Giật rung cơ có nguồn gốc vỏ não là gì năm 2024
Thuật ngữ Động kinh xuất phát từ tiếng Hy Lạp Epilambanein (bị giật, Bị đánh dồn dập). Lúc đầu người ta cho rằng cơn động kinh do bàn tay của mặt trăng gây ra. Ngay từ năm 1780 trước công nguyên, luật Hamurabi đã quy định người bị động kinh không được kết hôn hoặc làm chứng trước tòa và hợp đồng mua bán nô lệ sẽ mất hiệu lực nếu người nô lệ xuất hiện cơn động kinh trong ba tháng đầu sau khi mua bán. Vào khoảng 400 năm trước công nguyên, Hypocrate đã mô tả động kinh là một bệnh thực tổn ở não và cần phải điều trị bằng thuốc và chế độ ăn chứ không phải bằng pháp thuật. Năm 1770, một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên mang tính khoa học về động kinh đã được Tissot công bố. Tác giả nhận thấy để gây được cơn động kinh phải có hai yếu tố: bản thân não phải ở trạng thái dễ gây co giật và cần phải có nguyên nhân kích hoạt trạng thái này. Đến nửa đầu thế kỷ XIX, đã xuất hiện nhiều tiến bộ quan trọng trong nghiên cứu bản chất bệnh học và điều trị bệnh động kinh. Năm 1815, Esquyrol phân biệt động kinh thành những cơn nhẹ và cơn nặng, mà ngày nay chúng ta gọi là cơn nhỏ và cơn lớn. Vào nửa sau của thế kỷ XIX, công trình của John Hughlings và Jackson đã tạo ra một cuộc cách mạng về nhận thức đối với động kinh. Dựa trên nghiên cứu của các tác giả, một số quan điểm chưa rõ về bản chất động kinh đã được sáng tỏ, trước đây động kinh được xếp vào bệnh lý tâm thần thì giờ đây được thừa nhận hoàn toàn là bệnh thần kinh mặc dù 50 năm sau, điện não đồ mới ra đời nhưng ngay từ thời kỳ này, Jackson đã tiên đoán được bản chất của cơn động kinh là “… các hoạt động đột ngột, tạm thời, quá mức của các tế bào không ổn định thuộc một phần chất xám của não…”. 1.Dịch tễ học Động kinh là một bệnh mạn tính, không lây nhiễm phổ biến của hệ thần kinh trưng ương, biểu hiện trên lâm sàng bởi những cơn động kinh. “Là những cơn ngắn (thường dưới 5 phút), khởi phát đột ngột, có tính định hình, có xu hướng tái phát. Đây là biểu hiện của sự phóng điện đột ngột, quá mức, đồng bộ của một nhóm tế bào thần kinh ở vỏ não. Lâm sàng bao gồm các rối loạn về vận động, cảm giác, giác quan, tâm thần, thần kinh thực vật tùy thuộc vị trí não bị kích thích”. Theo ước tính của liên hội Quốc tế chống Động kinh (ILAE) năm 1996, có khoảng 50 triệu người trên thế giới mắc căn bệnh này và chủ yếu sống ở các nước đang phát triển, mỗi năm có 16 – 51/100.000 trường hợp phát hiện động kinh mới. Nếu không được điều trị, động kinh sẽ gây tàn phế và thường đưa đến tử vong sớm. Theo đánh giá của tổ chức y tế thế giới, động kinh chiếm 1% gánh nặng về kinh tế thế giới do các bệnh gây ra, tương tự như ung thư phổi ở đàn ông, hay ung thư vú ở phụ nữ. Tỷ lệ mắc động kinh ở Châu Mỹ La Tinh (10/1.000) cao hơn gấp hai lấn so với Bắc Mỹ và Châu Âu. Ở Hoa Kỳ, các nghiên cứu báo cáo có khoảng 2 triệu người mắc động kinh, 3% dân số Hoa Kỳ có triệu chứng động kinh trong cuộc đời của họ. Ở Châu Á tỷ lệ hiện mắc dao động giữa 4 – 10/1.000 người: như Trung Quốc là 7/1.000, ở Pakistan là 9,9/1.000, ở Việt Nam tỷ lệ này là 4,9 hoặc 7,5/1.000 người