Dân ý so sánh Tây Tiến và Đồng chí

Bài làm

Trong dòng chảy văn học Việt Nam, hình tượng người lính trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc đã trở thành một tượng đài bất tử. Cùng là những “nhà thơ mặc áo lính” trưởng thành từ những cuộc chiến tranh máu lửa, cả Quang Dũng và Chính Hữu đều đã để lại cho nền thi ca Việt Nam những tác phẩm xuất sắc viết về người lính. Nếu người ta biết đến Quang Dũng với “Tây Tiến” thì cũng không thể nhắc đến “Đồng chí” của Chính Hữu. Cả hai bài thơ đều để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng bao thế hệ bạn đọc.

Cả “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Đồng chí” của Chính Hữu đều khắc họa hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Hai bài thơ tuy có những điểm đặc sắc riêng, song lại đều nổi bật lên được tư tưởng cao đẹp cống hiến cho đất nước.

Đến với Tây Tiến, người lính được tập trung khắc hoạ với những vẻ đẹp khác nhau, vừa hào hùng, vừa lãng mạn, lại vừa bị tráng. Quang Dũng đặc tả khủng cảnh thiên nhiên để làm nổi bật lên hình ảnh người lính. Người lính Tây Tiến phải đối mặt với thách thức địa hình, nơi “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, nơi sơn cùng thủy tận “oai linh thác gầm thét”, “đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. Ở họ, ta thấy được sự ung dung, tâm thế chủ động vượt lên trên khó khăn, gian khổ. Đối với họ, cái chết nhẹ như một giấc ngủ “gục lên súng mũ bỏ quên đời”, và khi họ ra đi, họ khoác trên mình tấm áo lính đơn sơ nhưng lại là tấm “áo bào” minh chứng cho những cống hiến, hi sinh của họ. Không những can trường, mạnh mẽ, họ còn mang trong mình một tâm hồn lãng mạn. Họ sống hết mình trong “tiếng khèn man điệu”, trong tiếng nhạc, trong ánh sáng tưng bừng và điệu múa mê hồn của những cô thôn nữ. Người lính Tây Tiến không chỉ là những chàng trai hừng hực ý chí bảo vệ Tổ quốc, mộng công danh còn đi liền với cả “mộng giai nhân”. Họ vốn xuất thân là những thanh niên nơi phố thị phồn hoa, họ từ bỏ những giảng đường, từ bỏ cuộc sống hiện đại để ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, vậy nên họ cũng có những giờ phút nhớ nhung dáng kiều chốn Hà Thành:

  • “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Quang Dũng đã đi sâu vào đời sống tâm hồn vô cùng phong phú của những người lính, họ cũng là những con người trẻ tuổi, tài hoa, trái tim họ cũng biết rung động, cũng biết vang lên những nhịp đập hết sức đời thường. Nhớ nhung một bóng dáng nơi đô thành, cao hơn, lại chính là trái tim sắt son luôn hướng về nơi thủ đô, nơi Tổ quốc.

Nếu Tây Tiến đã khắc hoạ một tượng đài người lính với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bị tráng thì với “Đồng chí”, Chính Hữu lại đi sâu vào một khía cạnh khác ở người lính cụ Hồ trong những năm tháng chống Pháp. Không phải là những chàng trai trí thức trẻ chốn thành thị, mà họ là những người nông dân chân lấm tay bùn đến từ những miền quê “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, vì tiếng gọi cỉa Tổ Quốc mà cất bước ra đi, để rồi “chẳng hẹn mà quen nhau nơi chiến khu”. Chính Hữu cũng đã khắc hoạ những gian khó, thiếu thốn nơi chiến trường, từ đó làm sáng lên thứ tình cảm ấm nồng – tình đồng chí. Trên quãng đường hành quân, người lính phải đối mặt với biết bao gian khổ:

  • “Áo anh rách vai
  • Quần tôi có vài mảnh vá
  • Chân không giày”
  • “Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
  • Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi”.

