Danh sách đó Lê Hồng Phong năm Định 2021
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới điều hướng Show
Đối với các định nghĩa khác, xem Trường Lê Hồng Phong.
Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong là trường trung học phổ thông chuyên hệ công lập của tỉnh Nam Định, Việt Nam. Trường được thành lập theo nghị định số 2455 do Toàn quyền Đông Dương Maurice Long ký vào ngày 24 tháng 8 năm 1920 với tên gọi trường Thành Chung Nam Định. Nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Đông Dương từng học ở trường này. Mục lục
Lịch sử nhà trường[sửa | sửa mã nguồn]Trường Thành Chung Nam Định ra đời theo nghị định số 2455 do Toàn quyền Đông Dương Maurice Long ký ngày 24-08-1920. Nghị định đã quy định, năm học đầu Nam Định được mở một lớp, kinh phí 4.500đ, tuyển sinh các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Hà Nam, Ninh Bình. Báo Trung Bắc Tân Vân, một tờ báo được thực dân Pháp bảo trợ, sau kêu xin được cho một số học sinh 15 tuổi vào học. Số báo ra ngày 8-10-1920 đã đưa tin lớp học đầu tiên của trường Thành Chung Nam Định có 45 học trò. Lớp học đặt tại một căn phòng gần Sở Bưu điện bây giờ. Người Thầy Việt Nam từ năm học đầu tiên của trường là thầy Nguyễn Văn Hiếu, hiệu trưởng là viên thanh tra người Pháp Lo-retx. Năm học 1921-1922 của trường có 2 lớp (năm thứ nhất và năm thứ hai), học nhờ trường Cửa Bắc. Người Pháp giảng dạy một số môn. Người Việt Nam có thêm thầy Vũ Văn Roãn. Để chuẩn bị mở lớp năm thứ 3, ngày 13-2-1922, giám đốc Nha học chính Bắc Kỳ điện cho Nam Định yêu cầu xây dựng trường riêng. Công sứ Nam Định ủng hộ chủ trương ấy. Thành phố đã lấy 2.250m2 tại phố Gốc Ngái để xây trường (nơi đặt trụ sở UBMTTQ thành phố bây giờ). Thầy Hoàng Ngọc Phách chuyển về trường vào thời gian viết cuốn tiểu thuyết Tố Tâm. Năm học 1922-1923 với 3 lớp, trường chuyển về phố Gốc Ngái. Thầy Nguyễn Văn Hiếu chuyển về Hà Nội từ năm 1923. Nhà trường có thêm các thầy Nguyễn Văn Bằng, Mai Phương, Nguyễn Gia Tường. Ngày 2-9-1923 Giám đốc Nha học chính Bắc Kì quyết định cho Nam Định được mở tiếp năm thứ tư. Do đó, trường mới được xây dựng ở đầu phố Bến Ngự (nơi đặt trường Tiểu học Phạm Hồng Thái bây giờ). Năm học 1923-1924 trường có 4 lớp. Cũng như các trường khác, nhà trường được sự trợ giúp của Hội Bảo trợ học đường. Trường chuyển ra địa điểm mới và theo Nghị định số 2419 lúc bấy giờ của toàn quyền Đông Dương ký ngày 23-09-1924, trường đổi tên là Cao đẳng tiểu học Pháp-Việt. Năm học 1924-1925 nhà trường tuyển 80 học sinh (vẫn chưa tuyển nữ sinh), nhưng năm học sau chỉ tuyển 40 học sinh vì thiếu lớp học. Những năm 1925 1928 trường có thêm nhiều thầy dạy. Các thầy người Việt Nam, tính đến năm 1925 có thêm các thầy Trần Văn Hào, Trần Văn Chử, Vũ Tam Thám, Đỗ Hữu Phúc, Ngô Duy Cừ, Phạm Văn Bảng, Đào Văn Định, Vũ Tam Tập, Phan Đình Nghiu, Nguyễn Văn Chính, Phạm Văn Nam, Nguyễn Như Loan, Nguyễn Quang Xương, Vũ Văn Roãn. Đến năm 1927 có thêm các thầy Phan Thế Roanh, Dương Quảng Hàm, cụ kép Phạm Cao Bạt, thân sinh nhà văn Phạm Cao Củng, được tạm tuyển dạy Hán Văn. Tháng 11-1925 