tùy từng vùng. Theo một nghiên cứu của Nguyễn Anh Tuấn và cộng sự năm 2008 tiến hành trên 50.000 dân tại Ba Vì, Hà Nội, tỷ lệ mắc động kinh ở Việt Nam khoảng 4,4/1.000 người . Tỷ lệ mới mắc động kinh hang năm từ 40 -70/100000 [12] ở các nước công nghiệp phát triển và 100 – 190/100000 các nước nghèo [13]. Những người nghèo có nguy cơ mắc động kinh cao hơn. Ở quần thể người bị đông kinh, tỷ lệ tử vong tăng từ 2 – 3 lần, đặc biệt là ở lứa tuổi trẻ . Nguyên nhân gây tử vong cỏ thể do bản thân bệnh gây động kinh, do cơn hay trạng thái động kinh, chết đột tử ở người bị động kinh (SUDEP), do các bệnh đi kèm bị nặng lên, hoặc do tự sát. Trong số các trường hợp tử vong liên quan tới động kinh có tới 40% tử vong do trạng thái động kinh gây ra [12]. 2. Một số khái niệm Ngày nay, bệnh Động kinh đã được định nghĩa một cách hoàn chỉnh. Theo Hiệp Hội Chống Động Kinh Quốc Tế (ILAE): Cơn động kinh là sự rối loạn kịch phát các chức năng thần kinh trung ương do sự phóng điện đột ngột, ngắn, quá mức đồng thời của các tế bào thần kinh. Cơn động kinh được thể hiện bằng các triệu chứng lâm sàng xuất hiện đột ngột, ngắn và định hình về vận động, cảm giác, giác quan, thực vật hoặc tâm thần tùy thuộc vào vị trí của tế bào thần kinh có liên quan. Định nghĩa này loại trừ các cơn có biểu hiện thần kinh nhưng không phải do não như cơn rối loạn phân ly, cơn Tetani, cơn ngất, cơn nhức đầu kiểu đau nửa đầu. Động kinh là sự tái diễn từ hai cơn động kinh trở lên cách nhau trên 24 giờ, không phải do sốt cao và các nguyên nhân cấp tính khác như rối loạn chuyển hóa, ngừng thuốc hay ngừng rượu đột ngột gây nên. Trạng thái động kinh là sự lặp lại của các cơn động kinh với khoảng cách giữa các cơn ngắn, ở giai đoạn giữa các cơn động kinh có biến đổi ý thức và/hoặc có các dấu hiệu thần kinh nói lên có tổn thương tế bào thần kinh ở vỏ não do các phóng điện trong cơn động kinh gây ra. Các cơn không phải động kinh: các biểu hiện lâm sàng không liên quan đến hiện tượng phóng điện của một nhóm neuron vỏ não. Các cơn này bao gồm rối loạn chức năng não như chóng mặt, ngất, động tác bất thường, các cơn tự động xảy ra ban đêm liên quan đến rối loạn giấc ngủ, quên toàn bộ thoảng qua, đau nửa đầu (migraine), đái dầm, các ơn rối loạn hành vi đột ngột do căn nguyên tâm thần. II. NGUYÊN NHÂN Hầu hết các trường hợp mắc động kinh đều là không rõ nguyên nhân (động kinh căn nguyên ẩn). Tuy nhiên một tỷ lệ khác có thể do những yếu tố sau: 1. Yếu tố di truyền: liên quan đến đột biến gen hoặc nhiễm sắc thể, chiếm khoảng 2 – 3% tổng số người bệnh động kinh. 2. Tổn thương não bộ như:
Chấn thương sọ não là nguyên nhân quan trọng gây cơn động kinh. Khoảng một phần ba số người bị chấn thương sọ não có cơn động kinh sau chấn thương. Sự xuất hiện của cơn động kinh sau chấn thương sọ não phụ thuộc vào mức độ trầm trọng của chấn thương và vị trí não bị tổn thương. Các tổn thương thùy trán và vùng trung tâm hay gây động kinh nhất, ngoài ra thùy thái dương là phẫn não nằm cạnh phần sắc của cánh nhỏ xương bướm cũng dễ bị đụng giập trong chấn thương nên động kinh thái dương hay gặp sau chấn thương sọ não.