Có lẽ, những hình ảnh chân thực đến xót xa ấy đã quá đỗi quen thuộc trong mỗi cuộc chiến tranh gian lao của dân tộc. Những khi ấy, những người đồng chí luôn cùng sát cánh kề vai, sẻ chia, gắn bó. Không chỉ làm nổi bật lên tình cảm đồng chí giản dị mà cảm động biết bao, Chính Hữu cũng khắc hoạ vẻ đẹp của tâm hồn lãng mạn

Câu thơ dường như đã cất cánh, thăng hoa, trở thành một biểu tượng đẹp trong nền thơ ca cách mạng. Dù gian nan, khổ cực, hiểm nguy trập trùng, tâm hồn người lính cũng có những giây phút lãng mạn đến thế. Đó cũng chính là vẻ đẹp của thời đại, một thời đại anh hùng nhưng cũng không kém phần hào hoa lãng mạn.

Đi mua nhà thơ đều tập trung khai thác những khía cạnh khác nhau của người lính trong kháng chiến chống Pháp nhưng ở cả hai bài thơ đều sáng lên tư tưởng cao đẹp cống hiến cho Tổ quốc.

  • “Rải rác biên cương mồ viễn xứ
  • Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Hình ảnh “mồ viễn xứ” gợi lên cái cảm giác ghê sợ, lạnh lẽo, tang thương nhưng lại không thể không tự hào, kiêu hãnh trước sự hi sinh bất khuất của người lính Tây Tiến. Bằng một loạt những từ Hán Việt, những vần thơ bỗng trở nên trang trọng như một nén tâm nhang thắp lên cho người đã ngã xuống. Họ “chẳng tiếc đời xanh”, họ bỏ lại sau lưng chốn phồn hoa phố thị, để đối mặt mới khó khăn thử thách và hiểm ngu
y. Người lính trong Đồng chí cũng thế

  • “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
  • Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”

Đối với người nông dân, mảnh đất, gian nhà quý giá biết bao, đó là linh hồn của họ, nhưng vì Tổ quốc, họ sẵn sàng để lại sau lưng những điều quý giá ấy. Bởi lẽ, dù là ai, họ cũng hiểu được rằng, đất nước còn, thì gian nhà nhỏ bé đơn sơ hay những phố thị, những giảnh đường mới tự do, mới độc lập, mới có ý nghĩa. Trong câu thơ, ta thấy một tâm thế ung dung nhưng không phải là thờ ơ, là bất cần, mà là vì họ hiểu được một cạc sâu sắc giá trị của độc lập, tự do. Bởi vậy, họ sẵn sàng hi sinh tất cả những gì của bản thân mình, để chiến đấu, để cứu lấy cả quê hương, cũng là để bảo vệ những gì mình trân quý nhất. Tâm thế của người ra đi chiến đấu là sẵn sàng xả thân, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, mà ta cũng đã thấy ở trong trang thơ của biết bao nhà thơ khác

  • “Nhớ buổi ra đi đất trời rực lửa
  • Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
  • Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
  • Hồn phất phơ mười phương cờ đỏ thắm”
  • [Chính Hữu]
  • “Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
  • Những phố dài xao xác hơi may
  • Người ra đi đầu không ngoảnh lại
  • Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
  • [Nguyễn Đình Thi]

rõ ràng đã thấy cả hai bài thơ đều đã khắc họa những khía cạnh như vẻ đẹp riêng của người lính trong kháng chiến chống Pháp. Nhưng dù là ai, họ cũng mang trong mình cứ tưởng cao đẹp cống hiến hết mình vì tổ quốc, vì quê hương. Hai bài thơ đã góp phần làm phong phú thêm nền thi ca cách mạng Việt Nam, làm rạng rỡ thêm bức tượng đài bất tử của những người lính anh hùng.

