Giới thiệu về món bánh trôi nước

Cứ vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hằng năm, mọi người lại làm bánh trôi, bánh chay. Đây là một phong tục cổ truyền rất quen thuộc với mọi người dân Việt Nam.

Nguyên liệu để nấu bánh rất thông dụng, quen thuộc. Trước tiên, chúng ta phải có gạo nếp ngon. Có thể trộn thêm gạo tẻ nhưng gạo nếp vẫn phải chiếm đa số. Có gạo làm vỏ bánh, cần có thêm đường làm nhân để tạo vị ngọt cho bánh. Nhân bánh truyền thống là bằng mật có vị thơm đậm đà. Ngày nay, nhiều gia đình dùng đường phèn có vị thơm mát. Để làm nhân bánh chay, chúng ta cần đậu xanh xay nhuyễn. Ngoài ra, cần một ít vừng, cùi dừa để rắc lên hai loại bánh.

Cách làm bánh khá đơn giản. Đầu tiên là ngâm gạo khoảng 6 đến 8 tiếng sau đó vo gạo. Vo xong, đổ gạo ra xay nước. Chú ý là không được xay khô vì như thế sẽ làm vụn gạo và các hạt sau khi xay sẽ to nhỏ không đều nhau. Xay xong đổ tất cả bột vào túi vải, buộc chặt, lấy tay nén từ từ, nhẹ nhàng để vắt nước ra. Tránh ấn mạnh tay sẽ làm bung túi vải. Nén hết nước, ta sẽ có một thứ bột dẻo để làm vỏ bánh.

Tiếp theo sẽ là bước nặn bánh. Bánh trôi được nặn tròn, to vừa phải. Cho một viên đường vào trong, nặn bột bao kín để khi luộc, đường không chảy ra. Nhân bánh chay là đậu xanh được đãi sạch vỏ, đồ chín, xay nhuyễn. Bánh và nhân phải theo một tỉ lệ hợp lí. Không nên để bánh hay nhân quá to hoặc quá nhỏ sẽ làm mất ngon khi ăn.

Tinh tế nhất là luộc bánh. Đun sôi nước rồi mới thả bánh vào. Đợi đến lúc bánh nổi lên trên mặt nước, nhẹ nhàng vớt lấy rồi thả ngay vào nước sạch và lạnh. Nếu để nóng quá lâu bánh sẽ bị chảy, không dẻo và ngon.

Thưởng thức bánh trôi, bánh chay là cả một nghệ thuật. Bánh trôi được bày vào đĩa, rắc lên trên một lớp vừng mỏng và một chút sợi cùi dừa. Bánh chay được bày trong bát. Đun nước đường pha với bột sắn rồi chan ngập mặt bánh. Ở trên rắc một ít hạt đậu xanh chín xay vỡ đôi đã đãi sạch vỏ. Màu trong của bánh, của nước dùng hài hòa với màu vàng tươi của hạt đậu xanh trông thật đẹp mắt. Đây đều là hai loại bánh ăn nguội. Bánh trôi cho vào miệng, ngậm lại rồi cắn sẽ cảm nhận được vị ngậy của gạo, vị ngọt của đường. Còn bánh chay, dùng thìa xúc miếng bánh, cắn nhẹ sẽ thấy vị ngọt mát, thơm dẻo. Với cả hai loại bánh, nếu thích, có thể cho thêm chút tinh dầu hoa bưởi.

Bây giờ, người ta không tự làm bánh nhiều như trước mà phần lớn đều đi mua khi cần. Nhưng phải tự tay mình nấu rồi thưởng thức mới cảm nhận hết cái ngon của bánh. Bánh trôi, bánh chay sẽ mãi là hai món ăn truyền thống đặc sắc của người Việt Nam.

Bánh trôi nước là món bánh cổ truyền của người dân Việt Nam, là thức quà có ý nghĩa đặc biệt thường được sử dụng trong dịp lễ lạt, cúng kiếng. Vào dịp Tết Hàn thực, bánh trôi nước là món chủ đạo, đặc trưng. Mỗi năm cứ đến dịp lễ này, nhà nhà, người người lại đổ xô đi mua bánh trôi, bánh chay về thờ cúng.