Phẫu thuật não có thể được coi là một yếu tố nguy cơ gây các cơn co giật. Tỷ lệ mới mắc tích lũy của động kinh sau phẫu thuật 5 năm là 17%, nguy cơ bị động kinh sau phẫu thuật ở người già cao hơn ở những bệnh nhân trẻ tuổi.
Các bệnh lý nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể gây ra các cơn động kinh hoặc dẫn tới động kinh sau này. Tỷ lệ mới mắc động kinh trong nhóm người bị viêm não hoặc viêm màng não tăng hơn so với nhóm người bình thường gần 7 lần.
Các cơn co giật do sốt cao đơn thuần là những cơn giật xuất hiện khi sốt rất cao (39º – 40º), thường xảy ra ở những trẻ khỏe mạnh dưới 5 tuổi. Tiên lượng các cơn co giật loại này thường lành tính, cần cắt cơn tích cực. Nếu để tái phát nhiều lần hoặc cơn kéo dài có thể dẫn đến các tổn thương não vĩnh viễn và gây động kinh về sau.
Tai biến mạch máu não là nguyên nhân gây động kinh phổ biến ở người già, các cơn động kinh xảy ra thường hay gặp trong giá trình hình thành khối máu tụ hơn là trong tai biến thiếu máu não cục bộ. Hình ảnh: Nhồi máu não (Lâm sàng: Động kinh cục bộ) 3. Nhiễm độc và rối loạn chuyển hóa
Do sử dụng rượu, ma túy gây ngộ độc thần kinh; sử dụng một số loại thuốc gây ảnh hưởng tới não như các thuốc hướng tâm thần (thuốc an thần, thuốc chống trầm cảm), nhiễm độc các kim loại nặng như chì, mangan hoặc phosphor hữu cơ.
Tăng hoặc hạ đường máu, hạ natri máu, hạ calci máu, tăng urê máu. III. PHÂN LOẠI Năm 1981 Liên đoàn chống động kinh quốc tế (ILAE) đã đưa ra bảng phân loại động kinh dựa trên tiêu chuẩn lâm sàng – điện não và cách phân loại này được sử dụng rộng rãi cho đến nay. Bảng 3.1. Phân loại quốc tế các cơn động kinh 1981 1. Cơn toàn thể
– Cơn vắng ý thức điển hình – Cơn vắng ý thức không điển hình
2. Cơn cục bộ
– Kèm triệu chứng vận động – Kèm triệu chứng cảm giác bản thể hoặc giác quan – Kèm triệu chứng thực vật – Kèm triệu chứng tâm thần
– Khởi đầu bằng cơn cục bộ đơn giản, tiếp theo rối loạn ý thức hoặc động tác tự động – Rối loạn ý thức ngay từ lúc đầu khởi cơn, có hoặc không kèm theo động tác tự động
– Cơn cục bộ đơn giản toàn thể hóa thứ phát – Cơn cục bộ phức tạp toàn thể hóa thứ phát – Cơn cục bộ đơn giản tiến triển cục bộ phức tạp rồi toàn thể hóa thứ phát 3. Các cơn chưa phân loại được IV. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG Hầu hết mọi người nghĩ rằng triệu chứng động kinh là các cơn co cứng, co giật. Tuy nhiên trên thực tế, bệnh động kinh còn biểu hiện với rất nhiều triệu chứng khác tùy thuộc vào vùng não bộ bị ảnh hưởng. 1. Động kinh cục bộ Các cơn động kinh cục bộ có đặc điểm là xuất phát từ một vùng nhất định của một bán cầu não. Do vậy, các triệu chứng lâm sàng sẽ tùy thuộc vào việc ổ động kinh nằm ở vùng chức năng nào của não, nhiều trường hợp cùng một triệu chứng lâm sàng nhưng ổ gây động kinh có thể khác nhau. 1.1. Động kinh cục bộ đơn giản
1.2. Động kinh cục bộ phức tạp Trong cơn người bệnh có thể thực hiển rất nhiều hành vi trong vô thức mà không hề nhớ những gì đã xảy ra.