khi thực dân Pháp kết án cụ Phan Bội Châu, cụ tú Nguyễn Khắc Doanh, người Nam Trực, xin chết thay cụ Phan. Sự việc này đã được đăng trên các báo, đã gây tác động mạnh đến các học sinh và nhân dân. Toàn quyền Đông Dương Varen phải ân xá cho cụ Phan. Cũng năm ấy nhiều vùng miền Bắc bị lụt lớn, học sinh trường Thành Chung đã tổ chức diễn kịch lấy tiền trợ giúp những người bị nạn. Ngày 11-3-1926 nhà yêu nước Phan Chu Trinh mất. Phong trào truy điệu và để tang cụ Phan từ Sài Gòn đã lan ra toàn quốc. Nhân dân Nam Định cũng đã đấu tranh đòi được tổ chức lễ truy điệu cụ Phan, nòng cốt là học sinh trường Thành Chung được các nhà nho và nhân dân nhà máy ủng hộ. Những người khởi xướng là Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Khắc Lương, Đặng Xuân Khu, Nguyễn Tường Loan, Đặng Châu Tuệ, Nguyễn Văn Hoan. Học sinh đã bãi khóa và tổ chức thành công lễ truy điệu. Sự kiện ấy đã gây tiếng vang lớn trong cả nước. Một số thầy giáo và một số lớn học sinh đã bị kỷ luật. Thầy Vũ Tam Tập phải đổi đi Lạng Sơn, thầy Đào Văn Định đi Sơn Tây sau đó đi Bắc Ninh, thầy Nguyễn Văn Chính đi Bắc Ninh. Theo quyết định số 1654E ngày 30-04-1926 của thống sứ Rôbanh thì 47 học sinh năm thứ 4, 7 học sinh năm thứ 3 trong đó có Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Tường Loan, Đặng Xuân Khu bị đuổi hẳn, còn có 30 học sinh lớp 3A, 28 học sinh lớp 3B bị đuổi tạm thời, và có khoảng 50 học sinh các lớp năm thứ hai và năm thứ nhất bị đuổi tạm thời hoặc bị tước hết học bổng. Hiệu trưởng Saclo Patris bị coi là nhu nhược phải đổi về trường Bưởi dạy Văn-sử. Người thay thế là Đờ Phô-tơ-rô Vatxen. Sau lễ truy điệu cụ Phan, một số học sinh tự thôi học đi tìm đường cứu nước. hơn một chục người lần lượt sang Quảng Châu tìm gặp cụ Nguyễn Ái Quốc được cụ giác ngộ, huấn luyện rồi trở thành những đại biểu Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (VN TNCMDCH). Từ năm 1928 đến năm 1932 các học sinh khác của trường Thành Chung như Tống Phúc Chiểu, Đặng Châu Tuệ, Vũ Văn Mẫn, Vũ Công Phụ, Lưu Đình Diêu, Nguyễn Văn Chước, Đỗ Duy Ninh, Nguyễn Thượng Chí, Đặng Hữu Rạng (Đặng Việt Châu), Trần Văn Ngoạn, Vũ Đức Oong, Hoàng Thọ Tiểu, Vũ Ngọc Thuần,lần lượt được kết nạp Đảng. Năm 1928 có một số người tìm đường sang Xiêm bị bắt giữ lại. Ngày 18-12-1928, Robin ký Nghị định số 5438 cấm 6 người không được làm việc nhà nước. Đó là Nguyễn Trịnh Bảo, Vũ Tiến Lữ, Lê Trọng Quy, Nguyễn Tuân, Lương Đức Thiệp, Nguyễn Đình Chung. Có hai học sinh tham gia Việt Nam Quốc Dân Đảng, một tổ chức lúc đấy cũng chống đế quốc Pháp; nhưng khi thấy sự bế tắc của đường lối, các anh đã ly khai và gia nhập Đảng Cộng sản. Đó là trường hợp các anh Nghiêm Tử Trình (sau này là Ủy viên Ủy ban Hành chính Hà nội những năm 1950) và Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân trở thành nhà văn trong điều kiện như thế. Có thể bạn quan tâm Unicode là gì? Chi tiết về Unicode mới nhất 2021 Từ năm 1930 đến 1935 bộ máy nhà trường có thay đổi. Hiệu trưởng là Agard, các thầy người Việt Nam là Vũ Văn Roan, Phạm Văn Nam, Trần Văn Hào, Phạm Xuân Độ, Hoàng Đình