Hành vi hành chính bị kiện là gì

Quyết định hành chính, hành vi hành chính có phải là đối tượng khởi kiện?

     Quyết định hành chính là hình thức thể hiện thẩm quyền của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Đây cũng là một trong những đối tượng của khởi kiện hành chính do cơ quan, cá nhân, tổ chức tiến hành khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính đó đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Quyết định hành chính quy định trong Luật Tố tụng hành chính là quyết định cá biệt, chỉ áp dụng một lần, làm phát sinh quan hệ hành chính giữa một bên là cá nhân, cơ quan có thẩm quyền quản lý hành chính với một bên là cá nhân, cơ quan, tổ chức chịu ảnh hưởng bởi quyết định hành chính đó.

Quyết định hành chính bị kiện; là quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính; là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như; thông báo, kết luận, công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Hành vi hành chính là những phản ứng biểu hiện ra bên ngoài của các cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Biểu hiện của những phản ứng đó thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động nhằm thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

Hành vi hành chính chỉ bị khởi kiện khi nó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hành vi hành chính không gây tổn hại, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân sẽ không bị khởi kiện.

Hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính; là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

Tin liên quan

Vấn đề xác định bên bị kiện trong vụ án hành chính được quy định tại Khoản 7 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính có quy định: Người bị kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết địnhxử lý vụ việc cạnh tranh, lập danh sách cử tri bị khởi kiện”

Điều 2 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng chi tiết khoản 7 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính như sau:

Để xác định người bị kiện khi nào là cá nhân, khi nào là cơ quan, tổ chức thì phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyến giải quyết vụ việc đó. Trường hợp có nhiều luật cùng quy định thẩm quyền ra quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính về một lĩnh vực quản lý thì việc xác định thẩm quyền của người bị kiện khi nào là cá nhân, khi nào là cơ quan, tổ chức phải căn cứ vào luật chuyên ngành.

Ví dụ 1: Căn cứ vào Điều 38 Luật xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2012 thì thẩm quyền xử phạt xử phạt hành chính là Chủ tịch UBND quận huyện. Do đó, người bị kiện trong quyết định xử phạt hành chính phải là Chủ tịch UBND quận huyện. Căn cứ vào Điều 44 Luật đất đai quy định thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất là UBND cấp huyện, do đó người bị kiện trong vụ án hành chính khiếu kiện quyết định thu hồi đất phải là UBND cấp huyện.

Ví dụ 2: Luật Quản lý thuế năm 2006 quy định thẩm quyền ấn định thuế là Chi cục thuế, Cục kiểm tra thông quan…nên người bị kiện trong các vụ án hành chính khởi kiện quyết định ấn định thuế phải là Chi cục thuế, Cục thuế…

Tuy nhiên Luật Quản lý thuế năm 2006 và Nghị định 98/NĐ-CP ngày 07/6/2007 của Chính Phủ quy định, thẩm quyền ban hành các quyết định xử phạt về thuế như truy thu thuế, xử phạt về thuế thì thuộc thẩm quyền của Chi cục trưởng Chi cục thuế, Cục trưởng Cục thuế, Chủ tịch UBND các cấp…Vì vậy, người bị kiện trong những vụ án hành chính phải là cá nhân có thẩm quyền ban hành quyết định đó…

Một vấn đề cũng cần lưu ý trong việc xác định người bị kiện có phải là người được ủy quyền ban hành quyết định hay người có thẩm quyền ban hành quyết định:

Theo quy định của Điều 54 Luật xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2012 thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có thể giao quyền cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, việc giao quyền này phải bằng văn bản quy định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn giao quyền. Như vậy, trong trường hợp này, người có thẩm quyền ban hành quyết định là người ủy quyền chứ không phải là người được ủy quyền và người bị kiện trong vụ án hành chính phải là người đã ủy quyền cho cấp dưới ban hành quyết định đó.

Ví dụ: Chủ tịch UBND T có văn bản ủy quyền nội bộ cho phó chủ tịch ký các quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực xây dựng. Ngày 01/3/2014, phó Chủ tịch UBND quận T ban hành quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực xây dựng đối với chủ hộ của căn nhà số 10/1 đường Nguyễn Cửu Đàm quận T. Như vậy, mặc dù Phó chủ tịch được ủy quyền ký quyết định, nhưng khi xác định người bị kiện trong vụ án hành chính này phải là người mà Luật quy định có thẩm quyền ban hành xử phạt, đó là Chủ tịch UBND quận T.

——————

Lưu ý: Trên đây là ý kiến các luật sư, chuyên gia pháp lý của Phamlaw để xác định bên bị kiện khi khởi kiện trong các vụ án hành chính mang tính chất tham khảo, nếu Quý bạn đọc, khách hàng muốn được trao đổi hoặc tư vấn thêm vui lòng kết nối đến tổng đài tư vấn pháp luật chuyên sâu 1900 2118 của Phamlaw để được hỗ trợ và tư vấn triệt để.

