Hiệp ước nhâm tuất được ký vào thời gian nào năm 2024

Nhiều người đã dùng thơ văn để chiến đấu chống giặc là ai?

A

Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Huân Nghiệp, Phan Văn Trị,…

B

Nguyễn Đình Chiểu, Trương Quyền, Phan Văn Trị,..

C

Nguyễn Đình Chiểu, Phan Tồn, Phan Liêm,…

D

Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân,…

Ngày 5 tháng 6 năm 1862 (tức ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Tuất, Tự Đức năm thứ 15), chánh sứ Phan Thanh Giản và phó sứ Lâm Duy Hiệp, đại diện triều Nguyễn (thời vua Tự Đức) ký Hòa ước Nhâm Tuất với đại diện của Pháp: Bonard, Thiếu tướng hải quân, Phó đô đốc, Tổng chỉ huy liên quân Pháp- Tây Ban Nha và đại diện Tây Ban Nha: Guttierez, Đại tá, Chỉ huy trưởng quân đội viễn chinh Tây Ban Nha tại Nam Kỳ.

Trong lịch sử Việt Nam, Hòa ước Nhâm Tuất được đánh giá là hòa ước bất bình đẳng “đầu tiên” của Việt Nam ký với Pháp, một “hàng ước” của triều đình Nguyễn.

Vào thời điểm năm 1862, tại Bắc Kỳ đang diễn ra hàng loạt cuộc nổi dậy, đánh phá dữ dội, đáng kể nhất là của Tạ Văn Phụng và Cai Tổng Vàng, Nông Hùng Thạc…Trong khi đó, tại Nam Kỳ, thực dân Pháp đã đánh chiếm được bốn tỉnh: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long. Triều đình Nguyễn cho rằng đối phó cùng một lúc với chiến tranh ở Bắc và ở Nam thì rất nguy hiểm, nên vội vã tính cách nghị hòa với Pháp. Theo lịch sử thực tế, nửa đầu năm 1862 lại là thời gian khủng hoảng nhất của quân viễn chinh Pháp ở chiến trường Việt Nam: địch vấp phải khó khăn trước phong trào kháng chiến phát triển mạnh của nhân dân; tác động xấu từ thất bại ở Syrie, sa lầy ở Mexico, làn xóng phản đối trong nước…Động thái nghị hòa của nhà Nguyễn thực sự là may mắn của quân Pháp, trong khi địch đang chuẩn bị đối diện một tình huống xấu. Những năm trước đó, triều đình Huế vẫn tỏ ra câm lặng trước những phương án Pháp đưa ra, nhưng, lần này lại nhanh chóng “nghị hòa và ký kết”.

Hiệp ước nhâm tuất được ký vào thời gian nào năm 2024

Chánh sứ Phan Thanh Giản (1796-1867), người đại diện triều đình nhà Nguyễn ký Hòa ước Nhâm Tuất (5/6/1862) với Pháp tại Sài Gòn.

Thực chất, nhà Nguyễn hiểu về địch quá kém hay sự so sánh các mối nguy, khiến họ cho rằng tình trạng Bắc Kỳ đáng lo, và gây khả năng đe dọa ngai vàng cao hơn? Dù là vì cách suy nghĩ nào, thì nhà Nguyễn cũng đã quá vội vàng trong ký kết, khiến cho phía ta phải chịu lấy những điều khoản quá nặng nề. Hòa ước Nhâm Tuất có 12 điều, ngoại trừ các điều khoản mang tính chất ngoại giao, các điều khoản sau đây đều thể hiện rõ sự bất bình đẳng của Hòa ước Nhâm Tuất:

Khoản 2: Thần dân hai nước Pháp và Tây Ban Nha được hành đạo Gia Tô ở nước Đại Nam, và bất luận người nước Đại Nam ai muốn theo đạo Gia Tô, đều sẽ được tự do theo, nhưng những người không muốn theo đạo Gia Tô thì không được ép họ theo.

Khoản 3: Chủ quyền trọn ba tỉnh là Biên Hòa, tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường, cũng như đảo Côn Lôn, do hiệp ước này, được hoàn toàn nhượng cho hoàng đế nước Pháp. Ngoài ra, các thương gia Pháp được tự do buôn bán và đi lại bằng bất cứ tàu bè nào trên sông lớn của xứ Cam Bốt và trên tất cả các chi lưu của con sông này; các tàu binh Pháp được phép đi xem xét trên con sông này hay trên các chi lưu của nó cũng được tự do như vậy.

Khoản 4: Sau khi đã nghị hòa, nếu có nước ngoài nào muốn, bằng cách gây sự hoặc bằng một hiệp ước giành lấy một phần lãnh thổ của nước Đại Nam, thì hoàng đế nước Đại Nam sẽ báo cho hoàng đế nước Pháp biết bằng một sứ thần,.. để hoàng đế nước Pháp được hoàn toàn tự do đến tiếp cứu nước Đại Nam hay không. Nhưng, nếu trong hiệp ước với nước ngoài nói trên, có vấn đề nhượng địa, thì sự nhượng địa này có thể được thừa nhận nếu có sự ưng thuận của hoàng đế nước Pháp.