Ân, Phạm Đình Nghiu, Phan Thế Roanh. Thầy Vũ Tam Tập đi một năm lại trở về, thầy Đào Văn Định đi 5 năm thì trở về. Thầy Ngô Duy Cừ mất năm 1936. Những năm 1931-1935 thực dân Pháp khủng bố mạnh. Nhiều học sinh là nòng cốt của phong trào đã thôi học, đi hoạt động cách mạng. Phong trào có lúc lắng xuống, nhưng lại vẫn có lúc bùng lên với những sự kiện đáng ghi nhớ. Một sự việc đáng kể là học sinh trường Thành Chung tham gia cuộc vận động nhân dân thành phố Nam Định không đi xem đoàn xiếc nước Anh biểu diễn, triệt để tẩy chay tên Ham-xton, chủ gánh xiếc đã xúc phạm dân tộc Việt Nam. Việc làm ấy có tiếng vang lớn, lan truyền đến Vinh và các nơi khác. Hamston bị tẩy chay, bị xua đuổi khắp nơi, hết đường hành nghề, đành bắn hết hổ báo đến mức kiệt sức, phải hổ thẹn và cuối cùng đã tự sát! Học sinh trường Thành Chung còn vận động nhân dân không đi đón Bảo Đại ngự giá Bắc tuần. Thời kỳ này còn có thêm một số nhân tài trong học sinh xuất hiện: Trần Hữu Trí, do hoàn cảnh túng thiếu, đã bỏ học, đi dạy tư và viết văn. Anh đã sớm trở thành nhà văn Nam Cao đáng tự hào của quê hương đất nước. Còn phải kể đến các nhạc sĩ Bùi Công Ký, nhà văn Nguyễn Văn Niêm, Trần Lê Văn Người học sinh xuất sắc Vũ Công Hậu đã đứng đầu cuộc thi học sinh giỏi toán các trường trung học toàn Đông Dương. Trong đội ngũ các thầy giảng dạy thời gian ấy có một số thầy đi làm kiểm học rồi làm đốc học ở một số tỉnh miền Bắc. Đó là thầy Nguyễn Như Loan, Nguyễn Quang Xương, Vũ Văn Roan. Từ năm 1936-1937, nhà trường có thêm thầy Đỗ Trọng Cảnh, Đặng Lợi Hàm (sau là Ủy viên Ủy ban Hành chính Thành phố Hải Phòng), Nguyễn Đình Hường, Nguyễn Bá Cường. Hiệu trưởng Agard bị đổi đi nơi khác vì sự việc xúc phạm đến nhân cách học sinh và dân tộc Việt Nam, học sinh phẫn nộ, phản ứng lại mạnh mẽ và rải truyền đơn chống đối. Pierre Maneval về thay. Trong khoảng thời gian ở Pháp, Mặt trận bình dân cầm quyền, thực dân Pháp cho xây dựng một trường lớn có 8 lớp đủ tiện nghi, phương tiện thí nghiệm, thực hành với mức khá hiện đại ở đầu đường Cổng Hậu (gần bến ôtô cũ bây giờ). Di tích còn lại của trường nay là phố Thành Chung. Năm học 1937 -1938 trường chuyển về địa điểm mới và bắt đầu nhận học sinh nữ. Mỗi lớp có khoảng 5 nữ sinh. Đồng thời, nhà trường cũng nhận thêm một số học sinh là con em Pháp kiều không có điều kiện học ở trường Sa-rô ở Hà Nộị. Năm học 1938-1939 Lô-hê-nê về làm hiệu trưởng thay Maneval. Sau đó, Lô-hê-nê bị động viên vào quân đội sang đánh nhau ở Campuchia, Bre-ăng thay được ít lâu thì Ma-nơ-van trở lại trường nhận chức vụ cũ cho tới ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, nắm chính quyền ở Đông Dương, thì bị Nhật bắt, sau được trả tự do, trở về Pháp. Trong tình hình cụ thể của những năm 1936-1939, phong trào cách mạng được phục hồi và phát triển, có sự hoạt động của các đồng chí Đào Năng An, Đình Gia Thái, Vũ Quốc Uy, Nguyễn Công Bổng, Phan Đình Đống, Phạm Văn Cương, Hà Văn Lộc, Nguyẽn Bá Huấn, trong phòng trào đoàn thanh niên Dân chủ rồi đến đoàn thanh niên Phản đế. Lúc ấy các đồng chí này đang học năm thứ 3 (1939), nhiều đồng