2. Động kinh toàn thể Động kinh toàn thể xảy ra khi sự phóng điện lan tỏa trên cả hai bán cầu liên quan đến tổn thương kích thích trên toàn bộ vỏ não. Biểu hiện cơn lâm sàng không liên quan đến bất kỳ khu vực giải phẫu chức năng nào tại vỏ não. Những biểu hiện vận động nếu có là cả hai bên và đối xứng. Người bệnh thường bị mất ý thức ngay từ đầu và không nhớ những gì đã xảy ra trước đó. 2.1. Cơn vắng ý thức: biểu hiện trước tiên là ý thức bị mất hoặc giảm trong cơn, cơn thường ngắn.
2.2. Cơn giật cơ: biểu hiện bởi các cơn giật cơ chớp nhoáng nhanh hai bên, đối xứng, vị trí và cường độ thay đổi.
2.3. Cơn co giật
2.4. Cơn co cứng: đặc trưng bởi sự co kéo cơ liên tục, không rung cơ.
2.5. Cơn mất trương lực
2.6. Cơn co cứng co giật: cơn khởi phát không có tiền triệu, gồm ba giai đoạn:
1. Các xét nghiệm hỗ trợ chẩn đoán động kinh Các xét nghiệm bổ trợ cận lâm sàng hay được sử dụng trong lĩnh vực động kinh là điện não đồ, chẩn đoán hình ảnh học và các trắc nghiệm tâm lý thần kinh.
2. Phân biệt các cơn giả động kinh
Dấu hiệu báo trước thường là choáng váng. Mất ý thức trong thời gian ngắn. Có vài động tác co giật ngắn và ít hoặc không có tình trạng lú lẫn sau cơn. Rối loạn trí nhớ Quên đơn giản. Mất trí nhớ tiến triển hoặc liên tục, không có sự thay đổi bất thường. Cơn thiếu máu não thoảng qua (TIA) Liệt nhẹ nửa người hoặc mất cảm giác nửa người thoáng qua. Có thể có thất ngôn. Kéo dài từ vài phút đến vài giờ. Quên toàn bộ thoáng qua. Trí nhớ ghi chép còn nguyên vẹn. Quên ngược và thuận chiều. Vẫn có khả năng đáp ứng và tiến hành các hoạt động phức tạp. Nhắc lại các câu hỏi. Kéo dài hàng giờ. Các bệnh não do chuyển hóa Thay đổi ý thức lú lẫn, ngủ rũ, hôn mê. Diễn biến có thế thay đổi. Giật cơ nhiều vùng. Có thể có cơn động kinh. Các xét nghiệm có bất thường do rối loạn chuyển hóa. Có thể có các sóng 3 pha điển hình trên điện não đồ. Tiền triệu có thể là cảm giác đầy thượng vị. Mất ý thức kéo dài 1-2 phút và co giật toàn thân. Cắn vào lưỡi. Có tình trạng lú lẫn sau cơn. Mất trí nhớ thay đổi bất thường. Kéo dài trong một thời gian nhất định, định hình, có thể không nhận biết được sự việc xảy ra. Hiếm gặp liệt nửa người hoặc mất cảm giác nửa người. Động kinh thất ngôn đã được mô tả. Có thể cần điện não đồ hoặc theo dõi bằng điện não – video để phân biệt với TIA. Động kinh cục bộ phức tạp: kéo dài trung bình 1-2 phút, có các động tác tự động, thay đổi tri giác, có tình trạng lú lẫn sau cơn và không làm được các hoạt động phức tạp. Có phóng lực kiểu động kinh trên điện não. Trạng thái động kinh không co giật có thể có biểu hiện lâm sàng tương tự. Diễn biến thay đổi của ý thức có thể rõ rang hơn. Gặp trong các bệnh lý hệ thống, khi cai thuốc hướng thần hoặc benzodiazepine. Có các hoạt động lan tỏa kiểu động kinh trên điện não. Cải thiện rõ khi dùng thuốc kháng động kinh như benzodiazepin. VI. ĐIỀU TRỊ ĐỘNG KINH 1. Nguyên tắc điều trị:
2. Điều trị động kinh bằng thuốc
(CBZ, Timonil, Tegretol CR) 8-19h TE 5-6h NL TE: 10-30mg/kg NL: 10-12mg/kg (1-2 lần) 3-12 mg/l => 13-50 µmol/l ĐK cục bộ đơn giản hoặc phức tạp Phenytoin (PHT, Epanutin, Epilantin, Phenydan) 12-22h TE 8-60h NL TE: 5-7mg/kg NL: 3-5mg/kg (3 lần) 5-20 mg/l => 20-40 µmol/l ĐK cục bộ và toàn thể của bất kỳ hội chứng nào Phenobarbital (PB, Luminal, Mallasin) 21-80h TE 46-10h NL TE: 4 mg/kg NL: 3mg/kg (1-2 lần) 10-40 mg/l => 45-170 µmol/l ĐK toàn thể ĐK cục bộ Valproat (VPA, Onvulex, Depakin) 20-50h TE 8-16h NL TE: 30mg/kg NL: 20mg/kg (1-2 lần) 30-120 mg/l => 188-700 µmol/l ĐK toàn thể ĐK cục bộ Ethoxucimid (ESM, Suxinutin) 30h TE 50-60h NL TE: 30mg/kg NL: 20mg/kg 40-100 mg/l => 280-700 µmol/l ĐK cơn vắng Ghi chú: NL: người lớn; TE: trẻ em, ĐK: động kinh Bảng 6.1. Đặc trưng dược lý các thuốc kháng động kinh cổ điển Tên thuốc Thời gian bán hủy (giờ) Liều dùng Nồng độ huyết thanh Chỉ định Lamotigin (Lamictal) 29 TE: 2-15mg/kg 1-5mg/kg NL: 100-200mg (chia 2 lần) Không hữu ích Cơn toàn thể, cơn cục bộ Vigabatrin (Sabril) 4-7 TE: 40mg/kg NL: 1-3 mg/ngày (chia 2 lần) Không hữu ích ĐK cục bộ và triệu chứng Gabapentin (Neurontin) 5-9 NL: 900-3600mg/ngày (3 lần) Không hữu ích ĐK cucuj bộ và toàn thể Oxcarbazepin (Trilaptal) 8-13 TE: 6mg/kg/ngày NL: bắt đầu: 25-50mg; sau đó 200-400mg/ngày (1-2 lần) 13-24 µmol/l Không dung nạp với Caramazepin ĐK cục bộ và toàn thể Topiramat (Topamax) 18-23 TE: 6mg/kg/ngày NL: bắt đầu 25-50mg, sau đó 200-400mg/ngày (1-2 lần) Không hữu ích ĐK kháng thuốc người lớn cơn cục bộ Levitiracetam (Keppra) 3-6 1000-3000mg/ngày Không hữu ích Tất cả các loại ĐK Tiagabin (Gabitril) 7-9 15-50 mg/kg (chia 3 lần) Chưa có thông tin ĐK kháng thuốc người lớn. Cơn cục bộ và cơn toàn thể Ghi chú: NL: người lớn; TE: trẻ em; ĐK: động kinh Bảng 6.2. Đặc trưng dược lý các thuốc kháng động kinh thế hệ mới 3. Điều trị động kinh bằng chế độ ăn Chế độ ăn nghiêm ngặt gồm nhiều mỡ, ít hydrat carbon và ít protein tạo ra một tình trạng tăng ceton có tính chất kháng động kinh. Tuy nhiên chỉ định này rất hạn chế do có nhiều tác dụng không mong muốn ở một số thể động kinh nặng hoặc động kinh kháng thuốc ở trẻ nhỏ. 4. Điều trị động kinh bằng phẫu thuật
VII. ĐIỀU TRỊ TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH 1. Định nghĩa Trạng thái động kinh là tình trạng một cơn co giật kéo dài liên tục (hơn 5 – 10 phút), hoặc cơn co giật tái phát rất nhanh không có giai đoạn phục hồi ở giữa các cơn. Trạng thái động kinh được phân theo loại co giật (cơn co giật toàn thể so với cơn co giật cục bộ hoặc đơn giản hoặc phức tạp) và theo biểu hiện (tăng trương lực – giật cơ so với cơn co giật vận động cục bộ so với cơn co