ động của các tổ chức. Đảng không can thiệp vào công việc tổ chức cụ thể của các thành viên khác trong hệ thống chính trị.

Ba là,Đảng xác định thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ thông qua việc hoạch định chủ trương, chính sách cán bộ. Đảng quyết định những chính sách lớn về cán bộ, thực hiện công tác tổ chức và cán bộ trên tất cả các khâu đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, đánh giá và sử dụng cán bộ. Trực tiếp bố trí và quyết định nhân sự chủ chốt của hệ thống chính trị, nhất là ở các cấp cao, giới thiệu các đảng viên ưu tú, có uy tín, năng lực, trung thành với Đảng, dân tộc choNhân dân lựa chọn, bầu vào các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan dân cử và các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Bốn là,Đảng tiến hành kiểm tra đối với các tổ chức Đảng, Nhà nước và các tổ chức chủ yếu khác trong hệ thống chính trị. Nội dung kiểm tra chủ yếu là việc quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, việc tuân thủ pháp luật và trách nhiệm trướcNhân dân. Đảng vừa trực tiếp kiểm tra, vừa tổ chức sự phối hợp hoạt động kiểm tra của cả hệ thống kiểm tra Đảng, giám sát của Quốc hội, thanh tra Nhà nước, điều tra củaViệnKiểm sát và kiểm tra của các tổ chức chính trị - xã hội khác. Thông qua kiểm tra, phát hiện những việc làm đúng, những sai sót trong tổ chức thực hiện, qua đó tiến hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật củaNhà nước. Từ đó nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, hiệu lực,hiệu quả củaNhà nước, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Như vậy,nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong cương lĩnh chính trị, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính định hướng chính trị cho sự phát triển đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội hướng tới mục tiêu:dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Phương thức lãnh đạo của Đảng chính là cách thức tác động của Đảng đối với những đối tượng lãnh đạo nhằm biến đường lối chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành động, qua đó thực hiện được các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.

- Chủ thể tác động: Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Đối tượng tác động: Nhà nước, các lực lượng xã hội, các tổ chức, cá nhân.

- Phương thức tác động: thông qua hệ thống những cách thức, phương pháp, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác của Đảng.

- Mục đích: nhằm biến đường lối chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành động của đối tượng lãnh đạo qua đó thực hiện các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.

Phương thức lãnh đạo của Đảng:

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [Bổ sung, phát triển năm 2011]xác định phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội bằng:

- Cư­ơng lĩnh, chiến l­ược, các định h­ướng về chính sách và chủ tr­ương lớn của Đảng, được thể hiện trong cương lĩnh, văn kiện, các nghị quyết của Đảng. Trên cơ sở những quan điểm đường lối, chính sách lớn của Đảng,Nhà nước thể chế hóa thành Hiến pháp, các đạo luật, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.

- Công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động: đây là một phương thức lãnh đạo chủ yếu và quan trọng của Đảng. Đường lối, mục tiêu, chủ trương, chính sách củaĐảng dù có đúng đắn và khoa học vì dân, nhưng nếu không có sự tuyên truyền, thuyết phục, vận động thì chúng cũng khó đến được với các chủ thể khác trong hệ thống chính trị, khó tạo được sự thống nhất về tư tưởng, và hành động. Phương thức lãnh đạo này mang tính dân chủ, góp phần tạo sự đồng thuận và huy động sức mạnh của hệ thống, xã hội.

- Công tác tổ chức, cán bộ,Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có năng lực vàphẩmchất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.

- Công tác kiểm tra, giám sát được coi là một phương thức lãnh đạo củaĐảng. Lãnh đạo mà không có kiểm tra, giám sát thì coi như là không lãnh đạo. Việc kiểm tra, giám sát của Đảng giúp cho việc nhận diện việc nắm bắt và thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng đã đúng chưa, có những vướng mắc, bất cập gì trong thực tế và cần phải hoàn thiện chính sách hay khắc phục như thế nào.

- Sự gư­ơng mẫu của đảng viên, nhất là những người đứng đầu các tổ chức, cơ quan của Đảng. Sự gương mẫu của mỗi đảng viên, nhất là của những người đứng đầu ở các vị trí cao của hệ thống chính trị luôn có sức lay động và cảm hóa mạnh mẽ đối vớiNhân dân.

- Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Thông qua tính kỷ luật và thống nhất trong Đảng, cácđảng viên và tổ chứcđảng sẽ là người tuân thủ, thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách củaĐảng. Đồng thời họ cũng là người có vai trò phổ biến, vận động, thuyết phục đối với các thành viên khác của xã hội nhận thức và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.

Ngoài những điểm nêu trên, Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội vàNhân dân từ uy tín của Đảng, từ sự đề cao và tôn trọng vai trò của Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội.


Video liên quan

Chủ Đề