chí bị bắt, bị tù đầy vào tuổi 16, 17. Từ năm 1939 đến năm 1940 có các thầy Đỗ Văn Đoan, Thạch Quan Tuấn, Nguyễn Hữu Văn, Đào Đình Khánh, Nguyễn Thụy Hùng, Nguyễn Trọng Thuyết, Nguyễn Quang Hồ, Hà Văn Bính nối tiếp nhau về trường. Năm 1942 trường cao đẳng tiểu học Pháp-Việt đổi tên thành trường Trung học. Thời kỳ này các học sinh Phạm Ngọc Khuê, Phạm Ngọc Lê, Trần Hữu Bái tham gia hoạt động thành lập Đoàn thanh niên cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh, rồi tham gia tổng khởi nghĩa. Khi chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật ra đời, thầy Phan Thế Roanh được cử tạm quyền Hiệu trưởng. College de Nam Dinh được đổi tên thành trường Trung học Nguyễn Khuyến. Ít lâu sau thầy Phó Đức Tố, giáo sư trường Bưởi chính thức về làm hiệu trưởng. Giặc Nhật chiếm trường ở đầu phố Cổng Hậu làm doanh trại, trường trở lại địa điểm cũ ở đầu phố Bến Ngự. Cách mạng tháng Tám thành công, quân Tưởng lại vào chiếm trường thay quân Nhật. Năm học 1946-1947 trường đổi tên thành trường trung học chuyên khoa Nguyễn Khuyến có Ban Toán-Lý-Hóa và ban Vạn vật. Lần đầu tiên bậc trung học chuyên khoa (THCK, tức phổ thông trung học-Trung học phổ thông hoặc phổ thông cấp 3 có phân ban) được mở ở thành phố Nam Định. Có một số thầy mới về như: Vũ Bình, Nguyễn Đình Nam, Nguyễn Hữu Ngọc, Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, năm 1947 trường chuyển đến xã Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Chi bộ Đảng cộng sản Đông Dương (CSĐD) trường THCK Nguyễn Khuyến, tức THCK Nguyễn Thượng Hiền sau này, được thành lập ngày 13-1-1948, lúc đầu gồm 4 đồng chí: Đào Nguyên Cát (bí thư), Nguyễn Văn Đắc, Phạm Văn Phối, Vũ Phi Hoàng (đều là Đảng viên về đi học). Một bộ phận của trường Nguyễn Khuyến, chủ yếu là cấp 2, tản cư về Trà Bắc, huyện Xuân Trường Nam Định, do thầy Đào Đình Khánh làm hiệu trưởng. Cuối năm 1949 Pháp đánh Phát Diệm (Ninh Bình), trường THCK Nguyễn Khuyến chuyển vào thôn Ngô Xá, xã Đại Đồng, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, đổi tên thành trường THCK Nguyễn Thượng Hiền, có các Ban Toán- Lý Hóa, Ban Vạn vật là Ban Ngoại ngữ. Năm 1950, khu giáo dục Liên khu 3 quyết định thành lập trường Cao đẳng sư phạm (CĐSP) Liên khu 3, lúc đầu lấy một số học sinh chuyên khoa Nguyễn Thượng Hiền chuyển sang học sư phạm. Có 2 BGH: Thầy Phó Đức Tố làm hiệu trưởng trường THCK Nguyễn Thượng Hiền, thầy Đỗ Trọng Cảnh làm hiệu trưởng trường CĐSP Liên khu. Lúc đầu 2 trường có chung một chi bộ Đảng CSĐD lãnh đạo, sau tách thành 2 chi bộ đều trực thuộc Tỉnh ủy Đảng CSĐD tỉnh Thanh Hóa. Lúc này trường THCK Nguyễn Thượng Hiền đã trở thành một cái nôi đào tạo nhân tài, tập hợp nhiều học sinh muốn học lên THCK của đồng bằng Bắc Bộ và miền Bắc Trung Bộ (bao gồm cả nhiều học sinh từ các thành phố tản cư về), trong đó có những đảng viên đã đi công tác nay được Đảng cho về trường tiếp tục học để hoàn thành bậc tú tài. Đến những năm 1952-1953, ở Liên khu 3, đã phát triển thêm một số trường cấp 3 như các trường Hoa Lư, Cù Chính Lan, Nguyễn Quốc Trị, La Văn Cầu, Hồ Tùng Mậu (các thầy