Tòa án xác định kiện quyết định hành chính, Viện kiểm sát cho rằng kiện hành vi hành chính

Ông T khiếu nại đến UBND huyện Hàm Tân. Hai tháng sau, UBND huyện ra công văn trả lời khẳng định việc từ chối của UBND xã là đúng. Phần cuối cùng của công văn nêu rõ nội dung trả lời là thông báo cho ông T biết. Người ký ban hành công văn này là phó chủ tịch UBND huyện [ký thay chủ tịch] chứ không phải chủ tịch UBND huyện thay mặt UBND [ký, đóng dấu].
Đầu năm 2014, ông T đã khởi kiện “hành vi hành chính không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của UBND huyện ra TAND huyện này. Nhưng sau khi thụ lý, tòa đã mời ông lên để điều chỉnh lại đối tượng khởi kiện thành “yêu cầu hủy bỏ quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai”.Tại phiên xử sơ thẩm ngày đầu 9/2014, tòa án vẫn xác định đây là vụ kiện quyết định hành chính. Đại diện Viện kiểm sát thì có quan điểm khác. Theo đại diện Viện kiểm sát, công văn trả lời khiếu nại của ông T là văn bản hành chính cá biệt của chủ tịch huyện [phó chủ tịch huyện ký thay] nên phải kiện hành vi hành chính mới đúng. Nếu xác định văn bản này là quyết định hành chính của UBND huyện thì phải xem lại thẩm quyền ban hành. Trong trường hợp này người ký phải là chủ tịch huyện thay mặt UBND huyện mới chính xác.Hội đồng xét xử xác định đối tượng khởi kiện là công văn trả lời khiếu nại của UBND huyện. Bởi công văn này chứa nội dung của quyết định hành chính, do đó việc tòa án xác định đối tượng khởi kiện là quyết định hành chính là đúng [căn cứ Điều 1 Nghị quyết 02/2011 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao [hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính].Ngoài ra, Hội đồng xét xử nhận định theo các quy định hiện hành, việc phó chủ tịch huyện ký thay chủ tịch huyện trong công văn của UBND là không đúng thẩm quyền. Nhưng thực chất công văn này là ý kiến của UBND huyện, nên dù phó chủ tịch có ký thay chủ tịch thì cũng không ảnh hưởng đến nội dung của quyết định.

Đối tượng bị kiện là hành vi không cấp đất


Các chuyên gia nhận xét trong vụ án này, tòa án phải xác định đối tượng khởi kiện là hành vi hành chính mới chính xác. Các chuyên gia cho rằng: Theo khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 02/2011, việc kiện những văn bản thể hiện dưới hình thức thông báo, kết luận, công văn chứa đựng nội dung của quyết định hành chính thì được coi là kiện quyết định hành chính. Tuy nhiên, cụm từ “chứa đựng nội dung của quyết định hành chính” phải được hiểu là văn bản đó có nội dung buộc hoặc không buộc người được thông báo thực hiện một nghĩa vụ nào đó. Ví dụ, ngoài việc trả lời bác khiếu nại, công văn còn buộc đương sự phải chấp hành việc đóng phạt một khoản tiền… Lúc đó mới có thể coi công văn này là văn bản chứa đựng nội dung của quyết định hành chính vì quyết định hành chính về bản chất là buộc đối tượng phải thực hiện một vấn đề cụ thể. Trong khi đó, công văn trả lời của UBND huyện Hàm Tân cho ông T chỉ hàm chứa một nội dung thông báo không cấp giấy đỏ chứ không buộc hay buộc ông T phải làm gì.Công văn trả lời khiếu nại của UBND huyện Hàm Tân có ý nghĩa và nội dung như một thông báo về kết quả xử lý yêu cầu của ông T chứ không chứa đựng nội dung của quyết định hành chính [nội dung công văn cũng có chữ “thông báo cho ông T biết”]. Công văn này đơn thuần chỉ mang tính thông báo chứ không mang dáng dấp của quyết định hành chínhtheo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2011.

Trong trường hợp trên, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đỏ là UBND huyện Hàm Tân, nên tòa án phải xác định đối tượng bị kiện là hành vi không cấp giấy, gắn với chủ thể UBND huyện. Như vậy tòa án phải xác định người bị kiện là UBND huyện, mà người đại diện là chủ tịch UBND huyện. Do vụ án đã được xử sơ thẩm [tòa bác yêu cầu khởi kiện của ông T] nên Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị, ông T có quyền kháng cáo để cấp phúc thẩm xác định lại đối tượng bị kiện.

-----

Trích Điều 1 Nghị quyết 02/2011 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao
1. Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết vụ án hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm [trừ những văn bản thông báo của cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết, xử lý vụ việc cụ thể theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó] bao gồm:

a] Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính;

b] Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại điểm a khoản này.

2. Hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết vụ án hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật...


Theo Pháp luật TP

Video liên quan

Chủ Đề