Khoản 5: Người các nước Pháp và Tây Ban Nha được tự do buôn bán tại ba hải cảng là Tourane (Đà Nẵng), Ba Lạc và Quảng An ( Quảng Ninh). Người nước Đại Nam cũng được tự do buôn bán tại các hải cảng của nước Pháp và Tây Ban Nha như vậy, nhưng phải theo thể thức luật định...

Khoản 8: Hoàng đế nước Đại Nam sẽ phải bồi thường một số tiền là bốn triệu đôla, trả trong 10 năm. Vì nước Đại Nam không có tiền đôla sẽ được tính bằng 72% lạng bạc

Khoản 9: Nếu có cướp bóc, giặc biển hoặc kẻ gây rối người nước Nam nào, phạm tội cướp bóc hoặc gây rối trên các đất thuộc Pháp, hoặc nếu có người Âu Châu phạm tội nào đó, lẩn trốn trên đất thuộc nước Nam thì ngay khi nhà nước Pháp thông tri cho nhà chức trách Đại Nam, giới chức này phải cố gắng bắt giữ thủ phạm để giao nộp cho nhà chức trách Pháp. Vấn đề cướp bóc, giặc biển hay quân phiến động nước Nam sau khi phạm tội, lẩn trốn trên đất thuộc Pháp, cũng sẽ được xử như vậy.

Khoản 10: Dân chúng ba tỉnh là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên sẽ được tự do buôn bán trong ba tỉnh thuộc Pháp miễn tuân theo luật lệ hiện hành, nhưng những đoàn tàu chở binh lính, vũ khí, đạn dược hay lương thực giữa ba tỉnh nói trên và Nam Kỳ chỉ được thực hiện bằng đường biển. Tuy nhiên, hoàng đế nước Pháp thuận cho các đoàn tàu chở các thứ trên vào Cam Bốt được có cửa khẩu là lạch Mỹ Tho (Định Tường), gọi là Cửa Tiền, song với điều kiện là các giới chức Đại Nam phải báo trước cho đại diện của hoàng đế nước Pháp, vị đại diện này sẽ trao cho họ một giấy thông hành. Nếu thể thức này không được tuân theo, và một đoàn vận tải như vậy nhập nội mà không có giấy phép thì đoàn đó và những gì hợp thành đoàn đó sẽ bị bắt giữ và các đồ vật sẽ bị phá hủy.

Khoản 11: Thành Vĩnh Long sẽ được binh lính (Pháp) canh gác cho đến khi có lệnh mới mà không ngăn cản bằng bất cứ cách nào hoạt động của các quan Đại Nam. Thành này sẽ được trao trả cho hoàng đế nước Đại Nam ngay khi Ngài đình chỉ cuộc chiến loạn do lệnh Ngài tại các tỉnh Gia Định và Định Tường, và khi những người cầm đầu cuộc phiến loạn này ra đi và xứ sở được yên tĩnh và quy phục như trong một xứ bình yên.

Hiệp ước nhâm tuất được ký vào thời gian nào năm 2024

Chánh sứ Phan Thanh Giản và Phó sứ Lâm Duy Hiệp ký hòa ước Nhâm Tuất (5/6/1862) với Pháp tại Sài Gòn.

Thực tế, tháng 3- 1863, Hiệp ước này mới được Napôlêông III phê chuẩn. Ngày 16- 4- 1863, Bonard và Guttierez mang Hiệp ước ra Huế để Tự Đức ký. Hiệp ước Nhâm Tuất tồn tại cho đến ngày 15- 3- 1874, thì bị thay thế bằng Hòa ước Giáp Tuất 1874, theo chiều hướng có lợi cho Pháp hơn nữa.

Ngay khi Hòa ước Nhâm Tuất được ký kết dễ dàng, triều đình Huế đã nhận ra sự thua thiệt của mình, cũng như nghe thấy sự bất bình của dân sĩ miền Nam. Nên, song song với việc điều quân đi trấn áp các cuộc nổi dậy ở đất Bắc, triều đình Tự Đức cũng lên kế hoạch khẩn trương đi chuộc đất nhưng không thành công. Sự nhu nhược của nhà Nguyễn và sự bất bình đẳng trong hòa ước này đã tạo nên sự biến đổi trong dân sĩ Nam Kỳ. Từ sau hòa ước, ngọn cờ chống thực dân Pháp xâm lược đã chuyển hẳn sang tay nhân dân, lần lượt từ ba tỉnh miền Đông sang ba tỉnh miền Tây, rồi từ Nam ra Bắc, tạo nên diễn biến mới trong lịch sử Việt nam nửa sau thế kỷ 19./.