giật không có biểu hiện co giật). Tất cả các cơn động kinh có thể tạo ra một trạng thái động kinh. Ở những người bị động kinh từ trước, nguyên nhân gây trạng thái động kinh hay gặp nhất là do bỏ đột ngột (hoàn toàn hoặc tương đối) các thuốc kháng động kinh. Tỷ lệ tử vong ở người lớn có trạng thái động kinh khoảng 20%. Tuy nhiên tỷ lệ này rất thay đổi tùy thuộc vào nguyên nhân gây trạng thái động kinh cũng như bệnh nền. Tử vong ở nhóm có trạng thái động kinh trong bệnh lý cấp tính cao hơn 6 lần ở nhóm động kinh mạn tính. Tỷ lệ này cũng thấp hơn ở các bệnh nhân đã từng có trạng thái động kinh. Do nhiều nguyên nhân khác nhau: do stress chuyển hóa, do co giật cơ, tiêu cơ vân, toan lactic, viêm phổi do hít, phù phổi thần kinh. 2. Thái độ xử trí Trạng thái động kinh mang một nguy cơ cao của tử vong và tàn phế. Nó là một cấp cứu nội khoa và các cơn giật phải được điều trị với mức độ cấp cứu cao nhất. Nếu trạng thái động kinh bị để tiếp diễn trong một thời gian khoảng 2 giờ sẽ có nguy cơ rất lớn của tổn thương não liên quan đến cơn co giật. Cơn co giật càng kéo dài thì nguy cơ tồn thương não càng lớn. 2.1.Nguyên tắc chung:
2.2. Ổn định người bệnh theo nguyên tắc A-B-C
2.3. Xử trí cắt cơn giật
Lựa chọn thuốc: các đặc trưng dược lý chính của các thuốc được sử dụng ở Pháp để điều trị trạng thái động kinh được trình bày trong bảng dưới đây: Các thuốc Liều dùng Tốc độ dùng Bắt đầu tác dụng Thời gian tác dụng Điều trị duy trì Diazepam (Valium) 10 – 20 mg (NL) TM: 0,2-0,5mg/kg (TE) HM: 0,3-0,5mg/kg (TE) 2-5mg/phút Sau 1-3 phút Trong 15 phút Không có chỉ đinh Clonazepam (Rivotril) 1 – 2 mg (NL) TM: 0,02-0,05 mg/kg(TE) HM: 0,01mg/kg (TE) 0,2-0,5mg/phút Sau 1-3 phút Trong 15 phút Không có chỉ định Phenytoin (Dilantin) 20 mg/kg (NL) 15 mg/kg (TE) 50 mg/phút Sau 15-30 phút Trong 12-24 giờ 5-10mg/kg/24h TM sau 12 giờ (NL) 2,5-5mg/kg/24h TM sau 12 giờ (TE) Fosphenytoin (Prodilantin) 20 mg/kg (NL) 15 mg/kg (TE) 150 mg/phút Sau 15-30 phút Từ 12-24 giờ 5-10mg/kg/24h TM hoặc TB sau 12 giờ (NL) 2,5-5mg/kg/24h TM hoặc TB sau 12 giờ (TE) Phenobarbital (Gardenal) 20 mg/kg 100 mg/phút Sau 15-30 phút Trong 6-12 giờ 5mg/kg/giờ Midazolam (Hypnovel) 0,2 mg/kg 1 phút Sau 1 phút Từ 15-240 phút 1-10µg/kg/phút Propofol (Diprivan) 1 – 2 mg/kg 20 giây Sau 1 phút Từ 5-10 phút 2-10mg/kg/giờ Thiopental (Nesdonal) 3 – 5 mg/kg sau đó 10 mg/phút Truyền nhanh Sau 1-3 phút Tác dụng ngắn khi truyền nhanh, sau đó tùy theo thời gian duy trì Truyền duy trì sau khi dùng bolus: 1-5mg/kg/h (NL) 1-3mg/kg/h (TE) Chú thích: NL: người lớn; TE: trẻ em; TM: tiêm tĩnh mạch; HM: đặt hậu môn; TB: tiêm bắp. Bảng 2.3.1. Các đặc trưng dược lý chính của các thuốc được sử dụng điều trị trạng thái động kinh ở Pháp (theo Outin và cs, 2002)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
|