Bánh trôi nước được làm từ bột gạo, có vỏ bên ngoài trắng ngần và nhân ngọt bên trong. Khác với chè trôi nước miền Nam, bánh trôi nước miền Bắc có kích thước nhỏ, thường được ăn cùng với nước và có nhân đường phèn. Những miếng bánh trắng ngà, dẻo mịn và thơm mùi nếp cùng vị béo ngậy của tinh dầu chuối.

Theo tài liệu từ quyển Ẩm thực Việt Nam và Thế giới của tiến sĩ Nguyễn Diệu Thảo, món ăn bánh trôi nước trong Tết Hàn thực được lấy cảm hứng từ tích Con Rồng Cháu Tiên của dân tộc Việt Nam. Truyền thuyết kể rằng, vua rồng xứ Lạc Việt là Lạc Long Quân đã kết duyên cùng Âu Cơ là tiên, sinh được bọc trăm trứng chứa trăm người con. Những người con này được cho là hậu duệ của người Việt Nam bây giờ, nên mới có từ gọi “đồng bào”, ý chỉ sự gắn kết của mỗi con người Việt Nam. Những chiếc bánh trôi nước chính là biểu hiện cho truyền thống đáng quý ấy.

Trong tiết trời Hà Nội lành lành như ngày hôm nay, tôi xin được phép giới thiệu đến các bạn cách làm món bánh trôi nước, kéo mọi người xích lại gần nhau hơn.

Trước tiên, chúng ta cần chuẩn bị nguyên liệu:

  • Gạo nếp thơm: 400 gr
  • Đậu xanh xát vỏ: 200 gr
  • Đường hoa mai hoặc đường thốt nốt: 300 gr
  • Hành tím băm: 2 muỗng cà phê.
  • Gừng: 100 gr
  • Dầu ăn: 4 muỗng.
  • Vừng rang chín
  • Muối sạch: 2 muỗng
  • Đường cát trắng 2 muỗng
  • Hành tím phi thơm 100 gr.

Cách làm bánh trôi nước:

Phần 1: Chế biến nước đường

Bước 1: Gừng cạo vỏ, rửa sạch, cắt nhỏ. Sau đó thì được đập dập.

Bước 2: Đặt 500ml nước sạch cùng đường và gừng lên bếp đun sôi. Khi đun bạn nên để lửa nhỏ, dùng muỗng khuấy nhẹ để đường tan hết. Sau đó cho thêm vào nồi 1 thìa cà phê muối. Cuối cùng vặn to lửa để nồi nước nhanh sôi.

Bước 3: Khi nồi nước đã sôi bạn vặn nhỏ lửa. Đợi thêm khoảng 10 phút thì bắc xuống. Lúc này nước đã dậy lên mùi thơm ấm của gừng còn đường thì đã sệt lại.

Phần 2: Làm nhân bánh

Bước 1: Đậu xanh cần được rửa nhiều lần để sạch bụi bẩn (đến khi nước trong là được). Sau đó bạn ngâm đậu xanh với 500ml trong một cái bát lớn trong khoảng 30 phút.

Bước 2: Đậu xanh sau khi ngâm được cho vào nồi cơm điện để nấu chính. Bạn nên đổ nước xâm xấp mặt đậu để đậu chín vừa tới.

Bước 3: Khi đậu đã chín, bạn dùng muỗng lấy toàn bộ đậu ra một bát lớn. Lúc đậu còn nóng thì bạn nhanh tay tán nhuyễn sao cho sau khi tán đậu nhìn mềm, mịn là được.

Bước 4: Tiếp tục cho thêm 100gr đường cát trắng cùng 100gr hành tím phi vàng vào rồi trộn đều tay.

Bước 5: Cuối cùng bạn dùng muỗng múc từng phần đậu và nặn thành những viên tròn vừa phải cho đến khi hết lượng đậu trong bát (khoảng 8 viên).

