Cuộc khủng hoảng kinh tế trong thế giới tư bản chủ nghĩa bùng nổ vào thời gian nào? Ở đâu

Mục lục

Khởi đầu

Các nhà sử học kinh tế thường coi chất xúc tác của cuộc Đại khủng hoảng là sự sụp đổ bất ngờ của thị trường chứng khoán Mỹ, bắt đầu từ ngày 24 tháng 10 năm 1929. Tuy nhiên,[11] một số tranh chấp kết luận này và coi sự sụp đổ của chứng khoán là một triệu chứng, chứ không phải là một nguyên nhân, của cuộc Đại khủng hoảng.[6][12]

Ngay cả sau khi Phố Wall sụp đổ năm 1929, sự lạc quan vẫn tồn tại trong một thời gian. John D. Rockefeller nói “Đây là những ngày mà nhiều người nản lòng. Trong 93 năm của cuộc đời tôi, sự chán nản đã đến và biến mất. Sự thịnh vượng đã luôn trở lại và sẽ trở lại. " [13] Thị trường chứng khoán đi lên vào đầu năm 1930, trở lại mức đầu năm 1929 vào tháng Tư. Con số này vẫn thấp hơn gần 30% so với mức đỉnh của tháng 9 năm 1929.[14]

Cả chính phủ và doanh nghiệp đã chi tiêu nhiều hơn trong nửa đầu năm 1930 so với cùng kỳ của năm trước. Mặt khác, người tiêu dùng, nhiều người đã bị thua lỗ nghiêm trọng trên thị trường chứng khoán năm trước, đã cắt giảm 10% chi tiêu của họ. Ngoài ra, bắt đầu từ giữa những năm 1930, một trận hạn hán nghiêm trọng đã tàn phá vùng trung tâm nông nghiệp của Hoa Kỳ [15]

Lãi suất đã giảm xuống mức thấp vào giữa năm 1930, nhưng kỳ vọng giảm phát và việc ngừng vay vốn của người dân đồng nghĩa với việc chi tiêu tiêu dùng và đầu tư bị suy giảm.[16] Đến tháng 5 năm 1930, doanh số bán ô tô đã giảm xuống dưới mức của năm 1928. Nhìn chung, giá cả bắt đầu giảm, mặc dù mức lương vẫn ổn định vào năm 1930. Sau đó, một vòng xoáy giảm phát bắt đầu vào năm 1931. Nông dân phải đối mặt với một triển vọng tồi tệ hơn; giá cây trồng giảm và hạn hán ở Great Plains đã làm tê liệt triển vọng kinh tế của họ. Ở đỉnh điểm, cuộc Đại khủng hoảng chứng kiến gần 10% tổng số trang trại ở Great Plains đổi chủ bất chấp sự trợ giúp của liên bang.[17]

Khởi đầu, sự suy giảm của nền kinh tế Hoa Kỳ là yếu tố kéo hầu hết các nước khác đi xuống; khi đó, điểm yếu hoặc điểm mạnh bên trong của mỗi quốc gia đã làm cho điều kiện trở nên tồi tệ hơn hoặc tốt hơn. Những nỗ lực điên cuồng của các quốc gia riêng lẻ nhằm củng cố nền kinh tế của họ thông qua các chính sách bảo hộ - chẳng hạn như Đạo luật Thuế quan Smoot – Hawley của Hoa Kỳ năm 1930 và thuế quan trả đũa ở các bang khác - đã làm trầm trọng thêm sự sụp đổ trong thương mại toàn cầu, góp phần vào sự suy thoái.[18] Đến năm 1933, sự suy giảm kinh tế đã đẩy thương mại thế giới xuống 1/3 mức của nó chỉ 4 năm trước đó.[19]

Chỉ số kinh tế

Sự thay đổi của các chỉ số kinh tế 1929–32 [20]

Hoa Kỳ Anh Pháp Đức
Sản xuất công nghiệp −46% −23% −24% −41%
Giá sỉ −32% −33% −34% −29%
Ngoại thương −70% −60% −54% −61%
Thất nghiệp + 607% + 129% + 214% + 232%

Video liên quan

Chủ Đề