Skip to content

Đề bài: So sánh Đồng Chí và Tây Tiến

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Tấm lòng của họ đối với đất nước thật càm động khi giặc đến các anh đã gửi lại người bạn thân mảnh ruộng chưa cày , mặc kệ những gian nhà bị gió cuốn lung lay để ra đi kháng chiến . Bình thường vậy thôi , nhưng nếu không có một tình yêu đất nước sâu nặng không thể có một thái độ ra đi như vậy.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay “

Tham khảo: Thao tác lập luận và so sánh

Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ giản dị : yêu nuớc Tính yêu đất nước , ý thức dânn tộc là máu thịt , là cuộc đời họ , bởi vậy , nông dân hay trí thức chỉ mới nghe tiếng đau thương của quê hương , họ sẽ bỏ lại tất cả, cả ruộng nương , xóm làng . Chỉ đến khi ở nơi kháng chiến người lính nông dân áo vải lại trở mình , lòng lại bận tâm lo lắng về mảnh ruộng chưa cày , với căn nhà bị gió lung lay . Nỗi nhớ của các anh là thế : cụ thể nhưng cảm động biết bao . Người lính luôn hiểu rằng nơi quê nhà người mẹ già , ngừơi vợ trẻ cùng đán con thơ đang trông ngón anh trở về:

“Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính.”

Trong những tâm hồn ấy , hẳn sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường nhật , nhưng thực sự hành động ấy là cả một sự hy sinh cao cả . Cả cuộc đời ông cha gắn với quê hương ruộng vườn , nay lại ra đi cũng như dứt bỏ đi nửa cuộc đời mình .

Sống tình nghĩa , nhân hậu , hay lo toan cũng là phẩm chất cao đẹp của người lính nông dân . Với họ vượt qua gian khổ thiếu thốn của cuộc sống là điều giản dị bình thường , không có gì phi thừơng cả .

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay! “

Chính Hữu đã khắc hoạ hiện thực khó khăn mà người lính gặp phải . Đối mặt với những khó khăn đó, những người lính không hề một chút sợ hãi , những thử thách giữa nơi rừng thiêng nước độc cứ kéo đến liên miên nhưng người lính vẫn đứng vững , vẫn nở “miệng cười buốt giá” . Đó là hình của sự lạc quan , yêu cuộc sống hay cũng là sự động viên giản dị của những người lính với nhau . Những câu thơ hầu như rất giản dị nhưng lại có sức lay động sâu xa trong long người đọc chúng ta..

Tuy nhiên từ trong sự bình thường , hình ảnh người lính của Chính Hữu vẫn ánh lên vẻ đẹp rực rỡ của lí tưởng , sẵn sàng hy sinh vì Tổ Quốc , dũng cảm lạc quan trước hiểm nguy kẻ thù rình rập:

“Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới

Đầu súng trăng treo.”

Thật là bức tranh đơn sơ , thi vị về người lính trong một đêm chờ giặc tới giữa nơi rừng hoang sương muối . Những người lính kề vai , sát cánh cùng hứơng mũi súng vào kẻ thù . Trong cái vắng lặng bát ngát của rừng khuya , trăng bất ngờ xuất hiện chơi vơi lơ lửng nơi đầu súng . Những ngừơi lính nông dân giờ đây hiện ra với một tư thế khác hẳn, như những người nghệ sĩ đầy chất thơ , bình dị nhưng vẫn đẹp lạ lùng .

Những hiện thực về hình tượng người lính trong bài thơ Đồng Chí đã goíp phần hoàn thiện hình tượng người lính trong các cuộc kháng chiến của dân tộc . Ta có thể lấy 1 ví dụ so sánh hiện thực người lính giữa bài thơ Tây Tiến và bài “Đồng Chí”:

Hiện thực của bài Tây Tiến là những người lính tiểu tư sản , học sinh Hà Nội “ yêng hung” , hào hoa , là chiến trường miền Tây dữ dôi và ác liệt . Từ hiện thực đó , với cảm hứng lãng mạn , nhà thơ Quang Dũng đã dựng lên chân dung người lính Tây Tiến phi thường – tài hoa , người lính của một thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc .

Hiện thực trong bài Đồng Chí lại khác hoàn toàn . Như đã phân tích ở trên , hiện thực đó là những người nông dân nghèo , mặc áo lính gắn bó với nhau trong tình đồng chí , đồng đội thiêng liêng . Từ người lính nông dân mộc mạc , giản dị – người lính thân quen của mọi nhà .

Cả hai hình tượng thơ ấy đã phản ánh rất chân thực và rất đẹp người lính trong một thời kí lịch sử , để có thể gộp lại thành hình tượng tiêu biểu của người 1lính thời kháng chiến chống Pháp . Nó xứng đáng là bức chân dung thời đại , một “ tượng đài nghệ thuật “ về người lính bất tử với thời gian .