Phần 3: Làm phần vỏ bánh

Bước 1: Cho 300ml nước sôi cùng 4 muỗng canh dầu ăn vào 350gr bột nếp thơm. Vừa đổ bạn vừa dùng tay đảo đều để không bị vón cục. Lưu ý, khi làm hỗn hợp cần được đổ từ từ và khuấy đều tay để bột có thể ngấm đủ nước. Khuấy đến khi hỗn hợp bột rất dính và ướt thì dừng tay và đậy kín chúng từ 15 tới 30 phút để bột nghỉ. Việc này giúp bột ngấm nước rồi nở ra từ từ. Lượng nước cũng ít hơn khi nhào.

Bước 2: Lót một lớp bột áo lên bàn, sau đó chuyển bột đã nhào ra khỏi tô. Bạn dùng tay để nhào số bột thành một thanh dài chừng 20cm. Lưu ý, cả thanh bột đều phải dính một lớp bột áo bên ngoài. Sau đó bạn chia thanh bột thành 8 phần bằng nhau.

Bước 3: Với mỗi phần bột bạn nặn tròn rồi ấn dẹt chúng xuống sao cho to gấp 2 lần viên đậu xanh đã nặn ở phần 2.

Bước 4: Sau khi cán dẹt, bạn cẩn thận đặt viên đậu xanh vào giữa và bọc kín lại. Phải làm sao cho lớp vỏ bánh và nhân đậu xanh dính sát nhau, không có chỗ cho không khí. Lớp vỏ bánh cũng bao trọn viên đậu bên trong. Làm như này thì khi nấu bánh sẽ không bị vỡ.

Bước 5: Dùng hai bàn tay xoa nhẹ để bánh có được hình tròn xinh và bột thì mịn. Khi xoa bạn nên làm nhẹ tay để nhân không bị lòi ra ngoài nhé!

Bước 6: Trước khi đặt chúng lên đĩa, bạn lót một lớp màng bọc thực phẩm để chúng không dính vào đĩa. Đồng thời các viên bánh cần được để cách nhau 1 khoảng để chúng không dính vào nhau.

Bước 7: Đun 500ml nước đến khi sôi thì thả nhẹ nhàng từng viên bánh vào. Sau khi thả, bạn dùng muỗng nhẹ nhàng khuấy đều để các viên bánh không dính vào nhau. Khi thấy bánh nổi lên trên mặt nước thì vớt ra (khoảng 2-3 phút).

Bước 8: Sau khi vớt bánh ra bạn cần cho ngay vào tô nước lạnh sạch. Chừng 1 – 2 phút thì vớt ra để ráo nước rồi thả vào bát nước đường đã đun sôi. Cuối cùng chỉ cần rắc thêm một chút vừng rang thơm là có thể dùng được.

Yêu cầu thành phẩm:

– Mỗi viên bánh đều nhau, trắng, bột mịn, nhân không bị vỡ. Vỏ bánh khi ăn có độ mềm dai vừa miệng. Đường trong nhân bánh phải tan hết để khi ăn có cảm giác mật chảy tràn trong miệng. Nhân bánh trôi chay phải thơm mùi đỗ xanh đã đồ chín. Đặt bánh trôi ra đĩa và chấm chút vừng lên từng viên bánh.

– Nước để ăn cùng bánh trôi chay phải có độ sánh của bột sắn, ngọt thanh của đường phèn, hương thơm thoang thoảng của hoa bưởi và vị ấm nồng của gừng.

Lưu ý giúp cho món bánh trôi được ngon:

– Bột làm bánh trôi ngon nhất là khi bạn dùng gạo nếp thơm ngâm kỹ đến khi gạo nở. Sau đó xóc với ít muối rồi đem đi xay mịn.

– Muốn nhân đỗ xanh thơm, mềm thì nên chọn loại đỗ tiêu, hạt bé.

– Khi nhào bột, ngoài việc bạn đổ nước từ từ thì cần nhào đều tay để bột không bị ướt. Nhào xong, dùng màng bọc thực phẩm bọc viên bột lại để không bị khô.

– Bột cần được vo khít, không có lỗ hổng không khí để khi đun bánh không bị vỡ.

Về cách luộc bánh

– Khi nước sôi, bạn chuyển lửa về mức trung bình, sau đó nhẹ nhàng thả từng viên bánh vào nồi.