Đào Văn Định, Nguyễn Văn Vận của trường Nguyễn Thượng Hiền được cử sang làm hiệu trưởng), đến khi giải phóng, những trường hợp này hợp nhất lại thành trường cấp 3 Liên khu 3 và trở về đặt trụ sở tại thành phố Nam Định (1954), và do thầy Đào Văn Định làm Hiệu trưởng. Trường lúc đó có 21 lớp: 7 lớp Tám, 7 lớp Chín và 7 lớp Mười. Năm 1958, trường đổi tên là trường Phổ thông cấp 3 Nam Định, thuộc Thành phố Nam Định Năm 1959, trường chia thành hai trường: Phổ thông cấp 3 Lê Hồng Phong (học buổi sáng) và Phổ thông cấp 3 Lý Tử Trọng (học buổi chiều, cùng một địa điểm bên cạnh hồ Raquète (dân gọi là hồ La két)). (LNg.BXL. / 8i 9đ- 10b / 1957 1960). Năm 1959, trường đổi tên thành trường Lê Hồng Phong và nay là trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong Nam Định. Năm 2000, trường được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kì đổi mới. Năm 2004, trường được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất. Ngày 27/03/2010, trường tổ chức kỷ niệm 90 năm ngày thành lập (1920-2010), 50 năm trường mang tên cố Tổng Bí thư Lê Hồng Phong và đón nhận Cờ Thi đua của Chính phủ. Có thể bạn quan tâm 22 (bài hát của Lily Allen) là gì? Chi tiết về 22 (bài hát của Lily Allen) mới nhất 2021 Năm 2010, trường có 03 Nhà giáo được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú: Thầy Cao Xuân Hùng (Hiệu trưởng), Cô Phạm Minh Hạnh (GV tiếng Anh), Thầy Trần Xuân Đáng (GV Toán). Năm 2012, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 1848/QĐ-CTN về việc phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân và Quyết định số 1849/QĐ-CTN về việc phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú. Trong đợt phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú năm 2012, Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong Nam Định có 3 Nhà giáo được vinh danh. Đó là nhà giáo Đặng Kim Long nguyên giáo viên tổ Toán Tin; Nhà giáo Lương Văn Thủy Phó hiệu trưởng nhà trường và Nhà giáo Phạm Đình Chuẩn giáo viên tổ Toán Tin. Năm 2013, trường được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất lần thứ 2. Năm 2014, thầy Vũ Đức Thọ, Phó Hiệu trưởng nhà trường được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng nhà trường thay thầy Cao Xuân Hùng chuyển công tác về làm Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Nam Định. Cơ cấu tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]Từ năm 2020 Ban giám hiệu nhà trường gồm: Hiệu trưởng là tiến sĩ Phạm Thị Huệ Ba hiệu phó là thầy Nguyễn Hữu Thiêm, cô Phạm Thị Thanh Tâm và thầy Bùi Thái Học Chủ tịch ban chấp hành công đoàn trường là thầy Phạm Đình Chuẩn Hệ thống giáo viên, cán bộ, công nhân viên của trường được chia làm 8 tổ:
Phương thức tuyển sinh[sửa | sửa mã nguồn]Học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở muốn vào học cần tham gia kì thi tuyển sinh vào lớp 10 của trường thường là khá khắc nghiệt. Chỉ tiêu tuyển sinh:[sửa | sửa mã nguồn]Tuyển 14 lớp chuyên theo các môn chuyên: Toán, Tin học, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Tiếng Anh, Tiếng Nga, Tiếng Pháp. Trong đó 2 lớp chuyên Toán, 2 lớp chuyên Tiếng Anh, 2 lớp chuyên Văn mỗi lớp 35 học sinh. Tuyển 2 lớp không chuyên: mỗi lớp 40 học sinh. Đối tượng dự thi:[sửa | sửa mã nguồn]Là Học sinh đã tốt nghiệp Trung học cơ sở có độ tuổi từ 15 đến 17 tuổi và các trường hợp khác được quy định tại Điều 1, Quyết định số 24/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc sửa đổi, bổ sung Điều 3 của Quy chế tuyển sinh ban hành kèm theo Quyết định số 12/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 4 năm 2006. Môn thi:[sửa | sửa mã nguồn]Học sinh phải thi 3 môn không chuyên gồm Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ và môn chuyên. Hệ số điểm các bài thi: Hình thức làm bài:[sửa | sửa mã nguồn]Đề thi các môn chung (Ngữ văn, Toán) theo hình thức tự luận, Ngoại ngữ chung và các đề thi ngoại ngữ chuyên theo hình thức tự luận kết hợp với trắc nghiệm và phần thi nói. Phần trắc nghiệm của các đề ngoại ngữ chung và các đề ngoại ngữ chuyên chiếm không quá 50% số điểm. Đề thi các môn chuyên còn lại theo hình thức tự luận. Thí sinh làm các bài thi ngoại ngữ trên giấy in đề thi. Các bài thi khác làm bài trên giấy thi thông thường theo mẫu của Sở GD-ĐT. Điểm mỗi bài thi theo thang điểm 10. Nguyên tắc tuyển sinh:[sửa | sửa mã nguồn]Xét tuyển từ điểm cao xuống thấp đến khi đủ chi tiêu được giao. Xét riêng cho từng khối lớp chuyên trước; sau đó xét tuyển các lớp không chuyên. Hoạt động ngoại khóa[sửa | sửa mã nguồn]Song hành với việc học tập, học sinh trường Lê Hồng Phong Nam Định còn tổ chức rất nhiều hoạt động ngoại khóa bổ ích sau những giờ học căng thẳng. Các giải thể thao của trường được tổ chức hàng năm như đá bóng, đá cầu, cầu lông thu hút đông đảo học sinh tham gia. Chuyên mục văn nghệ giữa các khối lớp chuyên thường được tổ chức vào mỗi thứ hai hàng tuần. Ngoài ra trường còn tổ chức rất nhiều hoạt động ngoại khóa khác như Dạ hội hàng năm của khối Chuyên Tiếng Anh (The annual prom of English gifted classes), cuộc thi Lăng kính khoa học, rung chuông vàng, làm bánh nhân ngày 20/10, cắm hoa nghệ thuật, tham quan du lịch Các câu lạc bộ cũng hoạt động mạnh như CLB khoa học, CLB nghệ thuật, CLB ngoại ngữ, CLB võ thuật, CLB tiếng Anh Flashlight, Thành tích nổi bật[sửa | sửa mã nguồn]Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong là trường chuyên duy nhất của tỉnh Nam Định. Trường luôn là một trong những trường chuyên nổi tiếng của cả nước với bề dày thành tích trong học tập. Trong 15 năm gần đây, trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong có 971 giải học sinh giỏi cấp quốc gia, 24 huy chương các kì thi Olimpic khu vực và quốc tế. Trường đạt chuẩn quốc gia, được Nhà nước Việt Nam trao tặng nhiều phần thưởng và được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kì đổi mới. Tỉnh Nam Định đã quyết định đầu tư trên 250 tỷ đồng xây dựng trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong thành trường chất lượng cao trọng điểm trên khuôn viên rộng 8ha với đầy đủ trang, thiết bị giáo dục hiện đại, đồng bộ, đủ năng lực hội nhập quốc tế đến năm 2020. Danh sách học sinh đạt giải quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]2019-2020