Sẽ là một thiếu sót rất lớn khi lại đề cập quá nhiều đến hình tượng người lính mà lại không nói về tình đồng chí , tình đồng đội của người chiến sĩ trong bài thơ . Tìm hiểu nhau , những người lính hiểu ra họ có cùng chung quê hương vất vả khó nghèo, chung tình giai cấp , chung lí tưởng và mục đích chiến đấu . Chính cái chung ấy như một thứ keo sơn bền vững nối cuộc đời ngững người lính với nhau để làm nên hai tiếng “ đồng chí “ xúc động và thiêng liêng.

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Vẻ đẹp tâm hồn nơi người lính không chỉ phát ra từ những hiện thực khó khăn hiểm nguy mà còn phát ra từ vừng ánh sang lung lính, chính là tình đồng đội . Vượt rừng đâu phải chuyện dễ dàng ! Những căn bệnh quái ác, những đêm tối lạnh buốt xương , những thiếu thốn vật chất của đoàn quân mới được gầy dựng vội vã . Nhưng những người lính đã cùng nhau vượt qua . Họ lo cho nhau từng cơn sốt , từng míếng áo rách , quần vá . Với họ quan tâm tới những người đồng đội giờ đây cũng như là quan tâm chăm sóc cho chính mình . Ôi ấm áp biết mấy là cái xiết tay của đồng đội lúc gian khó . Cái xiết tay truyền đi hơi ấm , sức mạnh cho ý chí con người . Và cùng nhau , giúp đỡ nhau , những người lính vượt qua với tư thế ngẩng cao đầu trước mọi thử thách , gain nan .

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!

Cái khốn khó , gian truân hãy còn dài trên bước đừơng kháng chiến dân tộc . Nhưng dường như trước mắt những con người này , mọi thứ không còn hiểm nguy . Trong đêm trăng váng lặng , bát ngát giữa rừng hoang sương muối, những người lính vẫn kề vai , sát cánh cùng hướng mũi súng về phía kẻ thù .

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới “

Sức mạnh của sự tin tưởng lẫn nhau , của sự quan tâm tới nhau giữa những người lính đã làm vững chắc thêm tình đồng đội trong họ . Bởi họ biết rằng khi cùng nhau thắp lên tình đồng chí vững bền , sức mạnh chung nhất sẽ là sức mạnh mạnh nhất . Mục đích chiến đấu vì quê hương , vì Tổ Quốc của họ sẽ càng mau chóng đạt được . Khi ý chí và mục đích hợp chung con đường , thì tình cảm giữa họ càng thắm thiết , sâu đậm . Đó là tình đồng chí giữa những người lính …

Không chỉ dừng ở cung bật tình cảm giữa những người lính , bài thơ “Đồng Chí ” còn mang ta đến chi tiết lãng mạn cao hơn ở cuối bài :

“Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới

Đầu súng trăng treo.”

Người lính không cô đơn lạnh lẽo vì bên anh đã có đồng đội và cây súng , là những người bạn tin cậy nhất , tình đồng chí đã sưởi ấm lòng anh . Người chiến sĩ toàn tâm toàn ý hường theo mủi sung . Chính lúc ấy , các anh bắt gặp một hiện tưỡng kì lạ .

“Đầu súng trăng treo.”