– Bánh cần được luộc đều ở mức lửa trung bình. Nếu bạn luộc với lửa quá to thì sẽ khiến vỏ bánh chín còn nhân bánh thì sống.

– Khi bánh nổi lên bạn không nên vớt ra ngay mà dùng đũa khuấy nhẹ nhàng thêm 30s nữa cho bánh chín đều.

– Muốn bánh không bị dính vào nhau thì khi vớt ra cho ngay vào tô nước đá lạnh từ 5 tới 10 phút. Việc này giúp bánh săn lại và không bị dính vào nhau.

Đọc bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương, ta thấy quả không sai khi người đời mệnh danh bà là Bà chúa thơ Nôm. Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, vẻn vẹn hai bốn chữ mà cuộc đời, bóng dáng một con người cứ hiện lên, lung linh, lung linh... Đẹp đẽ, trong sáng và mãnh liệt, phải chăng đó là hiện thân nữ sĩ Hồ Xuân Hương?

Vịnh vật, đa nghĩa, đó là một đặc điểm nổi bật của thơ Hồ Xuân Hương, vì thế tiếp cận Bánh trôi nước, tìm hiểu bài thơ ở tầng nghĩa thứ hai để thấy được ý đồ nhà thơ gửi gắm trong tác phẩm. Từ bánh trôi nước, một món ăn dân giã, truyền thống của người Việt, để thể hiện một nội dung tương đồng, mang nghĩa ẩn dụ- hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến, nhưng lại có tính cá biệt, đủ thấy tài năng của Hồ Xuân Hương đến mức nào!

Bài thơ nôm với hình thức nghệ thuật đặc sắc qua cách thể hiện kết cấu đầu cuối tương ứng đã làm nên vẻ đẹp bài thơ. Mở đầu bài thơ là vẻ đẹp hình thức: Thân em vừa trắng lại vừa tròn, kết thúc bài thơ là vẻ đẹp phẩm giá: Em vẫn giữ tấm lòng son, trọn vẹn và hoàn hảo!

Bài thơ hiểu theo nghĩa ẩn dụ, mượn hình ảnh bánh trôi để nói về hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến, nhưng có phải người phụ nữ nói chung hay mang tính cá biệt?

Một hình tượng nghệ thuật có sức sống khi nó mang tính khái quát, điển hình cho những hình mẫu phổ biến nhất định trong xã hội. Nhưng với bài thơ này lại đặc biệt hơn, bởi nhân vật trữ tình sống trong xã hội này mà lại đang cố vượt ra nơi khác bằng một sức sống tiềm tàng, như thể cái xã hội ấy không trói buộc nổi một tâm hồn với khát khao sống mãnh liệt để gìn giữ, vươn tới cái đẹp. Bản lĩnh ấy, trong xã hội phong kiến với những luật lệ khắt khe, liệu ai có được như thế? Phải chăng điều đó đã làm cho bài thơ trong cổ điển đã thể hiện tính hiện đại, đưa lại giá trị cách tân cho một thời kỳ văn học?

Khám phá bài thơ trong hình thức kết cấu của nó, mở đầu là niềm tự hào khi giới thiệu vẻ đẹp hình thể:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Ca dao, khi nói về người phụ nữ, đã dùng cụm từ thân em rất quen thuộc, vì thế khi tìm hiểu bài thơ, hầu như bạn đọc đều liên tưởng sự vận dụng của Hồ Xuân Hương trong việc sử dụng cụm từ này. Với cách nhìn nhận cụm từ thân em như thế, nên sách giáo khoa đã có bài tập luyện tập: Hãy ghi lại những câu hát than thân đã học ở Bài 4 (kể cả phần Đọc thêm) bắt đầu bằng hai từ “Thân em”. Từ đó, tìm mối liên quan trong cảm xúc giữa bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương với các câu hát than thân thuộc ca dao, dân ca (Sách Ngữ văn 7- tập 1). Điều đó hoàn toàn dễ hiểu khi người tiếp nhận đã coi hình ảnh người phụ nữ trong bài thơ mang bi kịch thân phận. Qua nghệ thuật ẩn dụ tài tình trong phạm vi một bài thơ tứ tuyệt cô đọng, hàm súc, học sinh hiểu được thân phận chìm nổi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ( SáchThiết kế dạy học Ngữ văn 7 theo hướng tích hợp- Nhà xuất bản Giáo dục của tác giả Trương Dĩnh ). Hay Hồ Xuân Hương đã thể hiện thái độ vừa trân trọng đối với vẻ xinh đẹp, phẩm chất trong trắng, son sắt, thủy chung, vừa cảm thương cho thân phận chìm nổi, bấp bênh, bị lệ thuộc vào xã hội của người phụ nữa xưa (Sách giáo viên Ngữ văn 7- tập 1).