2014-2015:
2013-2014:
2012-2013:
2011-2012:
2010-2011:
2009 2010:
2008 2009:
2006 2007:
2005 2006:
2003 2004:
2002 2003:
2000 2001:
1999 2000:
1998 1999:
Có thể bạn quan tâm Trochidae là gì? Chi tiết về Trochidae mới nhất 2021 1997 1998:
1996 1997:
1994 1995:
1993 1994:
BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ THI HỌC SINH GIỎI CẤP QUỐC GIA
Cựu học sinh nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]Suốt chiều dài lịch sử của mình, trường Thành Chung mà nay là Lê Hồng Phong Nam Định đã đào tạo ra rất nhiều nhân tài cho đất nước.Một số đã đảm nhiệm những trọng trách của Đảng và Nhà nước, giữ những cương vị quan trọng như Tổng bí thư Đảng, chủ tịch HDNN, Ủy viên bộ Chính trị, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Cục trưởng, là sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang, nhiều người khác nữa hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, XH, khoa học, văn hóa, giáo dục một số đã trở thành những nhà giáo, nhà văn, nhà khoa học, những nhà họạt động XH, những nghệ sĩ nổi tiếng trong và ngoài nước. (Cách mạng Chính trị)
(Văn hóa)
(Giáo dục)
(Kinh tế xã hội)
Danh hiệu và phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]2012: Huân chương Độc lập hạng Nhất lần thứ 2 2010: Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ (V) 2009: Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ (IV) 2004:
2003: Cờ Đơn vị xuất sắc nhất ngành GD ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2002: Cờ Đơn vị xuất sắc nhất ngành GD ĐT của ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định 2001
2000
1999: Huân chương Độc lập hạng Nhì 1998: Cờ thi đua xuất sắc của tổng liên đoàn Lao động Việt Nam 1995: Huân chương Độc lập hạng Ba 1992, 1994: Cờ của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam 1993 1994: Huân chương Lao động hạng Nhất (lần 2) 1991 1992
1990 1991: Huân chương Lao động hạng Ba (giáo viên tổ Văn chuyên) 1982: Cờ luân lưu của Chính phủ (lần 3) 1981: Huân chương Lao động hạng Nhất (lần 1) 1977: Huân chương Lao động hạng Nhì 1976: Cờ luân lưu Đơn vị dẫn đầu thi đua toàn ngành Giáo dục của Chính phủ (lần 1) 1971: Huân chương Lao động hạng Ba 1955: Cờ thi đua khá nhất của UBHC Liên khu Ba. Trường đã nhiều lần được đón các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương về thăm trường. Tháng 7 năm 1987 Tháng 2 năm 1992 Tháng 2 năm 1998 Tháng 3 năm 1999 Tháng 9 năm 2001 Tháng 3 năm 2005 Tháng 9 năm 2005 Tháng 4 năm 2007 Tháng 9 năm 2009 Tháng 9 năm 2009 Tháng 9 năm 2010
Danh sách hiệu trưởng[sửa | sửa mã nguồn]Nguồn[4]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
Lấy từ https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Trường_Trung_học_phổ_thông_chuyên_Lê_Hồng_Phong,_Nam_Định&oldid=64668380
Thể loại:
Thể loại ẩn:
Từ khóa: Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định, Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định, Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định Scores: 4.9 (65 votes) Thank for your voting! |