Nét sáng tạo độc đáo thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của của Chính Hữu qua bài thơ chính là hình ảnh này . Từ tình đồng chí , trải qua những thử thách khác nhau , Chình Hữu đã tạo nên cái nhìn đầy chất thơ . Nếu hai câu thơ trên không kết hợp với hình ảnh “ đầu súng trăng treo” thì nó khó có những giá trị đặc sắc . Ngược lại , nếu không có sự nâng đỡ của của hai câu thơ đó thì hình ảnh sẽ bị coi là thi vị hoá cuộc sống chiến đấu người lính . Sự quyện nhuần nhuyễn giữa hiện thực và chất thơ lãng mạn , bay bổng đã làm cho “ đầu súng trăng treo “ trở thành một trong những hình ảnh đẹp nhất thơ ca kháng chiến chống Pháp . Câu thơ chỉ vỏn vẹn bốn từ nhưng nó bao hàm cả cái tình , cái ý và đặc biệt là sự càm nhận tinh tế của Chính Hữu . Nhờ sự lien tưởng thong minh tài tình , tâm hồn giàu cảm xúc , Chính Hữu đã gợi lên một không gian bát ngát giữa vũ trụ bao la , nó có cái gì đó rất bồng bềnh , huyền bí , khó tả .Hình ảnh đó gây được ấn tượng thẩm mĩ sâu sắc với người đọc . đồng thời , nó trở thành hình tượng đa nghĩa độc đáo của thi ca . “ Đầu súng trăng treo “ được xây dựng bằng bút pháp siêu thực . đầy chất thơ . Tại sao vậy ? Chúng ta thực sự đánh giá cao không gian nghệ thuật hiện thực của “ nuớc mặn đồng chua “ , “ đất cày lên sỏi đá” và đặc biệt là không gian “ rừng hoang sương muối “ ; nó đã góp phần tô đẹp thêm hình tượng vầng trăng , cây súng . Hai hình ảnh này đối lập nhau rất rõ . Một bên là vầng trăng muôn thưở hấp dẫn và kì lã, thanh bình với thi ca . Nó biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp , hoà bình , hạnh phúc của nhân loại, đồng thời cũng là ước mơ cuộc sống tượi đẹp hoà bình hạnh phúc . Nhưng trăng ở đây lại được đặt trong mối quan hệ với súng . Một bên là súng , súng biểu tượng cho chiến tranh và cái chết nhưng súng cũng trở thành lí tưởng cao đẹp , tinh thần chếin đấu vì cuộc sống hoà bình dân tộc của ngừơi chiến sĩ . Trăng là vẻ đẹp lãng mạn, súng là hiện thực . Tuy đối lập , nhưng hai hình tượng này đã tôn thêm vẻ đep cho nhau , tạo nên vẻ đẹp hoàn mĩ nhất . Không phải ngẫu nhiên khi Chính Hữu đưa hai hình ảnh ngược nhau trong một câu thơ . Qua đó ông muốn khẳng định cái khát vọng về một cuộc sống yên lành đầy chất thơ : để cho vầng trăng kia sang mãi , trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ , mọi người phải cầm súng chiến đấu . Có thể nói , hình ảnh “ Đầu súng trăng treo “ là một phát hiện thú vị , mới lạ độc đáo của Chính Hữu . Chính hữu đã sử dụng bút pháp hiện thực để tạo nên hình ảnh thơ vừa hiện thực vừa lãng mạn . Trăng và súng kết thành một không gian thơ trữ tình , là biểu tượng cho tình thần dũng cảm , hào hoa muôn thưở của dân tộc nói chùng và ngừơi lính nói riêng .

Bài thơ đã kết thúc nhưng nó sẽ còn sống mãi chừng nào con người chưa mất đi bản năng của chính mình : sự rung động . Quả thật văn chương đã tạo ra cho mình một th6é đứng riêng còn mạnh hơn lịch sử . Cùng tái hiện lại một thời đau thương nhưng vĩ đại và hình tượng người chiến sĩ , nhưng văn chương đã đến với người đọc theo con đường của trái tim , gây nên những xung động thẫm mĩ trong tâm hồn con người , làm thành sự xúc cảm tận đáy tâm hồn và những ấn tượng không thể nào quên . Đó là những năm đau thương chứng kiến những con người cao cả kiên cường , những người lính dũng cảm bất khuất . Họ không khô khan mà bầu nhiệt huyết nung nấu , tràn đầy long hy sinh , với tình đồng đội trong sáng , thân ái . Chính những điều đó làm bài thơ “Đồng Chí ” trên những trang giấy vẫn có lúc đc lật lại, vẫn nhỏ từng giọt ngân vang , tưởng đến những con người thần kì mà bình dị với niềm tự hào kiêu hãnh , cho nay và mai sau mãi nhớ về.

Video liên quan

Chủ Đề