Ở góc nhìn khác, tiếp nhận, khám phá bài thơ theo hướng vừa mang tính kế thừa: Hồ Xuân Hương đã thể hiện thái độ vừa trân trọng đối với vẻ xinh đẹp, phẩm chất trong trắng, son sắt, thủy chung, đồng thời đưa ra một cách lí giải mới, đó là hình ảnh người phụ nữ trong bài thơ không mang tính bi kịch, mà tác giả lấy bi kịch để minh chứng cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ trong việc bảo vệ phẩm giá. Trong ca dao, dù thân em chịu như trái bần trôi hay được như tấm lụa đào đi chăng nữa thì cũng là biết tấp vào đâu hay biết vào tay ai, luôn nằm trong sự định đoạt số phận, không làm chủ nổi bản thân. Còn thân em trong bài thơ Bánh trôi nước có chấp nhận một bề hay đang vùng vẫy?

Với cách hiểu cụm từ thân em theo kiểu than thân như ca dao, coi vấn đề đặt ra trong tác phẩm mang tính bi kịch, thì như thế bài thơ đã được tìm hiểu theo mạch tự sự bởi người tiếp nhận đã theo trật tự thứ tự các câu thơ bằng cách giới thiệu vẻ đẹp hình thức, nói đến bi kịch cuộc đời, và tiếp đến là vẻ đẹp phẩm giá của em như một sự liệt kê. Chỉ bốn câu thơ thôi mà xem ra sắp xếp “lộn xộn”, không rành mạch theo chủ đề, cách biểu ý thiếu tính liên kết? Như thế bài thơ đâu còn vẻ đẹp hình thức, đâu còn cá tính sáng tạo của Hồ Xuân Hương! Vì thế, theo hướng tiếp nhận mới, tìm hiểu bài thơ theo mạch cảm xúc trữ tình trong hình thức kết cấu đầu cuối tương ứng để thấy em đang trong niềm tự hào về vẻ đẹp trọn vẹn, một vẻ đẹp hình thức được tạo hóa ban tặng đầy tính khách quan và một vẻ đẹp tâm hồn đầy ý thức chủ quan trong sự đấu tranh bảo vệ phẩm giá của mình.

Một sự “khoe mình” đấy chứ! Tính từ miêu tả đầy gợi cảm “trắng”, “tròn” cùng cách điệp phó từ vừa, vế sau sử dụng hai phó từ liên tiếp “lại”, “vừa” tạo nên nốt nhấn để khẳng định vẻ đẹp bất biến về ngoại hình của em. Bài thơ có đề cập đến bi kịch trong sự gian nan vất vả, lận đận và sự trói buộc, định đoạt của chế độ nam quyền lộng hành:

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Đó chỉ là cái cớ để em bộc lộ thái độ sống một cách rõ ràng nhất. Dù chịu bi kịch, nhưng em đã quẫy đạp để thoát vượt ra ngoài bằng nghị lực bản thân cốt sao giữ tấm lòng son. Như thế bi kịch đối với em đã trở nên vô nghĩa. Chuỗi quan hệ từ “mặc dầu”, “mà”, “vẫn” liên tiếp, em hiển hiện một cách cứng cỏi, rắn rỏi, quyết đoán đến thế, xem ra tương phản với vẻ đẹp duyên dáng, mềm mại, thuần khiết của em? Trong xã hội ấy, nếu không mạnh mẽ, quyết liệt thì đâu bảo vệ được phẩm giá của mình. Chính sự cứng cỏi ấy đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn của em. Bài thơ khép lại nhưng vẻ đẹp trắng trong, son sắt mãi mãi lan tỏa giữa cuộc đời để mỗi khi soi mình, ai cũng khao khát vươn tới.

Qua cách sử dụng hình thức kết cấu đầu cuối tương ứng cùng chuỗi quan hệ từ, đến đây, người đọc cảm nhận được bi kịch đang bị chìm xuống trước một bản lĩnh sống phi thường, quyết liệt và có phần liều lĩnh để tấm lòng son đọng mãi vào thời gian trong niềm kiêu hãnh! Phải chăng cá tính mạnh mẽ của em mới đủ sức chống chọi với cay nghiệt cuộc đời? Cái nghiệt ngã đó, người phụ nữ trong xã hội phong kiến cam chịu, còn em thì không, dám đối mặt, dám thách thức để thoát ra khỏi sự định đoạt của số phận. Vậy thân em, chẳng phải là chủ thể, là cái tôi trữ tình, một bản ngã sống cá nhân đang trỗi dậy mãnh liệt hay sao? Một cái tôi khác xa cái cái ta được nói đến trong văn học đương thời. Như thế, cách lí giải cụm từ thân em không còn mang nét nghĩa trong ca dao, mà đó là chủ thể trữ tình, cái tôi cá nhân tác giả, điều hiếm thấy trong thơ trung đại. Vì thế, vấn đề chính đặt ra trong bài thơ là ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ trong xã hội phong kiến với sức sống mạnh mẽ như để thoát ra mọi sự ràng buộc hiện tại. Sao em “vùng vẫy” đến thế? Phải chăng là sự phản ứng quyết liệt với một xã hội bất công, ngang trái Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn mà em là hiện thân của bi kịch?

Với Hồ Xuân Hương, một cá tính mạnh mẽ, cái tôi không phải ẩn dấu, duy nhất mà có khi tự xưng, rất rõ trong Mời trầu:

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,

Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

Một người con gái mảnh mai, đứng trước xã hội quyền lực phong kiến ngự trị, trong một bài thơ của mình đã dùng quạt để Mát mặt anh hùng khi tắt gió/ Che đầu quân tử lúc sa mưa. Dám nhấn cả các đấng mày râu rạp xuống dưới câu thơ: Chành ra ba góc da còn thiếu ấy thì sao phải ẩn mình?

Bài thơ bốn câu, hai câu nói về vẻ đẹp, hai câu nói đến bi kịch, nhìn qua có vẻ cân đối trong biểu đạt nội dung, nhưng bi kịch đã chìm lặn xuống để cho vẻ đẹp ngời lên, tỏa sáng . Nằm trong đặc điểm chung của thơ Hồ Xuân Hương, nhìn nhận một cách khách quan hình thức thể hiện tác phẩm, ta có thể khẳng định trong bài thơ Bánh trôi nước, thân em không phải cụm từ chỉ thân phận, mà đó là sự tự hào về những người phụ nữ kiên trung, dám thách thức ngoại cảnh để giữ lấy vẻ đẹp chính mình. Phải chăng bóng dáng Hồ Xuân Hương hiện lên trong bài thơ rất rõ nét?

Nét độc đáo trong nghệ thuật bài thơ qua cách sử dụng hình thức kết cấu đầu cuối tương ứng và chuỗi quan hệ từ liên tiếp đã khắc họa rõ nét hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến mang vẻ đẹp trọn vẹn, một vẻ đẹp vượt ra ngoài giới hạn, luật lệ của nó để sống bằng ý thức cá nhân, bằng bản ngã của mình!

Mượn thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật cổ điển, nghiêm trang, khuôn phép để bộc lộ một thái độ sống mạnh mẽ, một sự bứt phá dữ dội đầy tính hiện đại cũng đủ thấy khát khao sống mãnh liệt, dâng hiến tận cùng cái đẹp cho cuộc đời mà không một rào cản nào ngăn nổi. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn Hồ Xuân Hương luôn mang hơi thở mới cho cuộc đời. Người đời luôn trân trọng và ngưỡng mộ khi mà Hồ Xuân Hương, trong rất nhiều bài thơ của mình, đã bắc được nhịp cầu nối hai thời đại thi ca!